Chúa Nhật XXIV Mùa Thường Niên, năm C
« Ông này đón tiếp phường tội lỗi »
(Lc 15, 1-32)
1. Đức Giê-su và những người tội lỗi
Vào thời của Đức Giê-su, có những người bị coi là tội nhân một cách công khai : vì họ có một thứ nghề nghiệp, bị mọi người coi là xấu, chẳng hạn nghề thu thuế như ông Gia-kêu (x. Lc 19), hoặc vì họ không có đời sống luân lí tốt, chẳng hạn người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7), hay vì họ không giữ những nghi thức hay qui định đạo đức, chẳng hạn các nghi thức thanh tẩy, ăn chay, ngày Sa-bát…. Họ bị mọi người khinh chê, nhất là các người Pha-ri-sêu và luật sĩ.
Đức Giê-su để cho mình bị đóng đinh trên Thánh Giá, mầu nhiệm mà chúng ta suy tôn hôm qua cùng với toàn thể Giáo Hội, để chúng ta nhìn ra hình ảnh khủng khiếp của thú tính và nhờ đó được chữa lành. Nhưng chúng ta dường như chưa chịu nhìn, hoặc nếu có nhìn, thì nhìn ra những điều khác. Bằng chứng là chúng ta vẫn « đóng đinh » nhau, nghĩa là vẫn cư xử với nhau theo cách của người đời, của kẻ dữ, của Satan, nghĩa là của thú tính. Thánh Phao-lô trong thư Roma chấn vấn chúng ta : « Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa… Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em ? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em ? » (Rm 14, 8.10).
Chúng ta hãy trở lại với Lời Chúa trong bài Tin Mừng để nhìn ngắm cách Đức Giê-su đón tiếp những người tội lỗi, những người yếu kém, những người nhỏ bé : họ đến để lắng nghe Ngài ; và Ngài không chỉ đón tiếp họ, nhưng còn dùng bữa với họ. Đón tiếp và dùng bữa với ai, đó chính là làm bạn, thậm chí trở nên một với người đó. Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh Đức Giê-su ở giữa những người tội lỗi, bởi vì hình ảnh này rất đánh động và an ủi đối với chúng ta.
Trong Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục ban lời của Ngài cho chúng ta, vốn là những người tội lỗi, yếu kém và nhỏ bé, và còn hơn cả việc dùng bữa với chúng ta, Ngài tự biến thành lương thực nuôi chúng ta cho sự sống muôn đời. Kinh nghiệm được đón tiếp bởi Đức Giê-su, khi mà chúng ta vẫn còn là tội nhân, yếu kém và nhỏ bé, mang tính quyết định để chúng ta cũng có thể đón tiếp người khác, như họ là. Kinh nghiệm này cũng mang tính quyết định để chúng ta có thể ra khỏi chính mình để đi vào niềm vui lớn lao của Thiên Chúa và các Thiên Thần của Ngài trên trời.
2. Các dụ ngôn
Để thay đổi hình ảnh lệch lạc của chúng ta về thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân, và để giải thích tại sao Ngài không chỉ tiếp đón những người tội lỗi, mà con ăn uống với họ nữa, nghĩa là còn Ngài kết bạn với họ, Đức Giê-su kể « một hơi » ba dụ ngôn : dụ ngôn con chiên, dụ ngôn đồng bạc và dụ ngôn người cha có hai người con (Lc 15, 4-32). Và trên Thập Giá, Ngài còn đi xa hơn, khi để cho mình bị bắt và bị lên án như là tội nhân và chịu chết giữa các tội nhân.
Với bài Tin Mừng khá dài của Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hiểu cả ba dụ ngôn cùng nhau, vì các dụ ngôn soi sáng cho nhau và nêu bật những khía cạnh đặc biệt của mỗi dụ ngôn. Thật vậy, ba dụ ngôn có một thứ tự đặc biệt khiến chúng ta phải chú ý : 100 con chiên trong đó có một con bị mất ; 10 đồng quan, có một đồng bị mất, và 2 người con, một người bị hư mất. Như thế, xét về con số, sự mất mát càng lúc càng lớn : một trên một trăm, một trên mười và một trên hai ; hơn nữa, xét về điều bị mất, ban đầu là con vật, sau đó là đồng tiền, và trường hợp thứ ba là một người con, mà người con thì vô giá.
Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này, giá trị mất mát càng lớn, thì niềm vui sẽ càng lớn, khi tìm lại được. Chính vì thế, người cha, khi mở rộng vòng tay đón nhận người con hư mất trở về, đã mở tiệc ăn mừng ; trong khi với trường hợp con chiên và đồng tiền tìm lại được, người ta chỉ chia sẻ tin vui thôi, với bạn bè và hàng xóm.
Tuy nhiên, cả ba dụ ngôn có một sứ điệp khác đánh động chúng ta không kém : đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta, như thể, chúng ta là duy nhất, là quí nhất là yêu nhất, trong con mắt của Chúa. Và dụ ngôn đầu tiên làm bật lên sứ điệp này một cách rạng ngời nhất : « Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. »
Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành đích thân cho từng người chúng ta như là « Đối Tượng Duy Nhất » trong Đức Ki-tô. Và thực vậy, dù chúng ta là ai, ở trong tình trạng nào, mỗi người chúng ta đều là : « Người môn đệ Đức Giê-su thương mến. »
3. Dụ ngôn « Người cha có hai người con »
Dụ ngôn « Người Cha Nhân Hậu », hay chúng ta có thể gọi là dụ ngôn « Người cha có hai người con », vì tất cả các nhân vật trong dụ ngôn đều mang nặng ý nghĩa và đều đụng chạm đến mỗi người chúng ta, nói về tương quan của từng người chúng ta với Chúa, và tương quan của chúng ta với nhau ; và tương quan nào cũng bị đổ vỡ, tổn thương và sứt mẻ. Chúng ta hoàn toàn bất lực để hàn gán ; vì thế, chúng ta hãy để cho Lời Chúa và Mình Thánh của Chúa, hòa giải chúng ta với Thiên Chúa Cha và hòa giải chúng ta với nhau.
a. Người cha và người con thứ
Chúng ta được mời gọi nhận ra sự nghiêm trọng trong lời người con thứ nói với người cha và trong hành động của anh : cha chưa chết mà đã đòi chia gia tài ; hành động của anh là có kế hoạch : bước một, xin chia gia tài ; bước hai, để đó ít ngày ; và bước ba, ôm gia tài đi xa. Bao nhiêu ơn huệ cha ban anh quên hết, tình yêu của cha và chính con người cha anh cũng quên luôn ; anh chỉ tìm cách thỏa mãn lòng ham muốn của mình mà thôi. Chúng ta có thể nhận ra nơi anh, bản chất của Tội, được mặc khải bởi sách Sáng Thế : quên ơn huệ, quên Đấng ban ơn huệ và chiều theo lòng ham muốn của mình ; ở đây là ham muốn có, ham muốn sở hữu, chiếm hữu bất chấp tương quan con thảo với cha. Chiều theo lòng ham muốn, anh sẽ đánh mất chính điều anh tìm cách chiếm hữu và đánh mất luôn tất cả, tất cả ; tất cả trong đó có chính anh !
Người con thứ hí hửng thu góp bỏ nhà bỏ cha ra đi để sống điều mà anh nghĩ là « một cuộc sống tự do, hưởng thụ, vui vẻ ». Thật ra anh đang là nô lệ, nô lệ cho lòng ham muốn, cho thú tính, cho đam mê chiếm hữu của anh. Vì thế, chỉ ít lâu sau, anh trở thành nạn nhân, thay vì làm chủ được đời mình : Điều anh muốn sở hữu, làm chủ, rốt cuộc rồi sẽ tiêu tán tất cả, không chỉ tiêu tán những gì anh có, nhưng tiêu tán cả chính bản thân anh, chính nhân phẩm của anh, thậm chí chính nhân tính của anh.
Thật vậy, gặp cơn khốn khó, là điều không thể tránh được trong cuộc đời ; và lúc đó, anh bị hạ thấp xuống hàng tôi tớ, và tệ hơn nữa là hàng súc vật ; trong khi đó, trong nhà cha, anh được sinh ra là con và để mãi mãi là con. Đoạn tuyệt tương quan với cha, thì tất yếu rơi vào tình cảnh như thế. Bởi vì chỉ ở nơi Cha, ở nhà cha, mới có sự sống, ánh sáng, nhân tính được thăng hoa, mới có tình yêu nhưng không ; ở ngoài cha, chỉ là sự chết, bóng tối, mất nhân tính và ghen ghét, thiếu tôn trọng, bạc đãi…
Chúng ta cũng trở nên người con hoang đàng khi tự biến mình thành chủ nhân những gì mình có và mình là, coi những gì mình là và mình có là « quyền phải có », là « gia tài » Thiên Chúa buộc phải cho phải chia, và sử dụng và phung phí theo ý mình. Xin cho chúng ta nhận ra hậu quả tồi tệ của thái độ này : đánh mất, trở thành nô lệ, mất nhân tính…
Chính tình cảnh đánh mất nhân tính, đánh mất phẩm giá làm con, mà việc thiếu ăn thiếu uống chỉ là biểu hiện, làm cho người con thứ hồi tâm : « thôi ta đứng lên đi trở về cùng Cha ». Chúng ta hãy hình dung ra hình ảnh : người con đứng thẳng lên, bước đi hướng về nhà Cha, về ngôi vị của Cha ; hình ảnh thật đẹp và đầy ý nghĩa, vì đã diễn tả sự tái sinh mà con tim của người Cha hằng mong chờ.
Hơn nữa, anh được thúc đẩy thân thưa với cha, và chúng ta có thể coi đó như « bản xưng tội » : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. Chúng ta nên bắt chước xưng tội như người con thứ : thay vì chỉ dừng lại ở việc làm bản thống kê : làm gì, chi bao nhiêu, cho ai, bao nhiêu lần, ở đâu. Một bản thống kê như thế, dù có đúng và đủ, nhưng làm sao đúng và đủ được, xem ra không có ích lợi thiêng liêng gì, và chắc chắn, đó cũng không phải là điều người cha muốn nghe, là điều Chúa muốn nghe. Vấn để là nhận ra gốc rễ, nhận ra thái độ vô ơn, nhận ra những hình ảnh những ý nghĩ sai lầm… đã dẫn đến những hành vi như thế. Thay vì, làm bản thông kê, chúng ta hãy để cho Lòng Thương Xót lôi cuốn chúng ta, làm cho trái tim chúng ta bừng cháy lửa yêu mến Chúa, tái sinh chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi sự dữ và thay đổi tương quan của chúng ta đối với mọi sự, trong đó có chính bản thân chúng ta.
Anh hồi tâm ; anh nhớ nhà ; anh tự xét mình và ra án cho mình : mình chỉ có thể là tôi tớ thôi. Đó là bản án tất yếu, nếu mình là quan tòa của mình. « Thế rồi anh đứng lên đi về cùng cha ». Điều gì đã làm cho anh có can đảm trở về, nếu không phải là kinh nghiệm sâu sa, từ lúc sinh ra cho đến lúc anh bỏ nhà ra đi, về lòng nhân từ của người cha ?
Nhưng rồi khi về, anh đã được cha nhận ra từ xa, khi anh chưa nói gì, vì cha chỉ cần anh « đứng lên trở về » thôi ; và lòng cha rộn lên thay vì quặn đau như lúc anh ra đi; lòng cha rộn lên và bùng phát thành những cử chỉ thật âu ếm… thành những lời nói vui mừng, mời gọi cả nhà, và chắc chắc cả hàng xóm nữa. Lời cha lấn ắt cả lời tự thú của anh. Anh chửng hửng trước cử chỉ, thái độ và con tim của cha ; hãy lưu lại để cảm nếm sự chửng hửng của anh.
Cha đã chờ đợi từng ngày, ngày này qua ngày kia ; cha không trói anh lại, cha không sai người đi bắt anh về ; vì cha là tình yêu ; tình yêu chỉ biết chờ đợi lời đáp tự do mà thôi, và chờ đợi đến tận cùng.
Hơn nữa, đó là « sức mạnh và khôn ngoan » của người cha : cha không chỉ tha thứ, nhưng con muốn chữa lành, giải thoát anh khỏi Sự Dữ, nhưng không phải bằng kết án, hình phạt và bạo lực, nhưng bằng « tình yêu đến cùng ». Sức mạnh và khôn ngoan của người cha nhân hậu trong dụ ngôn, trở thành hiện thực nơi Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Chúng ta được mời gọi xác tín điều này : Thiên Chúa, Người Cha nhân hậu của chúng ta, không muốn kết án chúng ta, vì hành vi này không phù với bản chất của Người, là tình yêu và chỉ là tình yêu (« kết án », kết án mình và kết án nhau, là hành vi thuộc về ma quỉ và của ma quỉ : « Vì Satan, kẻ tố cáo anh em của Ta… » (Kh 12, 10), nhưng muốn « tái sinh » chúng ta trong niềm vui khôn tả : « chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy ».
Chúng ta hãy chiêm ngắm thật lâu cách cha đón nhận anh, vượt xa vô hạn những gì anh chờ đợi : anh đã chết đối với cha, cha cho anh tái sinh trong mắt cha, trong lòng cha, trong nhà cha, và tái sinh trong lòng tất cả mọi người khác trong nhà nữa. Chúng ta hãy nhìn, nghe và quan sát mọi người trong nhà để cảm nếm bầu khí vui mừng lễ hội. Nhưng có một người không vui ! Và người đó lại là ông anh, là người thân trong nhà. Hiện tượng này thật là kì dị ! Nhưng lại không hiếm thấy, ở mọi nơi và mọi thời.
b. Người cha và người con lớn
Chúng ta hãy nhìn, nghe và quan sát thái độ và cử chỉ của người con lớn. Anh làm việc chăm chỉ tận tụy vất vả, nhưng đó chỉ là vẻ bề ngoài, lòng anh đầy bất ổn, ấm ức và bực tức : anh là con, nhưng lại sống như người tôi tớ, sống tương quan chủ tớ với cha ; anh ghen tức với em, không nhìn nhận em, muốn loại trừ em, thay vì nhìn nhận con của cha là em mình, thay vì chúc mừng em « đã chết, nay sống lại », « đã mất, này tìm thấy », « đã không xứng là con, nay được cha phục hồi ». Bản chất của tội mà Sách Sáng Thể (St 3, 1-7) diễn tả cũng hoành hành ở trong anh nặng nề không kém, và còn hơn nơi người em. Như thế, lòng anh cũng « xa » cha không kém : anh là con nhưng anh tự coi mình là tôi tớ có nhiệm vụ « hầu hạ » và vâng lệnh cha tuyệt đối ; anh nhìn cha như ông chủ ; vì thế đòi trả công và ghen tị với em : dê con (c. 29), bê béo (c. 30) ; anh nổi giận, không chịu vào nhà, nhà của cha, nhà của anh.
Tương quan giữa hai anh em tượng trưng cho tương quan giữa chúng ta. Tương quan này có vấn đề vì tương quan gốc có vấn đề, nghĩa là tương quan của từng người con với người cha. Vì vậy mà cha nhắc lại ân huệ cha dành cho anh, vượt xa vô hạn nhưng gì anh « thèm muốn » : « con ơi, con của cha, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con » (c. 31) ; sau đó cha mới mời gọi anh nhìn nhận em mình, vui với em, với cha và với cả nhà : « Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy » (c. 32).
* * *
Cha muốn trao ban hết, nhưng những người con của cha lại tính toán : chia chắc, tính công, so đo…. Cha vẫn còn đau khổ chờ đợi, vì người con lớn vẫn chưa trả lời. Và có lẽ, lời nói mà Cha chờ đợi nơi anh là : « tất cả những gì của con là của Cha ». Còn về người con thứ, Cha vẫn sẽ kiên nhẫn đồng hành với hành trình « tái sinh », chắc chắn là lâu dài và không dễ dàng của người con út. Và với chúng ta cũng vậy, Cha vẫn đợi, vẫn kiên nhẫn và bao dung đợi từng người chúng ta.
Dụ ngôn nói về tương quan của từng người chúng ta với Chúa, và tương quan của chúng ta với nhau, trong cùng một gia đình, trong cùng một cộng đoàn, một nhóm hay một xứ đạo ; và tương quan nào cũng bị tổn thương, sứt mẻ, cần được hàn gán, phục hồi, hòa giải. Đó chính là sứ mạng của Đức Giê-su, Ngài lấy lời, hành động và chính thân mình để hòa giải từng người chúng ta với Chúa Cha, và từng người chúng ta với nhau.
Giuse Nguyễn Văn Lộc