Ngày 19 tháng 12 năm 2013
« Bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai »
(Lc 1, 5-25)
1. Truyền tin cho ông Dacaria và truyền tin cho Đức Maria
Sự kiện ông Dacaria và bà Elizabet, vừa hiếm muộn và vừa cao niên, nhưng vẫn sinh con như lời sứ thần loan báo trong bài Tin Mừng, có tương quan đặc biệt đối với lịch sử cứu độ và đối với lời “xin vâng” của Đức Maria, vốn làm cho lịch sử cứu độ được hoàn tất nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể. Chúng ta sẽ nghe lại lời “xin vâng” của Đức Maria trong biến cố truyền tin trong Thánh Lễ ngày mai. Thực vậy, trong trình thuật truyền tin cho Đức Maria, trường hợp bà Elizabet, vừa hiếm muộn và vừa cao niên, nhưng vẫn thụ thai, được nêu ra hai lần một cách long trọng:
Ø Và lần thứ hai, trường hợp của bà Elizabet làm nên chứng từ về quyền năng sáng tạo sự sống của Thiên Chúa ; và lời chứng này đủ mạnh để cho Đức Maria can đảm thưa « xin vâng ». Thực vậy, sứ thần Gabrien đã thuyết phục Đức Maria : « Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được »
Như thế, sự kiện bà Elizabeth với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng vẫn có thể mang thai, có ý nghĩa đặc biệt trong lời xin vâng của Mẹ và trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, bởi vì sự kiện này nhắc nhớ cách hành động của Đức Chúa trong toàn bộ lịch sử cứu độ. Đó là trường hợp các phu nhân hiếm muộn của các tổ phụ, mà vẫn cứ sinh con được, và tiêu biểu nhất là bà Sara, vợ của tổ phụ Abraham. Và rộng hơn nữa, Đức Chúa có thể mở lối cho Dân Người đi, ở nơi không thể, là biển cả, là đường cùng, là tai họa, là sự dữ, là tội lỗi, như lời Thánh Vịnh diễn tả : « Đường của Chúa băng qua biển rộng, lối của Người rẽ nước mênh mông, mà chẳng ai nhận thấy vết chân Người » (Tv 77, 22). Và còn rộng hơn nữa, Đức Chúa là Đấng sáng tạo ra sự sống, làm trào vọt ra sự sống từ lòng dạ « vô sinh » của thiên nhiên, trong công trình tạo dựng. Như thế, Thiên Chúa là Đấng có thể làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người không còn hi vọng gì và không thể làm gì được.
Với Đức Maria, đó cũng là một tuyệt tác, nhưng là một tuyệt tác còn lớn hơn và là duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi : đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, nơi biến cố truyền tin, truyền tin cho ông Dacaria và nhất là cho Đức Maria, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Dưới ánh sáng của mầu nhiệm truyền tin, chúng ta được mời gọi nhận ra hành động « Vượt Qua » của Thiên Chúa trong lịch sử của gia đình, của Hội Dòng, của Tu Hội, của giáo xứ chúng ta, trong cuộc đời và trong hành trình ơn gọi của chúng ta, để chúng ta có thể đi theo Đức Ki-tô và phục vụ cho sứ mạng của Ngài, không phải bằng sức lực và khả năng của chúng ta, nhưng quyền năng và sức mạnh của Chúa.
Và biến cố Truyền Tin cũng bày tỏ cho chúng ta yếu tính của sống dân hiến: đó là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh của Người, theo hình ảnh của Đức Ki-tô, ở nơi không thể, là thân xác trinh nguyên của chúng ta, theo cách thức mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Maria. « Trinh nguyên », tiên vàn theo nghĩa thiêng liêng (bởi vì trinh nguyên thể lý tuyệt đối là không thể và chỉ là vẻ bề ngoài), nghĩa là một con tim khát khao dành trọn cho một mình Chúa và tình yêu của Người.
2. Ông Dacaria : hành trình hướng tới lời ca tụng
Về chuyện ông Dacaria bị câm, như bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta, nhưng sau này, ngay sau khi đặt tên cho con là Gioan, thì ông nói được, cũng rất có ý nghĩa. Sự kiện ông không nói được, là một dấu chỉ nhắc nhớ ông rằng, có một lúc ông đã không tin vào quyền năng Thiên Chúa có thể thi ân ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, có thể làm phát sinh sự sống nơi cung lòng hiếm hoi và già cỗi của bà Elizabeth. « Không nói được », không chỉ là không nói được ngôn ngữ, nhưng nhất là không thể ca tụng Chúa được. Thật vậy, khi người ta không tin, không nhận ra ơn Chúa ban cho mình và người khác, thì không thể ca tụng Chúa được ; và khi ghen tị nhau và kêu trách Thiên Chúa, người ta càng không thể tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa.
Chính khi ông đặt tên cho con là Gioan, « Gioan » có nghĩa là Thiên Chúa Thi Ân, thì ông « lưỡi ông lại mở ra, ông nói được » và lời nói đầu tiên là lời chúc tụng Thiên Chúa :
Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Israel,
đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Đó là lời tán tụng Benedictus bất hủ, vang lên mỗi ngày trong Giờ Kinh Sáng của chúng ta. Ước gì, khi đọc hay hát lời chúc tụng này, chúng ta mặc lấy tâm tình của ông Dacaria. Hình ảnh giấc ngủ còn dẫn chúng ta đi xa hơn, đó là lúc chúng ta nhắm mắt và câm lặng tuyệt đối trong sự chết, nhưng với niềm hi vọng lại được mở mắt và mở miệng chúc tụng Thiên Chúa trong niềm vui của Sáng Tạo Mới.
Xin cho chúng ta tin tưởng và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, để có thể cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa : « Lạy Chúa, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài ». Nếu không, dù chúng ta có nói bi bô suốt ngày, thì cũng như là « người câm » vậy thôi ! Nhưng chúng ta được mời gọi đi xa hơn, bằng cách định hướng đời mình và từng ngày sống theo năng động chúc tụng Thiên Chúa. Và để được như thế, chúng ta cần tín thác và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, cần đặt đời sống, ngày sống và hành động trên nền tảng tâm tình biết ơn.
Mỗi sáng, khi hát bài ca Benedictus, có lẽ chúng ta ít chú ý đến điều gì hay đúng hơn hành trình nào, đã dẫn ông Dacaria đến lời ca tụng bất hủ này. Thực vậy, theo Tin Mừng Luca, bài ca này là điểm tới của cả một hành trình thật dài : khởi đi từ kinh nghiệm lắng nghe Lời Chúa, ngang qua biến cố gặp gỡ sứ thần Gabriel trong đền thờ, mà bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta, tiếp theo là thời gian hơn 9 tháng thinh lặng, tương ứng với thời gian bé Gioan được cưu mang trong bụng mẹ, và kết thúc bằng biến cố đặt tên ; và từ đó trào vọt lời nói đầu tiên, là bài ca Benedictus, mãi mãi được hiện tại hóa nơi lời kinh hằng ngày và nơi cuộc đời của chúng ta.
Hơn chín tháng câm lặng về mặt thể lí, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu đó một cuộc « tĩnh tâm » dài ; vì chắc chắn, đối với ông Dacaria, đó là thời gian suy niệm và chiêm niệm, để khám phá sự hiện diện và cách hành động của Thiên Chúa trong lịch sử thánh của Dân Chúa, trong đời mình và đặc biệt nơi hồng ân lạ lùng « Gioan ». Chín tháng thinh lặng phải là chín tháng cầu nguyện, để có thể hát lên lời ca tụng Thiên Chúa tuyệt vời như vậy, lời mà Giáo Hội đặt vào miệng chúng ta mỗi ngày trong Giờ Kinh Phụng Vụ. Hơn nữa, đó là lời được thốt ra bởi người « đầy Thánh Thần » (c. 67). Lời ca tụng như thế đã trở thành chính là Lời Chúa cho chúng ta. Rốt cuộc, đối với ông Dacaria, chín tháng mười ngày thinh lặng, chính là thời gian « cưu mang » Lời Chúa. Cũng cùng một thời gian đó, Gioan được cưu mang trong dạ mẹ cách lạ lùng.
3. « Chúc tụng Đức Chúa… »
Lời chúc tụng, của ông Dacaria mà chúng ta nhận làm của mình trong Giờ Kinh Sáng, mở đầu bằng lời công bố lí do chúc tụng : Đức Chúa, là Thiên Chúa của Israel đã viếng thăm cứu chuộc dân Ngài, ngang qua sự xuất hiện của « Vị Cứu Tinh quyền thế » (c. 68-69). Xin cho chúng ta cảm nhận được hồng ân này và được tràn đầy niềm vui như ông Dacaria, mỗi khi chúng ta đọc hay hát bài ca Chúc Tụng này. Bởi vì, Chúa thực sự « viếng thăm cứu chuộc » chúng ta mỗi ngày nơi Đức Giê-su Ki-tô, « Vị Cứu Tinh quyền thế », ngang qua bí tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành mỗi ngày.
Tuy nhiên, biến cố « Thiên Chúa viếng thăm cứu chuộc » không hoàn toàn xa lạ, những đến từ việc nhớ lại ơn huệ đã qua, nhớ lại lịch sử cứu độ và giao ước. Chính vì thế, trung tâm của bài ca Benedictus là việc « đọc lại » lịch sử cứu độ (c. 70-75), ngang qua các vị ngôn sứ và lên đến tận tổ phụ Abraham, và làm bật lên lời hứa giải thoát :
Ø Cứu thoát khỏi địch thù và tay những người ghen ghét (c. 71).
Ø Giải thoát khỏi tay địch thù (c. 73).
Việc đọc lại lịch sử mang lại niềm hi vọng vì nhận ra lời hứa giải thoát. Thực ra, lời hứa giải thoát đã chất chứa ngay trong ơn huệ sự sống rồi ; bởi lẽ, Chúa đã ban sự sống và duy trì sự sống, thì Chúa sẽ ban luôn mãi, vì Ngài là Đấng « trọn bề nhân nghĩa », là Đấng « muôn ngàn đời vẫn trọn tình thường » (Tv 136). Tuy nhiên, trong lời chúc tụng đầy Thánh Thần này, ơn giải thoát được hiểu một cách mới mẻ ; thay vì đó là ơn giải thoát khỏi tay kẻ thù bên ngoài, thì đó là ơn tha tội và ơn « soi sáng » chiếu rọi vào nơi tăm tối và bóng tử thần (c. 76-79). Và Tin Mừng này được loan báo bởi Gioan, vị « Ngôn Sứ của Đấng Tối Cao ».
* * *
Mục đích tận cùng của ơn giải thoát, là để « sống thánh thiện công chính trước nhan Người, mà phụng thờ Người suốt cả đời ta » hay nói theo bài « Nguyên lí và nền tảng » của sách Linh Thao, để « ca tụng, tôn kính và phục vụ Chúa » (LT 23). Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này, kẻ thù bên trong còn « lợi hại » hơn kẻ thù bên ngoài trong việc ngăn cản chúng ta ca tụng Chúa. Vì thế, kẻ thù bên trong, chuyên gieo nọc đọc quên ơn, nghi ngờ, ghen tị và ham muốn mới là kẻ thù đích thật. Và Kẻ Thù này đang hiện diện và hành động mạnh mẽ biết bao trong thế giới chúng ta đang sống. Vì thế, chúng ta thực sự cần ơn giải thoát biết bao.
Khi nhìn ngắm « Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ » thật nhỏ bé, khiêm tốn và hiền lành, xin cho chúng ta nhận ra và kinh nghiệm trong nội tâm và trong đời mình sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sức mạnh thần linh có khả năng giải thoát chúng ta.
Giuse Nguyễn Văn Lộc