ĐÁP TRẢ HỒNG ÂN THÁNH HIẾN
do CHA PHANXICÔ XAVIE VŨ PHAN LONG
Phó BTGT. DÒNG ANH EM HÈN MỌN
TỪ CHIỀU NGÀY 5.6.2006 đến hết ngày 10.6.2007
KHAI MẠC : 16giờ, ngày 5/6/2007
CHỦ ĐỀ :
- Bài giảng 1 : Đời sống thiêng liêng, công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi
- Bài giảng 2 : Đức Kitô chiếm đoạt (Pl 3,14)
- Bài giảng 4 : Đời thánh hiến và đức tin
- Bài giảng 5 : Đức Maria đón nhận Lời Chúa
- Bài giảng 6 : Lời khấn và đời sống
- Bài giảng 7 : Đức Maria để cho Lời Chúa biến đổi
- Bài giảng 8 : Quan niệm đúng về đời thánh hiến
- Bài giảng 9 : Đức Maria sinh hạ Lời Chúa
- Bài giảng 10 : Bài ca đức mến (1 Cr 13)
Bài suy niệm 1: CÁC BÀ ĐÃ CHO ĐI TẤT CẢ
Giờ đây, chúng ta ý thức mình đang ở trước mặt Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thờ lạy Ngài và xin Ngài trợ giúp chúng ta giờ suy niệm và cầu nguyện này.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, vĩnh cửu, công chính và từ bi, vì vinh quang của Chúa, xin ban cho chúng con là những kẻ bần khốn, thực hiện được những điều chúng con biết là Chúa muốn và luôn luôn muốn những điều đẹp lòng Chúa, để nhờ ngọn lửa Thánh Linh thanh luyện, soi sáng và nung nấu tận tâm can, chúng con có thể bước theo vết chân Con yêu dấu Chúa, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Trong Tông thư “Phẩm giá phụ nữ” ngày 15-8-1988, Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã có những nhận định sâu sắc về bản chất người phụ nữ: “Phẩm giá của người phụ nữ được liên kết chặt chẽ với tình yêu họ đã lãnh nhận do chính nữ tính của họ, và đàng khác, phẩm giá đó cũng liên kết với tình yêu họ cho đi… Người phụ nữ chỉ có thể gặp được chính mình trong việc trao hiến tình yêu cho người khác” (s. 30).
Hôm nay, tôi muốn suy niệm về điểm này qua một vài giai thoại trong Kinh Thánh:
1. Trước tiên là câu truyện Ngôn sứ Êlia và bà goá Xarépta trong sách các Vua quyển thứ nhất chương 17, câu 7 đến câu 16:
Ngôn sứ Êlia được cử đến nhà một bà goá ở Xarépta để được bà này nuôi sống qua nạn đói. Khi vị ngôn sứ xin bà chút nước và một miếng bánh, bà cho biết là bà chỉ còn một nắm bột trong hũ và một chút dầu. Bà đang chuẩn bị làm cho bà và con bà chút gì đó mà ăn rồi chết. Vị ngôn sứ nói: “Cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel phán thế này: ‘Hũ bột sẽ không vơi và dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất’. Bà ấy đi và làm như Êlia nói.
Bà goá là người nghèo nhất trong các người nghèo. Bà này lại là người ngoại. Lúc vị ngôn sứ đến, bà còn đang ở trong tình trạng tuyệt vọng. Nạn đói khủng khiếp trong xứ đã làm cho bà không còn thiết sống nữa. Bà đang bình tĩnh chuẩn bị cho bà và đứa con sống những giờ phút cuối đời… Mọt bà goá với một đứa bé trai chết đói giữa bao nhiêu người chết đói, chuyện này chẳng có gì để làm to chuyện! Dù sao, lấy mất miếng ăn cuối đời của một người, cũng là chuyện tàn nhẫn! Nhưng bà đã làm những gì vị ngôn sứ đề nghị.
Bà chia sẻ tất cả những gì bà có với người lạ mặt này, dù đó là những gì bà đang hết sức cần. Và thế, cho dù bà còn đang hoài nghi, chuyện lạ thường đã xảy ra cho bà: chút ít ỏi đã được nhân lên trong đôi tay sẵn sàng làm việc và chia sẻ của bà. Chính là khi hành động mà bà trải nghiệm được phép lạ của sự nhân lên, không chỉ nhân thêm bột và dầu, mà cả sự sống của bà, của con trai bà và của vị ngôn sứ.
Bà đã cho đi những tài nguyên cuối cùng, cho tất cả những gì bà cần để sống. Khi người ta dám đánh liều cho đi tất cả, người ta sẽ trải nghiệm một phép lạ. Phép lạ là: người ta ra khỏi sự cam chịu, sự cô lập; người ta kinh nghiệm về cộng đoàn, người ta sống sâu sắc ý thức là mình thuộc về một tập thể. Thế là phát sinh niềm hy vọng và niềm vui. Ở trong phép lạ các nén vàng, Đức Giêsu dường như cũng kín đáo nhắc lại việc nhân lên. Quả vậy, người chôn giấu nén vàng dưới đất và giữ như thế cho mình vì sợ mất, người ấy sẽ bị trục xuất ra ngoài, bị quẳng vào nơi khóc lóc nghiến răng (Mt 25,30).
Bài học tôi nhận ra là: Phải chia sẻ và trao tặng, nếu không muốn mất. Hôm nay các phụ nữ đang sẵn sàng cộng tác, như từ xưa tới nay. Đấy là khuynh hướng tự nhiên trong bản tính người nữ. Tôi được mời gọi sống sự trao hiến, sự cho đi, một cách nhanh nhẹn, hồn nhiên.
2. Tiếp theo là giai thoại Bà goá nghèo trong Tin Mừng Luca, chương 21, câu 1 đến câu 4:
Đức Giêsu đã quan sát bà goá này trong Đền thờ, rồi nói với các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em, bà góa nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”.
Đức Giêsu thấy những gì bà làm; Người ca ngợi cử chỉ của bà và Người đánh giá cao. Điều quan trọng không phải là khối lượng nhưng là chất lượng. Trong khi những người kia chỉ cho một cái gì, bà goá này đã cho chính mình. Đức Giêsu thấy và biết là người phụ nữ có khả năng đặc biệt, đó là cho tất cả, là cống hiến sự sống mình. Người phụ nữ có một sự nôn nóng và nhạy cảm với việc làm cho mọi sự được đầy đủ.
Dường như trong quá khứ, có những lần, tôi đã co lại, không dám đánh liều cho đi. Thế là tôi mất một dịp để sống quảng đại hơn, tôi để vuột qua một cơ hội để sống thiên chức người phụ nữ trong xã hội và Giáo Hội hôm nay.
3. Hoạt cảnh cuối cùng là truyện Xức dầu tại Bêtania trong Tin Mừng Mátthêu, chương 26, câu 6 đến câu 13:
Người phụ nữ này đã đập vỡ một bình bạch ngọc và đổ thứ dầu rất quí ra mà xức trên đầu Đức Giêsu. Trong số những người cùng đi với Đức Giêsu, có những người không chịu được cảnh này mà họ cho là phung phí, họ nghĩ là có thể tiết kiệm để giúp người nghèo. Nhưng Đấng lúc này đang đặc biệt nghèo, vì sắp đi vào cái chết, thì họ không thấy! Đức Giêsu bênh vực bà ấy, nói rằng bà ấy làm việc này vì hướng đến ngày mai táng Người. Hành vi của người phụ nữ ở đây trở thành dấu chỉ của điều mà chính Đức Giêsu đang muốn có: vài ngày nữa, thân thể Người sẽ bị tan nát; Người muốn ban tặng tất cả, ban tặng chính mình. Cũng như chất dầu thơm của bà ấy, khi đập vỡ bình, thì đã được nhân lên trong hương thơm của nó, đã làm cho cả căn phòng ngát thơm, thì sự sống của Đức Giêsu cũng được nhân lên trên thập giá “vì cả nhà”, cho cả nhân loại.
Trong Giáo Hội hôm nay, “hương thơm”, bầu khí của hành động và lối cư xử phái nữ, cảm hứng của nữ tính, đời sống tinh thần của người nữ, tư tưởng phái nữ, khả năng người nữ, lại không đang tràn ra chan hòa đó sao? Tôi góp phần vào đó thế nào?
. . . . . . . . . .
Lạy Cha,
Cha đã ban cho chúng con được làm con cái Cha, như là những người nữ trong thế giới và Họi Thánh hôm nay, xin giúp chúng con sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng con để có thể đáp lại ơn gọi siêu nhiên Cha ban.
Bài giảng 1
ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG,
CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI
Mục đích: Trở về nguồn mạch là Thiên Chúa Ba Ngôi để suy nghĩ về đời sống của chúng ta hôm nay
1. Chương trình của Chúa Cha
Đời sống thiêng liêng của chúng ta là một công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh Phaolô nói với chúng ta như thế qua đoạn văn Gl 4,4-7:
“4 Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, 5 để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em/chúng ta mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!" 7 Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.
Giờ đây chúng ta tìm hiểu từng điểm:
“Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (c. 4).
Đây là một khúc quanh quyết liệt trong chương trình của Thiên Chúa: có một thời đại đang khép lại và một thời đại nới đang mở ra. Đặc điểm của thời đại cũ được diễn tả bằng tình trạng nô lệ với các từ ngữ: thiếu niên – nô lệ – dưới quyền những người giám hộ và quản lý (4,1-2a; 4,3), còn thời đại mới có đặc điểm là sự tự do, diễn tả bằng các từ ngữ: (trưởng thành) – con – người thừa kế – cha (4,4-7). Cái “trước” biến thành một cái “sau” nhờ hoạt động giải phóng được Chúa Cha điều hành trong sự hài hoà với Con của Ngài và Thần Khí của Con Ngài, xuyên qua hai cuộc sai phái, sai phái Con và sai phái Thần Khí (4,3; 4,6).
Thánh Phaolô long trọng công bố một chọn lựa của Thiên Chúa: Khi tới đỉnh cao thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai phái[1] Con của Ngài đến thế gian trong tình trạng hạ mình và trong các giới hạn: “sinh làm con một người đàn bà”, tức là Người đã trở thành người phải chết, giới hạn, như tất cả mọi người, như thế chia sẻ sự mỏng dòn của thân phận con người; “sống dưới Lề Luật”, nghĩa là sống một cuộc sống được Lề Luật và các truyền thống quốc gia Do-thái qui định (x. Rm 8,3). Con Thiên Chúa đã “sinh làm con một người đàn bà và sống dưới Lề Luật” theo nhãn quan pháp lý của thư Galát (4,4), nhưng dưới nhãn quan cứu độ học của thư Rm, Người đã đến “mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta” (Rm 8,3), nghĩa là đã trở thành một thành viên của loài người hướng chiều về tội lỗi (“thân xác tội lỗi” = khuynh hướng đưa con người tới chỗ phạm tội) và Người đã trải nghiệm những hậu quả của tội lỗi, khi chịu chết (x. Gl 3,13). Đây là một nghịch lý vĩ đại: Thiên Chúa, là tự do tuyệt đối, đã sai Con mình vào trong một hoàn cảnh nô lệ cùng cực.
Thiên Chúa làm như thế để làm gì? Thánh Phaolô viết:
“để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu [để] chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (c. 5).
“Để chuộc những ai sống dưới Lề Luật” là phương diện tiêu cực (x. 3,13); “để chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” là phương diện tích cực.
Như thế, Thiên Chúa đã chấp nhận nghịch lý của mầu nhiệm Nhập thể của Con mình, để thực hiện một công trình giải phóng. Bằng cái chết trên thập giá và trong tư cách con người, Đức Kitô đã thi hành bản án trên tọi lỗi, nghĩa là đã đẩy tội lỗi lâu nay vẫn thống trị trên xác thịt con người đến chỗ trở thành bất lực. Nhờ Đức Kitô, Chúa Cha đã giải phóng hoàn toàn (Gl 4,5; Rm 8,2) loài người khỏi mọi thứ nô lệ mà tội Ađam đã bung ra trong thế gian (Rm 5,12). Cuộc giải phóng này đã được thực hiện trọn vẹn trong ơn nghĩa tử (huiothesia) được ban cho những ai tin vào Người (Gl 4,5; Rm 8,1). Theo thư Gl, ơn nghĩa tử là được thông dự vào tư cách con của Con Thiên Chúa, do Người đã nhận lấy thân phận loài người chúng ta. Con Thiên Chúa đã sinh làm con một người phụ nữ để các người con phụ nữ có thể trở thành những nghĩa tử. Phương thức rõ ràng nhất của sự biến đổi lạ thường này hệ tại hành vi liên đới trong cái chết. Bởi vì Người đã chết và đã sống lại vì chúng ta, Đức Kitô đã đón tiếp tất cả chúng ta vào trong nhân tính mới của Người, trong thân xác đã được tôn vinh của Người; và trong Người là Con Thiên Chúa, chúng ta đã trở thành con Thiên Chúa (x. 3,26). Ơn nghĩa tử đưa lại cho chúng ta một danh hiệu như Đức Kitô; chính vì thế, chúng ta cũng trở thành “người thừa kế” (Gl 4,7; “đồng thừa kế”: Rm 8,17).
2. Vai trò của Chúa Thánh Thần
Ở đỉnh cao của chương trình cứu độ tuyệt vời của Thiên Chúa Cha, thánh Phaolô cho thấy Thánh Thần đang hoạt động:
“Để chứng thực anh em là con cái [rằng anh em là con cái], Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng chúng ta mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi !” (c. 6).
Đi từ “chúng ta” của c. 5 (= Do-thái và Dân ngoại), thánh Phaolô nói trực tiếp với người Galát ở c. 6 (anh em). Nhưng ngay sau đó, ngài lại trở về với “(lòng) chúng ta”: ngài muốn khẳng định rằng mọi ki-tô hữu (tôi = Phaolô, anh em = người Galát, họ = ki-tô hữu gốc Do-thái) đều đã nhận Thánh Thần này như là bảo chứng về ơn làm nghĩa tử.
Điểm độc đáo của công thức mới này là Thiên Chúa gửi vào “trái tim chúng ta” một Đấng thường xuyên thuộc về Chúa Con. Nếu thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa đã đặt “Thần Khí của Ngài” vào lòng chúng ta, thì tương ứng với sấm ngôn Êdêkien (Ed 11,19; 36,26s; 39,29). Ngài cũng không nói là Con Thiên Chúa đã ban cho chúng ta “Thần Khí con cái”, vì điều này tuy mới nhưng cũng đơn giản. Ngược lại, ngài nói rằng Thiên Chúa đã sai “Thần Khí của Con mình” vào lòng chúng ta, điều này thật sự phức tạp, bởi vì ngài diễn tả một sự can thiệp của Thiên Chúa đồng thời cho thấy một tương quan của Thiên Chúa với Thần Khí và với Con, và ngài thiết lập một tương quan mật thiết giữa ba Đấng. Thánh Thần vẫn ở trong quan hệ với Thiên Chúa, Đấng sai phái Ngài, và với Chúa Con, mà Ngài thuộc về. Và chúng ta được đặt trong tương quan với Thánh Thần, với Chúa Con và với chính Thiên Chúa. Cách diễn tả này nhằm nêu bật quyền chúa tể của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ: chính Ngài sai phái Chúa Con và Thần Khí của Chúa Con. Tất cả chỉ nhắm làm cho chúng ta trở thành con cái.
Đây không phải là lần đầu tiên thánh Phaolô nói đến Thần Khí. Ngài đã nói đến Thần Khí ngay đầu chương 3 của thư Gl (x. 3,1-5), rồi nói đến một hành vi “tiêu cực” của Thần Khí: chiến đấu chống lại xác thịt, là sự yếu đuối của loài người. Sau đó, ngài cho thấy là có “Thần Khí của lời hứa” (3,14b), trực tiếp liên hệ đến “phúc lành ban cho Abraham” (c. 14a). Kế đó (3,15-29), xuất hiện ý tưởng “gia tài/thừa kế” (cc. 18a. 29 liên kết với ý tưởng “con cái Thiên Chúa trong Đức Kitô” (c. 26).
Khi áp dụng cũng động từ “sai phái” cho Con Thiên Chúa và cho Thần Khí, tác giả muốn nói rằng Thần Khí cũng có những đặc tính như Con Thiên Chúa, ngoại trừ là Con, và có một tương quan giữa việc sai phái Thần Khí và Chúa Con. Tương quan hình thức là giữa hai hành vi giống nhau của Thiên Chúa; nhưng còn có một tương quan sâu xa hơn, đó là ân ban Thần Khí đã có được là nhờ sự vâng phục mang sức cứu chuộc của Đức Kitô (x. Gl 3,13-14).
Được Thiên Chúa gửi vào lòng chúng ta, Thần Khí của Con Thiên Chúa diễn tả quan hệ con cái bằng cách liên tục kêu lên: Abba ho patêr, “Abba, Cha ơi!”. Nghĩa là Thần Khí làm chứng và đảm bảo cho sự tự do của các con cái Thiên Chúa.
Thật ra, từ Abba không chỉ dành cho đứa bé gọi cha, nhưng cho cả người lớn; đàng khác, gọi Thiên Chúa là “Cha” cũng không phải là chuyện lạ: các tôn giáo bán khai hay văn minh, của người Hy-lạp, Rô-ma và Sê-mít, đều gọi như thế. Điều lạ, đó là đây là một cách gọi riêng tư thân mật. Theo Mc 14,36, được hỗ trợ gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tên gọi thân mật Abba, và như thế cho thấy Người có một quan hệ mới và duy nhất, vô song, với Thiên Chúa (x. Mt 11,27//Lc 10,22; Ga 10,30). Cuộc sống của Đức Giêsu không có mục đích nào ngoài việc đưa loài người vào trong quan hệ con cái mà Ngài có với Thiên Chúa, bằng cách thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí con cái. Nhờ có Thần Khí của Con, nay người tín hữu có thể thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con: Abba!, tức cũng là đi vào trong quan hệ riêng tư thâm sâu giữa Đức Kitô và Chúa Cha.
3. Kết quả
Bây giờ chúng ta đến kết luận của toàn phân đoạn Gl 3,1–4,7:
“Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (c. 7).
Bản văn viết theo kiểu tăng dần: “Nô lệ–con; con–thừa kế”, và tất cả kết quả là một sự kiện hiện đại: ngay ngày hôm nay….
Nếu đọc toàn phân đoạn, ta ghi nhận rằng Phaolô đã nêu bật vai trò của Thiên Chúa Ba Ngôi trong dự phóng biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa; nhưng luôn luôn là Thiên Chúa Cha ở tại nguồn của công trình này (Gl 3,5; 4,6).
Vậy, với Gl 4,1-7, chúng ta hiểu cuộc sống người tín hữu không phải là trò chơi của một định mệnh mù quáng, mà là công trình của Thiên Chúa Cha, của Đức Kitô và của Thần Khí. Đời sống ki-tô hữu là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa, đó là điều mà Thần Khí ở trong mỗi tín hữu liên tục làm chứng. Thư Gl gán cho Thần Khí một vai trò đặc biệt trong ơn nghĩa tử của người tín hữu, nghĩa là trong việc biến đổi con người thành con Thiên Chúa và trong việc bảo đảm cho tư cách này: nhờ trung gian Thần Khí, người tín hữu trở nên và sống được mãi như là con Thiên Chúa, vì Thần Khí làm cho có ơn nghĩa tử cho riêng từng người và cho Giáo Hội, một ơn đã được ban một lần vĩnh viễn cho kẻ tin vào Đức Kitô. Ngoài ra, Thần Khí còn cho người tín hữu được cảm nghiệm cụ thể tư cách này (x. part. pres. krazon, “kêu lên” với đặt tính là liên tục). Từ đó, người tín hữu là một con người hoàn toàn tự do. Tuy nhiên, chương trình cứu độ đến từ Thiên Chúa Cha; chính Ngài đã cử Con của Ngài đến, rồi đã thực hiện ơn cứu độ bằng cách ban Thần Khí của Đức Kitô. Đây là một lược đồ Ba Ngôi trong hoạt động cứu thế.
Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô nhắc lại kinh nghiệm Ba Ngôi này: “Chúng ta phải để cho Thần Khí khai mở nguồn nước hằng sống tuôn trào từ Đức Kitô cách vô cùng phong phú. Chính Thần Khí làm cho chúng ta nhìn nhận Đức Giêsu Nadarét là Đức Chúa (x. 1 Cr 12,3). Ngài cho chúng ta nghe được lời mời gọi đi theo Đức Kitô và kết hiệp chúng ta trong Người. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thể thuộc về Đức Kitô (x. Rm 8,9). Chính Thần Khí, khi biến chúng ta thành những người con trong Chúa Con, làm chứng về tình phụ tử của Thiên Chúa, giúp chúng ta ý thức đến tư cách là nghĩa tử và cho phép chúng ta dám gọi Thiên Chúa là “Abba, Cha ơi” (Rm 8,15). Chính Thần Khí đổ tràn tình yêu và làm nảy sinh sự hiệp thông” (s. 20).
Bài giảng 2
"TÔI ĐÃ ĐƯỢC CHÚA KITÔ CHIẾM ĐOẠT"
(Pl 3,12)
Mục đích: Hiểu đời sống thánh hiến là ân ban nhưng-không
Nói về ơn gọi tu trì, chúng ta có thể trưng ra những câu Tin Mừng liên quan tới ba lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh, nghèo khó và vâng lời; chúng ta có thể trích dẫn Công Đồng Vatican II trong Hiến chế Ánh sáng muôn dân hay Sắc lệnh Canh tân thích nghi đời sống Dòng tu. Nhưng tất cả những công việc đó chỉ nằm ở bình diện tri thức (lý thuyết) mà thôi. Còn trên bình diện hiện sinh thì khác: cảm nghiệm về đời tu như thế nào? Những động lực nào đã đưa tôi đến chỗ xin vào nhà dòng?...
Để thêm chất liệu suy nghĩ, chúng ta cùng tìm về kinh nghiệm của thánh tông đồ Phaolô.
1. Kinh nghiệm của thánh Phaolô: bị / được Chúa Kitô chiếm đoạt
Trên đường vào Đamát, đã xảy ra một biến cố làm chuyển hẳn hướng đời của một thầy Pharisêu trẻ tuổi tên là Saolô: “thấy (gặp) Đức Giêsu (1Cr 9,1). Đây là giờ phút nghiêm trọng và cốt yếu trong cuộc đòi của thánh tông đồ: Nếu không có biến cố này, thế giới chỉ có một Saolô đang miệt mài trong lầm lạc thôi. Khi đã gặp Đức Kitô, một Saolô đang hung hãn đi tìm giết, làm giảm thiểu con số các kitô hữu, đã trở thành một Phaolô say sưa đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho dân ngoại, làm tăng số các ki-tô hữu.
Nhưng đây không phải là một biến cố Chúa Kitô đã gây ra để áp đảo tinh thần đối phương. Chúa Kitô đã không quật ngã Phaolô trên đường để uy hiếp ngài, khiến ngài phải nhắm mắt cúi đầu tuân theo mệnh lệnh của Người. Sau này, thánh nhân đã nhiều lần phác họa lại cuộc đời ngài (x. Cv 22,3tt; Pl 3,5; ba lần kể lại biến cố Đamát: Cv 9,1-18; 22,5-16; 26,9-18), và đã rút ra được kết luận chính yếu: chính Đức Giêsu Kitô đã chọn ngài vì yêu thương ngài, và vì muốn dùng ngài thực hiện một công trình tình yêu. Ngài đã không ngừng làm chứng về điều đó:
“Tôi sống kiếp sống con người của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng đã yêu thương tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20b).
Như thế, thánh tông đồ đã bắt gặp lại kinh nghiệm của các vị ngôn sứ tiền bối:
Is 6,1-8 : “Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi thưa: “Dạ, con đây, xin sai con đi”.
Gr 1,5 : “Trước khi nắn ra ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi...”.
Gr 31,3 : “Ta đã yêu ngươi bằng một tình yêu muôn thuở...”.
Is 49,5b : “Tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”.
Vì cớ gì Thiên Chúa làm như thế? - Không ai biết! Có kẻ nổi loạn trước tính “không hợp lý” của việc chọn lựa của Ngài. Nhưng tình yêu loài người lại không có những dáng vẻ không thông thường như thế sao? Phương chi là Thiên Chúa! “Ta muốn thương xót ai thì thương xót, muốn cảm thương ai thì cảm thương” (Rm 9,15), hoặc: “Ta là Thiên Chúa, không phải là loài người” (Hs 11,9). Chỉ nhờ thờ phượng, ta mới khám phá ra được ý định bao la và chương trình của Thiên Chúa.
Được chọn vì yêu thương để thực hiện một công trình tình yêu. Vì thế, theo một nghĩa nào đó, biến cố Đamát là một cuộc tình duyên, một cuộc hôn nhân. Sau này, thánh Phaolô đã dùng lại hình ảnh này: “Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để anh em ra mắt Người như một trinh nữ thanh khiết” (1 Cr 11,1). Đối với ngài, Đức Kitô không còn chỉ là một người Bạn, một vị Thầy, mà hơn nữa, còn là Người Yêu Dấu. Đamát đã mở màn cho một cuộc tình duyên ngày càng đậm đà thắm thiết cho tới ngày vị tông đồ chịu tử đạo tại Rôma, như đỉnh cao chứng tỏ mối tình mãi mãi thắm màu. Làm sao mà Phaolô, “người rao giảng Tin Mừng, vị tông đồ và thầy dạy” (2 Tm 1,11), có thể chịu đựng được mọi gian khổ của đời tông đồ, nếu ngài không biết rằng mình được yêu, được chính Thiên Chúa yêu thương (x. 2 Cr 11,24-29: ba lần bị đòn, một lần bị ném đá, một lần bị đắm tàu, rồi đi nhiều, gặp nguy hiểm trên sông, trên đất bằng, nơi thành thị, nơi hoang địa,... phải thức khuya, dậy sớm, đói khát, rét mướt...)? Cả đời ngài đã chỉ là một cuộc tìm gặp và phục vụ Đức Kitô Giêsu với tất cả niềm mê say, âu yếm, nồng nàn, với khát vọng được kết hợp với Người (x. Pl 3,12-14). Thánh Phaolô đã bị Đức Kitô chiếm đoạt “hoàn toàn” đến nỗi ngài đã thốt lên : “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi “ (Pl 1,21). Ngọn lửa tình yêu ấy cứ bốc lên mạnh mẽ! Tình yêu đã đưa lại ý nghĩa cốt yếu cho cuộc đời của thánh nhân, một tình yêu tha thiết, nhưng nghiêm chỉnh đến độ ngài đã nói: “Nếu ai không yêu mến Chúa, thì người ấy phải bị nguyền rủa” (1 Cr 16, 22). Theo ngài, tình yêu ấy là qui luật cho mọi ơn gọi và là lý do tuyệt đỉnh của mọi ơn gọi:
“Tôi tạ ơn Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Đấngđã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: đó là Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Tm 1,12-15).
Phải đọc đoạn thư trên đây, mới thấy được tất cả sự cảm kích của vị tông đồ, vì khi đã được kéo ra khỏi “quyền lực tối tăm” (Cl 1,13) và đã được ở bên Đức Kitô, ngài đã đo lường được vực thẳm vừa thoát khỏi. Lúc đó, mới thấy Thiên Chúa không trừng phạt ai (thánh Gioan Kim Khẩu).
2. Ơn gọi tu trì: một kinh nghiệm tương tự kinh nghiệm Phaolô
a) Chúng ta nhớ lại động lực nào thúc đẩy. Có thể khi ta còn bé, động lực đó rất tầm thường, vụ lợi; với thời gian, động lực ấy được thanh luyện dần, ta rõ tiếng Chúa mời gọi hơn. Khi đó, ta sẽ cảm nghiệm được thực tại sau đây:
Đi tu vì những động lực bên ngoài, tầm thường, vụ lợi, là chuyện nực cười! Chính Đức Kitô đã thu hút, lôi kéo chúng ta, tìm cách “chiếm đoạt” chúng ta, vì yêu thương chúng ta, và muốn tách riêng chúng ta ra để thực hiện một công trình tình yêu. Như thế, chúng ta đi vào nẻo đường của Phaolô. Quả thật, nói là “đi tu” mà chưa thấy (gặp) Đức Kitô trên nẻo-đường-Đamát-của-đời-mình, thì vẫn chưa đến được giờ phút then chốt của đời ta. Phải gặp được Đức Kitô thiết thân, phải cảm mến sâu xa tình yêu của Người đối với chúng ta, lúc đó chúng ta mới quyết tâm rập đời ta theo khuôn mẫu Giêsu Kitô. Sự cảm mến và quyết tâm ấy rất quan trọng vì sẽ đưa chúng ta tới chỗ lột bỏ được những hình ảnh viễn vông, mơ mộng, những ảo tưởng về đời tu.
“Nhiều người nghĩ rằng ơn gọi tu trì là kết quả của một ảnh hưởng hoặc chỉ là một sự chạy trốn cuộc sống. Quả thật những yếu tố ngoại tại và ngay cả tội lỗi có thể có một vai trò ở đây. Nhưng đừng quên mất sự kiện siêu nhiên siêu thăng và thanh luyện mọi sự khác: sự kiện chính Thiên Chúa chọn lựa” (F. van der Meersch, Religieuse...pourquoi ? Fayard, 1965, tr.19).
“Động cơ chân thật duy nhất làm nền cho một ơn gọi tu trì là ý muốn yêu mến Thiên Chúa và phục vụ Người không giới hạn. Đó chính là việc thực hiện giới răn thứ nhất cách hoàn hảo. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất: chính vì thế, tình yêu đối với tha nhân và ý muốn tận tâm phục vụ họ trào vọt ra, cách tự nhiên từ trái tim muốn tận hiến cho Chúa” (Religieuse, tr. 20-21).
b) Sống mầu nhiệm tự hủy của Chúa Kitô:
Đức Giêsu đã tự hủy, sau đó mới nhận được vinh quang. Phaolô cũng đã sống như thế (x. Pl 2,6tt). Đời tu của ta cũng sẽ trải qua những giai đoạn như thế: Không có giai doạn tự hủy, sẽ không nhận được vinh quang và niềm hân hoan của kẻ có Chúa làm gia nghiệp.
Chúng ta có cảm tưởng những điều này rất đơn giản, khi đời sống vật chất còn thoải mái, khi đời sống thiêng liêng còn phẳng lặng, khi đời sống cộng đoàn còn trôi chảy. Nếu được như thế, phải tạ ơn Chúa. Nhưng cũng phải tự nói với nhau: phải sẵn sàng đi vào mầu nhiệm tự hủy đau đớn của Chúa Giêsu. Chính Người, khi vào Vườn Ô-liu, đã đến sát thập giá, mới cảm thấy lo âu, phiền muộn, khiếp sợ đến nỗi phải kêu xin với Chúa Cha cất gánh nặng... Vào những ngày đời tu u ám (thế nào cũng xảy ra!) do thể xác mệt mỏi vì bệnh tật hoặc lao lực, tinh thần khô khan, các thành viên trong cộng đoàn không thông cảm với nhau, đời sống thiêng liêng lạt lẽo (vì thiếu cầu nguyện, vì bị cám dỗ, hoặc Chúa muốn thử...), lúc đó ta mới thấm thía những đòi hỏi của đời tu là đau đớn, khó khăn đến đâu. Khi ấy, chúng ta dựa vào đâu để trung thành, nếu không phải là chính Chúa? Nhưng nếu chúng ta không hề quen sống tình yêu với Chúa, thì làm sao có đủ nghị lực để đứng vững rồi tiến bước?
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã dạy trong Tông huấn Đời thánh hiến:
“Trong đời sống thánh hiến, vấn đề không phải chỉ là bước theo Chúa Kitô với cả con tim, bằng cách yêu mến Người hơn cha hoặc mẹ, hơn con trai hay con gái mình, như mỗi môn đệ phải làm, nhưng là sống và diễn tả điều đó bằng một sự gắn bó để toàn thể cuộc sống nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu (christiforme)” (số 16 và 18).
Lúc đó đời sống chúng ta sẽ nhẹ nhàng, vui tươi, phấn khởi và toát ra được năng lực thần linh có khả năng sưởi ấm lòng người đang giá lạnh vì không còn niềm tin nữa.
3. Kết luận
Cái gốc sâu của một đời sống tu trì đích thực là ý thúc rằng đi tu không phải là để nhắm mục đích gì (đi tu để...), nhưng đi tu là do một nguyên nhân (đi tu vì...). Và đối tượng của cái vì đó chỉ có thể là Chúa Giêsu Kitô. “Đi tu để” sẽ đến sau như hậu quả của “đi tu vì”: vì đã gặp Chúa, vì đã cảm phục Người, đã yêu mến Người.
“Hơn bao giờ hết, Giáo Hội, mà ngay cả thế giới, đang cần đến những người nam và nữ biết hy sinh tất cả để theo Chúa Kitô, như các Tông đồ. Nếu không có tình yêu Chúa Kitô, thì không thể hiểu được tại sao lại hy sinh tình yêu hôn nhân, hy sinh quyền sở hữu vật chất, hy sinh sử dụng tự do một cách hoàn toàn độc lập...” (trích Diễn từ của Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II gửi các Bề trên thượng cấp tại Rôma, ngày 16-11-1978).
Bài suy niệm 2
CÔ MÁCTA
(x. Gioan 11)
Giờ đây, chúng ta ý thức mình đang ở trước mặt Thiên Chúa, chúng ta thờ lạy Ngài và xin Ngài hướng dẫn trong giờ suy niệm và cầu nguyện này.
Lạy Chúa Thánh Thần, là ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa, xin đốt cháy tất cả những gì nơi con mà Ngài thấy không vừa ý. Xin hướng cặp mắt và đôi tai con khỏi điều dữ. Xin ban cho con sự chân thật và quảng đại. Xin an cho trái tim con được tinh trong. Và giờ đây xin hướng dẫn con trong giờ suy niệm này.
Hôm nay tôi suy gẫm về một nhân vật được Tin Mừng Gioan chương 11 giới thiệu dưới những đường nét khá đặc biệt: đó là cô Mácta.
Tôi đã qúa quen với dung mạo cô Mácta trong câu chuyện tiếp đón Đức Giêsu ở Bêtania trong Tin Mừng Luca (Lc 10,38-42), tôi vẫn nhớ câu nói của cô với Đức Giêsu, như so bì với em là cô Maria, và tôi có ấn tượng ít thoải mái về cô, thậm chí ít thiện cảm đối với cô. Dù sao, tôi cũng không quên là Giáo Hội đã dành ra ngày 29-7 để mừng lễ thánh Mácta.
Khi tiếp xúc với cô Mácta trong Tin Mừng Gioan, tôi nhận ra một dung mạo khác hẳn: đây là một người thiếu nữ chủ gia đình, vừa ân cần, tế nhị, vừa sâu sắc, là người đã bày tỏ niềm tin chân chính vào Đức Kitô và đã được hưởng những mạc khải quan trọng.
1. Trước tiên, tôi thấy: Khi tai hoạ ập xuống trên gia đình, tức Ladarô, em cô, ngã bệnh rồi qua đời, chính cô Mácta đã tỏ ra là người chủ gia đình, đã cho báo tin cho Đức Giêsu biết ngay.
Và đây chính là một tấm gương cho tôi: Khi gặp những vấn đề lớn nhỏ trong cuộc sống, tôi được mời gọi chạy tới với Chúa Kitô ngay. Không phải để chờ đợi được Người giúp giải quyết vấn đề, nhưng chỉ vì Người là người thân nhất của tôi, thì tôi chia sẻ mọi sự với Người. Còn làm gì là tùy Người.
2. Khi gặp Đức Giêsu, cô Mácta vừa là trung gian cho tầng lớp dân chúng khi nói câu: “Nếu Thầy ở đây thì em con đã không chết”, vì dân chúng còn đang hoài nghi về quyền lực của Đức Giêsu, vừa thay mặt họ mà bày tỏ lòng tín nhiệm vào Đức Giêsu: “Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (c. 22).
Sống giữa lòng một xã hội đang bị xâu xé bởi biết bao vấn đề, biết bao “thách đố”, tôi có ý thức được phần nào tình trạng đó chăng. Không khéo một cuộc sống ngày càng được an toàn hơn đang làm cho tôi ngày càng cách biệt với các tầng lớp dân chúng, ngày càng cảm thấy những nhu cầu của người chung quanh tôi là chuyện xa lạ. Vai trò làm ngôn sứ trong xã hội, một vai trò mà các vị chủ chăn vẫn không ngừng nhắc lại trong các giáo huấn, dường như không làm cho tôi bận tâm mấy, với lý do: Sống trong một hoàn cảnh như thế này, biết làm sao được? Mình đâu có quyền dấn thân vào lãnh vực này, lãnh vực nọ… Và tôi yên tâm tiếp tục cuộc sống của tôi.
3. Khi cô Mácta thưa với Đức Giêsu: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”, tôi nghe ra là cô đã bày tỏ niềm tin tông truyền vào Đức Giêsu, qua đó cô chứng tỏ là một tín hữu trung thực. Bởi vì trong Kinh Tin Kính, có câu: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau”. Cô cũng nói: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa”. Tôi nhớ lại: Đây chính là lời tuyên xưng của ông Phêrô trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chẳng hạn trong Tin Mừng Mátthêu (16,16), một lời tuyên xưng mà sau đó Đức Giêsu đã đánh giá: “Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17). Một điều mà Đức Giêsu đã khẳng định một cách long trọng như thế với Simôn, Người lại coi như là chuyện tự nhiên với cô Mácta. Phải chăng trái tim người phụ nữ có khả năng đón nhận và sống những điều quan trọng trong một phong thái đơn giản, hồn nhiên?
Đặc biệt ở điểm này, Đức Giêsu hỏi cô về một điều: “Chị có tin thế không?” (c. 26b), Mácta lại bày tỏ niềm tin vào một con người: “Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (c. 27). Quả vậy, tin là tin vào một con người, một Đấng, chứ không phải là vào các sự việc, các điều… Tin là phó thác vào một vì Thiên Chúa không phải là một Đấng Vô biên ở xa, lãnh đạm với con người, nhưng ở gần và đưa lại ý nghĩa cho cuộc sống của mọi người.
4. Điều này tôi còn thấy nơi một chi tiết nữa. Trước đó, Đức Giêsu cũng đã ban cho cô Mácta một mạc khải rất quan trọng, vì nói lên bản tính và vai trò của Người: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (c. 25). Các tông đồ sẽ được nhận một mạc khải tương tự, nhưng mãi khi vào phòng Tiệc Ly để ăn bữa tối cuối cùng, mới được nghe. Đó là khi Tôma hỏi Đức Giêsu về con đường Người đi, Người đã trả lời: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Cô Mácta đã bày tỏ niềm tin vào Đức Giêsu một cach trọn vẹn, để sau đó em cô là Ladarô đã lãnh nhận được kết quả của niềm tin đó.
Tôi có đang cảm nhận được sự tín nhiệm của Đức Giêsu nơi tôi khi bày tỏ cho tôi những chân lý cao siêu, thuọc về bản tính và sứ mạng của Người chăng? Dường như tôi không nhận ra rằng sống niềm tin sâu xa nơi Đức Giêsu là chuyện có liên hệ đến vận mạng của anh chị em tôi?
5. Tôi nhận thấy cô Mácta còn là một con người tế nhị và thực tế. Sau khi đã ra chào Đức Giêsu, cô đã đi gọi em là Maria và nói nhỏ với em: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy” (c. 28). Cô tạo cơ hội để cho em cô cũng có thể gặp Đức Giêsu riêng tư, mà bày tỏ những tâm tình thâm sâu của em với Người. Cô đã làm trung gian giữa dân chúng với Đức Giêsu, bây giờ cô cũng đóng vai trò trung gian giữa Maria với Đức Giêsu.
Đó chính là tấm gương cho tôi nữa: ân cần phục vụ, kín đáo tạo cơ hội cho người khác gặp Đức Giêsu và biết rút lui. Quả thật, rút lui để người khác khỏi phải nhớ đến những gì tôi đã làm cho họ, thật là một đòi hỏi tưởng là đơn giản, nhưng không dễ thực hiện.
Lạy Mẹ Maria,
xin đến ở giữa chúng con.
xin cho chúng con có thể cảm thấy Mẹ ở gần những vấn đề của chị em chúng con.
Xin giúp chúng con hiểu rằng sự khiêm tốn, sự giản dị, sự tinh trong là hoa trái của mọi mùa lịch sử. Xin cũng giúp chúng con hiểu rằng giòng thời gian qua đi vẫn không làm phai lạt một số giá trị như sự cho đi nhưng-không, sự vâng phục, sự tin tưởng, và sự dịu dàng tế nhị.
Bài giảng 3
ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH
LÀ SỰ BÌNH AN CỦA CHÚNG TA
(Ga 20,19-31)
Mục đích: Ý thức về vai trò trọng yếu của Chúa Giêsu Phục Sinh trong đời sống cá nhân và cộng đoàn
Các vực thẳm khô cằn nứt nẻ đang chờ đợi những thác nước từ đỉnh núi cao tuôn xuống thế nào, các môn đệ Đức Giêsu trong những ngày nối tiếp cuộc Thương Khó của Đức Giêsu cũng mong chờ được Người chiếu cố đến như thế.
1. Đức Giêsu khôi phục tư cách và xác định sứ mạng cho các môn đệ
Tình trạng của các môn đệ đang kêu nài lòng thương xót của Đức Giêsu: các ông quá sợ người Do-thái, các ông cần được giải thoát khỏi nỗi lo sợ này; các ông đã đánh mất tư cách môn đệ khi phản bội Thầy, các ông cần được khôi phục lại tư cách ấy; các ông chẳng còn xác định được phương hướng sứ mạng, các ông cần được chỉ cho thấy phương hướng; các ông chẳng có điểm tựa cho đời sống đức tin, các ông cần được giúp xác định đâu là điểm tựa. Trong tình cảnh đó, các ông chỉ còn biết giam mình trong phòng cửa đóng then cài, y như tự nhốt mình trong một ngôi mộ, xa cách dân cư. Bế tắc! Các ông cần được Đức Giêsu đưa ra khỏi mộ.
Bằng hai lần “đến đứng giữa các ông” (Ga 20,20) và bằng ba lần chúc “Bình an” (cc. 19.21.26), Đức Giêsu giải quyết tình trạng bế tắc đó. Đã rời bỏ ngôi mộ đá, nơi Người đã được an táng, bây giờ Đức Giêsu lại đi vào “ngôi mộ” của các môn đệ là chính căn nhà và nhất là chính trái tim của họ, để bày tỏ lòng từ bi thương xót và đưa các ông đi ra và mời các ông ra đi. Người “đứng giữa” các ông. Chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng BT Thánh Thể và BT Rửa Tội. Vì Đức Giêsu “đứng giữa” các môn đệ, mỗi ông được liên kết với Người theo hình nan quạt và người này hiểu vấn đề của người kia (xem Kh 1,13 với một hình ảnh tương tự: Đức Giêsu “ở giữa” Họi Thánh được tượng trưng bằng các cây đèn vàng). Tất cả các ông đều nghe lời chào “Bình an” và đều nghe sứ điệp của Đức Giêsu. Người chúc cho các ông được bình an. Đây không phải là lời chào suông, cũng không phải chỉ là câu chúc chiếu lệ; “bình an” đây còn là hoa trái của công cuộc cứu chuộc Người đã thực hiện; không những thế, “bình an” đây chính là bản thân Người (x. Lc 2,14; Ep 2,14).
“Bình an cho anh em”. Với lời chúc đầu tiên này, cũng là lời mời gọi quy chiếu về bản thân Người, Đức Giêsu cho các ông xem tay và cạnh sườn (Ga 20,20), tức là cho thấy Người vừa là Đấng Chịu Đóng Đinh vừa là Đấng Phục Sinh. Người cho các ông hiểu rằng Người đã sống lại. Điều này khiến các ông vui mừng và “lên tinh thần”.
“Bình an cho anh em”. Với lời chúc thứ hai, vẫn là lời mời gọi quy chiếu về bản thân Người, là Đấng Chịu Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu khôi phục lại tư cách môn đệ, tư cách tông đồ, cho các ông: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (c. 21). Rồi Người ban Thánh Thần vừa để đẩy các môn đệ ra khỏi căn nhà kín như bưng này vừa để các ông ra đi chia sẻ hoa trái công trình cứu chuộc của Người, đó là ơn tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha”.
2. Đức Giêsu nối kết các môn đệ trong cùng một niềm tin
“Bình an cho anh em”. Lần thứ hai đến “đứng giữa” các môn đệ, với lời chúc thứ ba, cũng vẫn là lời mời gọi quy chiếu về bản thân Người là Đấng Chịu Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu giải quyết tình trạng khủng hoảng về niềm tin giữa nhóm môn đệ là những tông đồ tương lai, bởi vì có những người nói: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”, có người lại từ chối tin. Thế là Tôma đã làm một bước nhảy vọt mà tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” (c. 28). Lúc này, đang vây quanh Đức Giêsu, các tông đồ đều nghe lời tuyên xưng ấy của Tôma, nên đây là lời tuyên xưng giữa lòng cộng đoàn anh em, cho anh em, cùng với anh em; có thể nói, tất cả các môn đệ vừa “một lòng một ý” mà tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là Đấng Phục Sinh. Niềm tin này là nền tảng cho cuộc đời người môn đệ. Thế rồi tất cả các ông đều nghe câu Đức Giêsu nói với Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (c. 29). Chỉ một mình Tôma động lòng thôi sao? Không, tất cả Nhóm Mười Một, vì tất cả đều đã thấy rồi mới tin.
Quả thật, giải pháp đến từ Đức Giêsu là Đấng Chịu Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh, và đến trong “ngày thứ nhất trong tuần”, ngày chúa nhật. Và đây là sứ điệp cho chúng ta.
Chúng ta đang tụ họp lại “trong ngày thứ nhất trong tuần” để được hãnh diện nghe Đức Giêsu nói phúc cho chúng ta và mọi thế hệ tín hữu tương lai, “những người không thấy mà tin”, những người đã tin, đang tin và sẽ tin. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở với chúng ta như là “sự bình an”, như là “Chúa và Thiên Chúa”, như là “Đấng Kitô” và là “Con Thiên Chúa” (1 Ga 5,1.5), với Thánh Thần của Người, và sai chúng ta đi “một lòng một ý” (Cv 4,32) mà chia sẻ ơn cứu độ cho thế giới.
Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hiệp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
Bài giảng 4
ĐỜI THÁNH HIẾN VÀ ĐỨC TIN
Mục đích: Ý thức về vai trò trọng yếu của đức tin trong đời sống thánh hiến. Xin thêm lòng tin, và cùng với lòng tin, xin thêm lòng cậy trông và lòng mến.
1. Đời thánh hiến mang nhiều “ẩn số”
Đời thánh hiến mang nhiều “ẩn số”, nghĩa là có nhiều điểm bấp bênh, bởi vì:
- Tu là “sống đức ái hoàn hảo theo ba lời khuyên Phúc Âm” (x. DT, số 1). Thế mà trong đời ta, ta chỉ luôn gặp những điều bất toàn.
- Tu là dấn thân “yêu Chúa đến mức tuyệt đỉnh” (x. GH, số 44). Nhưng chúng ta đâu có lường được hết mọi đòi hỏi của tình yêu ấy?
- Tu là dấn thân phục vụ Giáo Hội suốt đời. Nhưng chúng ta không biết trước được là mình sẽ phục vụ cách nào, trong lãnh vực nào, trong những hoàn cảnh nào.
- Cuối cùng, đời thánh hiến là một đời “bước theo vết chân Đức Giêsu Kitô”, và cứ phải “xuất phát lại từ Đức Kitô” (x. XP, số 21), mãi mãi, cho đến chết. Thế nhưng chúng ta chẳng biết mình sẽ gặp những trở ngại và những thử thách nào.
2. So với đời sống hôn nhân
a) Đời hôn nhân cũng có những bấp bênh, những “ẩn số”: hai vợ chồng cũng không biết trước được tương lai họ, những khó khăn đang chờ đợi họ.
Tuy nhiên sự hiện diện cụ thể, hữu hình, của người bạn đời bên cạnh, đồng thời cảm nghiệm được tình yêu của người ấy cách sống động, sẽ làm cho người ta không thấy đời họ có nhiều “ẩn số”.
b) Trong đời thánh hiến, ta thấy nhiều bấp bênh do:
- lý tưởng cao (không thuộc bản tính con người),
- sự quên mình phải trọn vẹn,
- đối tượng ta hướng tới là Thiên Chúa, thì ta lại không thấy được.
Do đó, người ta có ấn tượng là đời thánh hiến bấp bênh hơn đời hôn nhân nhiều.
3. Cần phải có đức tin
Nhờ đức tin, ta gắn bó với Thiên Chúa. Ta hiểu Thiên Chúa là Đấng thấy trọn tương lai của ta, Ngài làm chủ mọi biến cố trong đời ta, Ngài đang dìu dắt ta đạt tới mức trưởng thành trọn vẹn.
Thiên Chúa hiện diện với ta cách sâu xa hơn bất cứ một sự hiện diện nào khác, dù là sự hiện diện của một người thân yêu nhất đời ta. Tuy nhiên, sự hiện diện của Đấng Vô Hình thì chẳng khác nào sự vắng mặt! Chính đức tin giúp ta nhận ra Ngài đang hiện diện với và trong ta.
Nhờ đức tin, ta nhận ra rằng những khó khăn ta coi là bất ngờ, lại đều là thành phần của chương trình của Thiên Chúa. Và những khúc quanh co chỉ là những chặng trong một con đường dài trên đó Ngài đang dẫn ta đi đến Tình Yêu viên mãn.
4. Tin vào Thiên Chúa là Tình Yêu
a) Nhìn vào lịch sử loài người
Trước khi bảo loài người yêu Ngài, Thiên Chúa đã yêu thương loài người rồi. Trước khi bảo loài người phụng sự Ngài, Thiên Chúa đã phục vụ họ rồi.
Do đó, yêu Chúa không phải là làm được điều gì cho Ngài. Yêu Chúa chính là một cách thức bày tỏ rằng: chúng ta tin vào tình yêu của Ngài đối với chúng ta (x. 1 Ga 4,16).
Tình yêu này, Thiên Chúa đã cam kết với loài người cách vĩnh viễn, khi cho Ngôi Lời nhập thể. Do đó, không bao giờ con người phải thất vọng về tình yêu của Thiên Chúa.
b) Nhìn vào đời thánh hiến
Trong đời thánh hiến, ta lại càng phải xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với ta hơn nữa. Bởi vì người đi tu được chọn vì yêu thương để thực hiện một công trình tình yêu (x. 1 Cr 9,1; Gl 2,20; Pl 3,12). Do đó, yêu Chúa trong đời tu, chính là một cách bày tỏ rằng ta tin Ngài yêu ta trọn vẹn, ta sẵn sàng để cho Ngài chiếm hữu ta. Phải có thể nói như thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Ki-tô? - Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,35.39).
Nếu không có bảo đảm là Thiên Chúa hiện diện với chúng ta cách sâu xa nhờ Đức Kitô, làm sao chúng ta dám dấn thân trọn vẹn? Chúng ta xây dựng sự trung tín mong manh của chúng ta trên sự trung tín kiên cường của Ngài.
Vậy, Đời thánh hiến là một cuộc thường xuyên khám phá ra sự hiện diện của Đức Kitô, mỗi ngày một hiểu biết Người hơn, và gắn bó với Người mọi nơi mọi lúc. Đấy chính là “bước theo vết chân Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2,21). Và phải làm công việc này dưới cái nhìn đức tin.
Bài suy niệm 3
NGƯỜI PHỤ NỮ NGOẠI TÌNH
(Gioan 8,2-11)
Giờ đây, chúng ta dâng lên Chúa Giêsu giờ cầu nguyện này:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là cây nho thật và chúng con được may mắn tháp ghép vào Chúa như những cành nho. Xin giúp chúng con biết lắng nghe giáo huấn của Chúa và đưa ra áp dụng, để chúng con luôn đón nhận mọi sự từ Chúa, chúng con sẽ phát triển và sinh hoa quả tốt lành làm vinh danh Chúa Cha.
Hôm nay, tôi muốn suy gẫm về giai thoại “Người phụ nữ ngoại tình”, ở chương 8, câu 2 đến câu 11, của Tin Mừng Gioan.
1. Tôi tưởng tượng Đức Giêsu ngồi trên một cái ghế đẩu, người hơi nghiêng về phía trước, và viết gì đó trên mặt đất. Cách Đức Giêsu một chút là người phụ nữ, đang phục trên mặt đất, vì bị các vị kinh sư và Pharisêu thô bạo dẫn đến gặp Đức Giêsu. Tôi như đang thấy một nhóm các kinh sư và Pharisêu, mỗi người đều cầm một cục đá to, tay giơ lên trong thế sẵn sàng ném tới. Họ sẵn sàng kết thúc cuộc đời của một con người mà họ cho là quá ô nhơ, mà lòng thầm vui vì sẽ khiến Đức Giêsu phải tự mâu thuẫn với các giáo huấn của Người về lòng nhân hậu từ bi.
Đức Giêsu ngẩng đầu lên và nhìn các bậc thầy của dân. Người nhìn chăm chú. Và Người nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (c. 7). Rõ ràng Người nhìn nhận giá trị của Luật và Người cũng công nhận án quyết. Nhưng Người cũng mời gọi mỗi người nhìn lại bản thân. Rồi Người lại nghiêng mình xuống và viết tiếp trên cát.
Một lát sau, vị kinh sư đầu tiên hạ tay xuống, vị này lớn tuổi nhất, ông bỏ rơi cục đá. Ông quay lưng lại và bỏ đi. Lại một ông nữa, rồi một ông nữa, cho đến khi chẳng còn vị thầy nào nữa. Khi ấy, Đức Giêsu đứng dậy, nhìn người phụ nữa; bà này bắt gặp ánh mắt của Người, cũng đứng dậy. Khi hai người đã đối diện, Đức Giêsu phác một cử chỉ tha thứ và khuyến khích, mời bà ra đi trong tự do, nhưng cũng khuyến khích bà: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (c. 11).
2. Quả thật, người phụ nữ này là người có tội, vì đã bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Và chiếu theo Luật Môsê, bà phải bị ném đá. Ném đá là để bàn tay khỏi phải đụng chạm đến hạng người nhơ uế. Nhưng Đức Giêsu không đặt bà trước Lề Luật, cũng không đưa bà ra trước những thẩm phán loài người, nhưng ra trước Thiên Chúa, Đấng đầy lòng từ bi thương xót. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài không mắc vào những thứ đam mê chia bè chia đảng, Ngài tha thứ, cách hoàn toàn nhưng-không, cho người phụ nữ ấy. Thánh Âutinh đã tóm hoạt cảnh này trong câu: “Đây là lòng từ bi thương xót đứng trước sự bần khốn, đấy là tất cả Tin Mừng!”. Đức Giêsu nhìn đến sự bần khốn của kẻ có tội để tái tạo tình trạng vô tội ban đầu, để kiến tạo lại thọ tạo của Người. Ở trên thập giá, Người sẽ ban tặng ơn tha thứ cho mọi người và Người sẽ tạo lập dân mới của Người với hàng tỉ người đã được cứu độ. Người đối xử với nhân loại tội lỗi, với mỗi người chúng ta, y như Người đã đối xử với người phụ nữ này.
Câu trả lời cho các kinh sư và người Pharisêu rất rõ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (c. 7). Đức Giêsu không từ chối Lề Luật, Người không phải là kẻ phá đạo; nhưng Người tìm cách đưa lại cho Lề Luật ý nghĩa và vai trò đích thực của Luật. Những kẻ đến để gài bẫy Người đã dùng Lề Luật như là một phương tiện để gây áp lực, một dụng cụ để thống trị kẻ khác, họ đã dùng Lề Luật để phân biệt người này với người nọ. Đức Giêsu lại cho thấy Lề Luật phát xuất từ Thiên Chúa phải là một phương tiện để thực hiện chương trình yêu thương của Thiên Chúa. Xuyên qua Lề Luật, người ta phải phục vụ một chương trình cứu độ loài người.
3. Hôm nay, tôi muốn nhận định lại bản thân tôi. Nếu tôi đối lập lại với những người khác, với ước muốn là sửa dạy họ, nhưng bằng cách thống trị họ với tất cả những lớp vỏ bề ngoài là quyền lực, là hợp pháp, thì tôi trở thành đồng lõa với họ trong sự dữ rồi, trong khi tôi lại tưởng rằng tôi đang làm cho họ nên khá hơn. Khi đăt mình làm thẩm phán xét xử những con người, xét xử những trái tim và lương tâm (chứ không chỉ xét xử những hành vi), khi đó tôi đã trở thành một kinh sư, một người Pharisêu của bài Tin Mừng rồi. Thay vì sửa chữa được điều dữ, tôi đã làm gia tăng điều dữ. Hôm nay tôi hiểu rằng cách thức mạnh nhất, triệt để nhất, để giảm thiểu sự dữ trong thế giới, đó là trục xuất sự dữ trước tiên ra khỏi lương tâm của chính tôi. Điều đáng tiếc là tôi thường lên án kẻ khác, lại là để che giấu những điều xấu, điều dữ, đang có đầy trong trái tim tôi. Lẽ ra tôi đã yếu đuối, tôi phải thông cảm với những chị em yếu đuối; tại sao tôi lại mau mắn kết án? Ít ra tôi cũng phải công nhận: các kinh sư và người Pharisêu ấy còn khá lương thiện để nhận biết bản thân khi nghe lời Đức Giêsu mời, và rút lui như một sự thú nhận tình trạng bất xứng của bản thân…
Không biết người phụ nữ đã được tha thứ sẽ đáp lại lời khuyến khích của Đức Giêsu như thế nào. Nhưng tôi hiểu lời mời gọi đó cũng được gửi đến cho chính tôi và chính là nơi tôi mà lời mời gọi tha thiết đó của Đức Giêsu phải trở thành hiện thực. Nhưng muốn vậy tôi cần biết tôi đã sa ngã từ đâu, để chính từ nơi đã sa ngã đó mà tôi chỗi dậy và bước đi. Như lời Đức Giêsu mời gọi Họi Thánh Êphêxô: “Hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu” (Kh 2,5).
Đức Kitô đã đến để cứu độ những kẻ tội lỗi. Chỉ khi tôi cảm thấy liên đới với những người tội lỗi, cảm thấy mình cũng là kẻ có tội giữa những kẻ có tội, tôi mới mong được nghe vào ngày Phán xét, một lời chan chứa tình âu yếm: “Ta cũng vậy, ta không lên án con đâu”.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người phụ nữ luôn đi bước trước,
Xin ban cho chúng con có sức ra đi ngay, mỗi khi vấn đề là trao ban sự tha thứ.
Xin đừng để chúng con đẩy lùi sang ngày hôm sau / một cuộc gặp gỡ đưa lại bình an / mà chúng con có thể thực hiện ngay ngày hôm nay.
Xin thiêu đốt hết những do dự của chúng con. Xin giúp chúng con để đừng có một ai trong chúng con bắt người anh em chị em phải đứng trên than hồng, mà nói đi nói lại với giọng miệt thị: Chính họ phải di chuyển trước đi!
Không! Chính chúng con phải đi bước trước, theo gương Đức Giêsu, Con Mẹ, và theo gương của chính Mẹ.
Bài giảng 5
ĐỨC MARIA ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA
Mục đích: Xin Đức Maria dạy đón nhận Lời Chúa
Chân phước Guerric d’Igny (Xitô): “Đức Maria là một tâm hồn cưu mang Lời Chúa”.
Thánh Âutinh: “Đức Maria đã cưu mang [Ngôi] Lời trong tâm trí trước khi cưu mang Ngài trong thân xác mình” (Prius concepit mente quam corpore). Và ngài còn nói thêm rằng mang Đức Kitô trong lòng hẳn là đã chẳng có giá trị gì nếu Mẹ cũng đã không mang Ngài với tình yêu nơi đáy lòng (x. De S. Virg. 3; PL 40, 398).
Thái độ thường hằng của Đức Maria: Lắng nghe và suy ngẫm
a) Hoạt cảnh Truyền tin (Lc 1,26-38)
Trong cuộc gặp gỡ với sứ thần Gabriel, Đức Maria chứng tỏ một thái độ thường hằng: lắng nghe và suy gẫm. Vì lắng nghe kỹ càng lời chào của sứ thần, “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà”, Mẹ đã “bối rối” vì nhạn thấy nội dung lời chào quá cao trọng. Thế là sứ thần đã trấn an.
Sau đó, khi sứ thần đã truyền đạt sứ điệp, Maria lại suy nghĩ. Mẹ tin nhận, nhưng vì không hiểu nên Mẹ đã đặt câu hỏi cho sứ thần Gabriel như người học trò hỏi thầy, đồng thời cũng là người tín hữu trao đổi với Thiên Chúa: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Và sứ thần đã giải thích. Khi đã biết rằng mọi chuyện ở đây nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, Mẹ đã thưa “Xin vâng” và đón lấy Ngôi Lời làm người nơi thân xác mình.
b) Bài ca ngợi khen (Magnificat; Lc 1,46-55)
Rồi Maria đã lên đường đi thăm viếng chị họ Êlisabét. Tại ngưỡng cửa nhà ông Dacaria, khi gặp bà Êlisabét, Đức Maria như đã cùng với người chị họ ôn lại các câu Kinh Thánh, vì các lời lẽ của bà Êlisabét cũng như của Đức Maria thấm nhuần các câu Cựu Ước. Ngoài ra, qua bài Magnificat: Đức Maria nhìn lại cách thức Thiên Chúa hành động trong lịch sử dân Israel để từ đó hiểu cách thức Thiên Chúa đang làm việc hôm nay nơi bản thân mình và trong thế giới.
c) Đức Giêsu xác nhận thái độ ấy và chúc phúc (Lc 11,27-28)
Chính Đức Giêsu đã gián tiếp xác nhận thái độ khiêm tốn lắng nghe của Đức Maria qua hoạt cảnh nhỏ ở trong TM Lc: Khi một người phụ nữ lên tiếng khen ngợi “người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”, Đức Giêsu trả lời: Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Có ai hơn Mẹ trong thái độ này? Do đó lời Đức Giêsu nói không hề có ý phủ nhận sự cao trọng của Đức Maria, nhưng là xác định sự cao trọng đích thực của Mẹ nằm ở chỗ Mẹ “lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”, cũng có nghĩa là lắng nghe là tuân giữ (đưa ra thực hành) lời Thiên Chúa.
Trong tương quan với Lời Chúa, “lắng nghe” không phải là vấn đề của thính giác mà là vấn đề của con tim: “con tim biết lắng nghe” là lời vua trẻ Salômôn xin Thiên Chúa ban cho mình (1 V 3,9). Salômôn xin cho mình có một trái tim biết “lắng nghe” Thiên Chúa, tức là hiều được các điều Thiên Chúa phán dạy (= khôn ngoan), và viết sẵn sàng đưa ra thi hành. Trước những sự việc phi thường mà Thiên Chúa thực hiện nơi bản thân Mẹ nhằm cứu độ loài người, Maria mở rộng tâm hồn để lắng nghe, để hiểu những điều mình nghe, để đón nhận và đưa ra thi hành. Quả thật, Mẹ đã trở thành một “tâm hồn cưu mang Lời Chúa”.
1. Cách thức đọc và lắng nghe Lời Chúa
Hiến chế PV 7a dạy: “Chúa Kitô hiện diện trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo Hội”.
Còn Huấn thị XP thì viết: “Trong Tông thư Nghìn năm thứ ba đang bắt đầu (Novo Millennio Ineunte), chúng ta đọc: “Đăc biệt cần thiết là việc nghe Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống …, cho phép rút từ bản văn Kinh Thánh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta”… Lời Thiên Chúa là của ăn cho đời sống, cho việc cầu nguyện và cho hành trình hằng ngày, là nguyên lý hiệp nhất cộng đoàn nên một lòng một ý, cảm hứng cho việc canh tân của thường huấn và những sáng kiến tông đồ… Người tín hữu cần phải đón tiếp Đức Kitô trong tâm trí khi đã đón nhận Người trong thân xác. Và đón tiếp Đức Kitô trong thân xác có nghĩa cụ thể là nghĩ tưởng đến Người, thường xuyên nhìn về phía Người, nhớ đến Người” (số 24).
Trong thực tế, để cho việc đọc và nghe Lời Chúa thật sự sinh ích cho chúng ta, chúng ta cần bắt chước thái độ “lắng nghe Lời Chúa” của Đức Maria, một thái độ rất hồn nhiên, nhưng rất vững chắc. Trong buổi trò chuyện với các bạn trẻ Rôma và miền Latium tại quảng trường thánh Phêrô ngày 06-4 năm nay, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã đề ra ba điểm như một lược đồ phương pháp đọc Lời Chúa, mà chúng ta có thể thấy là rất giống với cách làm của Đức Maria:
(1) Đọc Lời Chúa là đi vào một cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Do đó, trước tiên phải cầu nguyện, phải thưa với Chúa: “Xin mở cửa cho con”. Đó là điều thánh Âutinh thường nói trong các bài giảng: “Tôi đã gõ cửa của Lời Chúa để cuối cùng tìm ra điều Chúa muốn nói với tôi”. Như thế, phải cầu nguyện, phải thưa với Chúa: “Xin giúp con hiểu được Lời Ngài, điều Chúa muốn nói với con trong trang Kinh Thánh này”.
Đức Maria đã đối thoại với Thiên Chúa qua trung gian là sứ thần Gabriel.
(2) Người ta không thể đọc Kinh Thánh một mình. Dĩ nhiên, việc đọc Kinh Thánh cách rất riêng tư, trong một cuộc đối thoại riêng tư với Thiên Chúa, là điều luôn luôn rất quan trọng, nhưng đồng thời, quan trọng không kém là việc đọc Kinh Thánh với sự trợ giúp của các bậc thầy. Các vị thầy sẽ giúp chúng ta hiểu biết Lời Chúa và học biết cách đọc Lời Chúa tốt hơn. Rồi cũng nên đọc cùng với các bạn, những người đồng hành với chúng ta và cũng đang cùng với chúng ta tìm ra cách sống với Đức Kitô, nhờ đọc Kinh Thánh.
Đức Maria đã xin sứ thần Gabriel soi sáng, và cũng đã cùng với bà Êlisabét ôn lại Lời Chúa.
(3) Điểm cuối cùng đặc biệt quan trọng là đọc Kinh Thánh củng với Dân Thiên Chúa đang lữ hành, tức là đọc Kinh Thánh trong Họi Thánh. Có các tác giả cá nhân, nhưng Dân Thiên Chúa luôn luôn tồn tại, đang bước đi với Lời Chúa và đang đối thoại với Thiên Chúa. Họi Thánh sẽ giúp chúng ta thấy rằng các lời có vẻ thuộc về quá khứ đó cũng là những lời của hiện tại.
Đức Maria đã quy chiếu về lịch sử Dân Thiên Chúa để hiểu cách Thiên Chúa hành động, hầu biết cách cộng tác.
Khi đọc hoặc nghe Lời Chúa, chúng ta đọc và nghe một Đấng hay là đọc và nghe “kỷ niệm” về một con người, nghe chuyện cổ tích để tùy nghi rút ra những bài học luân lý? Vàsau đó, chúng ta để cho Thiên Chúa hướng dẫn hay là chúng ta uốn nắn Lời Chúa theo ý mình?
“Một khi đã được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, được nên mới mẻ, tự do và phù hợp với Tin Mừng, các người thánh hiến nam nữ có thể trở nên những tôi tớ đích thực của Lời trong công việc truyền giáo” (XP 24).
Bài giảng 6
LỜI KHẤN VÀ ĐỜI SỐNG
Mục tiêu: Suy nghĩ về quan hệ giữa lời khấn và đời sống
1. Những tên gọi
a) Bậc sống hoàn hảo
Thần học Kinh viện thế kỷ xiii gọi Đời sống tu trì là “bậc sống hoàn hảo” hay “tình trạng hoàn hảo” (state of perfection). Đã đi vào “tình trạng” ấy, thì buộc phải sống một “đời sống” hoàn hảo.
Hôm nay, người ta thấy khác: vấn đề là chọn sống. Vì chọn sống nên tôi mới chọn phương tiện, bậc.
Quả thật, vấn đề “sự sống” (“sống và cảm thấy mình sống”) đang vượt trước vấn đề “bậc sống” (= qui chế xã hội qua đó người ta được nhìn nhận). Có những con người hôm nay, ngay khi tỏ ra gắn bó nhất với qui chế xã hội của họ, đôi khi cũng vẫn không ngần ngại nói rằng “cuộc sống đích thực của họ nằm ở chỗ khác!”. Đối với con người thời nay, nguyện vọng được sống không nhất thiết được diễn tả ra bằng việc đi tìm một bậc sống nữa. Các tu sĩ hôm nay cũng chịu ảnh hưởng não trạng mới này. Do đó, dường như vào ngày hôm nay người ta không muốn nói đến việc khấn như thể đi vào trong một bậc sống nữa. “Bậc sống” không phải bao giờ cũng là “nơi sống”, là “đời sống”!
Do đó, cần xác minh lại ý nghĩa sâu xa của việc khấn hứa trong Dòng tu.
b) Khấn
- Trong ngôn ngữ tôn giáo, “khấn” ưu tiên chỉ những việc buộc mà người ta tự bắt mình theo. Ví dụ: Một người khấn: “Nếu Chúa cho con của con lành bệnh, con sẽ dâng một cây nến cao bằng nó”. Sau đó, con của ông ấy lành bệnh, thì ông ấy phải đi đúc một cây nến cao bằng nó mà dâng cho Thiên Chúa.
- Theo ngôn ngữ thông thường, “khấn” trước tiên có nghĩa là một nguyện ước mà một người bày tỏ ra sau khi đã để cho nó dâng lên cách thầm kín nhiệm mầu từ đáy lòng.
Ví dụ: Lời khấn Dòng MTG diễn tả ý muốn “bước theo sát dấu chân Đức Giêsu trên đường Thánh Giá, để hiến thân trọn vẹn cho Chúa Cha và phục vụ anh chị em đồng loại” (HC đ. 36).
Lời khấn này, chị em Dòng MTG đã nghiền ngẫm tha thiết lâu rồi, nay nói ra.
c) Lời khuyên Phúc Âm
Cách đây không lâu, giáo huấn thần học về đời sống tu trì coi những “lời khuyên Phúc Âm” là toàn bộ những qui định được áp đặt cho các tu sĩ do bậc sống của họ. Khoa chú giải hiẹn đại đã xác định rằng các ý kiến ấy không hề có ý muốn nói là có hai loại tín hữu Đức Kitô! Các “lời khuyên Phúc Âm” liên hệ đến mọi người đã được rửa tội. Các lời khuyên ấy nhắc mỗi người nhớ đến “quyền ưu tiên của Nước Trời” và “sự ưu tiên phải dành cho Nước Trời”. Bất cứ ki-tô hữu nào, nếu muốn đạt tới Nước Trời, đều phải sẵn sàng gặp những đòi hỏi này, những đòi hỏi không thuộc về Lề Luật. Các “lời khuyên Phúc Âm” nói cho những người đã bước theo Đức Giêsu Kitô bằng phép rửa tội biết rằng: cuộc hành trình của họ đã khởi sự có thể dẫn họ tới những thái cực nào.
2. Đọc Mt 19,16-22 (x. Mc 10,17-22; Lc 18,18-23)
Khi đọc đoạn văn Mt 19,16-22, chúng ta thấy người thanh niên này giàu có, anh cũng đang đi tìm sự sống, mà vẫn chưa cảm thấy được no thỏa trong tâm linh. Anh “đã thực thi mọi giới răn từ hồi niên thiếu”, nhưng lại linh cảm là có thể đạt tới một cái hơn (plus / more). “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” (Mt 19,16). Ai mang mối ưu tư tìm cho ra “nẻo đường phải theo” để đạt tới sự sống hoàn hảo, thì tìm hết rabbi này tới rabbi kia mà hỏi một câu duy nhất đó.
Anh không chờ đợi có “hơn” về của cải, nhưng mong muốn có “hơn” về sự sống, mà anh diễn tả ra bằng từ “thiếu”: “Tôi còn thiếu gì nữa?” (c. 20). Anh không đặt vấn đề “bậc sống”.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho con người hôm nay vẫn y nguyên như ngày xưa: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện …”, “Nếu chị muốn nên hoàn thiện …”. Đức Giêsu không phải là một nhà luân lý đang sẵn sàng đề nghị những việc làm cốt đưa vào một “bậc sống” đâu. Tiếng “nếu” không phải là nhằm xác định một điều kiện, mà là nêu lên một “ghi nhận”: “Bởi vì trong thực tế anh đang có một ao ước là được sống …”. Và như thế, cốt lõi của câu trả lời không nằm trong “hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo”, nhưng nằm trong cụm từ “Hãy đến theo tôi”. Ý Đức Giêsu là: “Nguyện vọng được sống đang dày vò anh, cuối cùng sẽ có thể bung mở ra trọn vẹn, nếu anh bước theo tôi”. Mà muốn “bước theo tôi”, thì hãy “đi”, “bán”, “cho”, “đến”…
3. Ý nghĩa thiêng liêng của lời khấn
Như vậy, mục đích của chúng ta là bước theo Đức Kitô, là sống cho Triều Đại Thiên Chúa theo gương Đức Kitô, sống để làm chứng rằng Thiên Chúa là Chúa tể, và Ngài đang bung mở quyền chủ tể ra. Lúc đầu, các thánh không đặt vấn đề về các lời khấn dòng. Các ngài đi tu là để sống cho Thiên Chúa, sống vì Thiên Chúa, trọn đời. Về căn bản, đời sống tu trì chỉ có một lời khấn độc nhất: Tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa theo gương Đức Kitô.
Sang thế kỷ 12, các tu sĩ dòng Âutinh mới chi tiết hóa lời khấn độc nhất ra thành ba lời khấn. Năm 1202, Đức giáo hoàng Innocent III, trong thư gửi một đan sĩ ở Subiaco, đã đề cập rõ ràng đến ba lời khấn dòng. Nhưng lúc đầu, người ta chỉ có một ý là sống hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Chúng ta đã biết vai trò của đời sống thánh hiến trong Giáo Hội rồi (x. GH…). Ở đây xin nhấn mạnh: Chúng ta chỉ có thể “khấn” theo nghĩa là chấp nhận những bổn phận, những bó buộc, nếu trước đó, chúng ta đã “khấn” theo nghĩa là nguyện ước sống. Chính do nguyện vọng được sống mà một người sẽ buộc mình giữ những bó buộc mà anh đánh giá là thích hợp. Tự buộc mình giữ những bổn phận của một “bậc sống” sẽ không có ý nghĩa gì nếu ta không nhắm nhờ đó đạt được nguyện vọng được sống (sống và cảm thấy mình sống).
Chúng ta cùng đọc lại đoạn văn sau đây của Huấn thị XP; trong đoạn văn này, Huấn thị trình bày chức năng của các lời khấn theo chiều hướng trên:
“Các lời khấn mà ta đã tuyên hứa để sống các lời khuyên Phúc Âm đem lại cho lời đáp trả tình yêu tất cả tính triệt để của nó. Lời khấn khiết tịnh mở rộng con tim cho đến chiều kích của con tim Đức Kitô và làm cho nó có thể yêu mến như Người đã yêu. Lời khấn nghèo khó giải thoát ta khỏi nô lệ các sự vật và các nhu cầu giả tạo đang lôi cuốn xã hội tiêu dùng và dẫn ta đến việc tái khám phá Đức Kitô, kho tàng duy nhất đáng để ta tìm kiếm. Lời khấn vâng phục đặt cuộc sống hoàn toàn trong bàn tay Đức Kitô ngõ hầu Người có thể sử dụng theo kế hoạch của Thiên Chúa và biến nó trở nên một tuyệt tác” (XP 22f).
Bài suy niệm 4
ĐÁNH LIỀU CŨNG BÕ CÔNG
(Bà Canaan, Mt 15,21-28)
Giờ đây, chúng ta ý thức mình đang ở trước mặt Thiên Chúa, chúng ta thờ lạy Ngài và xin Ngài hướng dẫn trong giờ suy niệm và cầu nguyện này.
Lạy Thiên Chúa chí tôn vinh hiển, xin chiếu sáng vào tâm hồn mù tối của con. Lạy Chúa, xin ban cho con một niềm tin chân chính, một đức cậy vững vàng, một lòng mến hoàn hảo; xin làm cho con nên minh mẫn tinh tường để con biết tuân hành thánh ý đích thực của Chúa.
Hôm nay, tôi suy gẫm về câu truyện bà Canaan đến xin Chúa Giêsu chữa cho con gái bà, để học lấy bài học “đánh liều của bà”. Tôi đọc Tin Mừng Matthêu chương 15, câu 21 đến câu 28.
1. Bài tường thuật của thánh sử Mátthêu
Có một người đàn bà Canaan đến gặp Đức Giêsu để xin Người chữa cho con gái khỏi bị ma quỉ hành hạ. Đức Giêsu vẫn thinh lăng, dù một trong những điểm thuộc sứ mạng của Người là xua trừ ma quỉ (x. Mt 10,1). Các môn đệ đã đến năn nỉ Thầy giúp bà, chẳng phải vì họ thấy lời thỉnh cầu của bà chính đáng, hợp tình hợp lý, nhưng chỉ vì bà ta cứ kêu mãi, bà ấy làm phiền.
Rõ ràng là bà muốn đạt được một điều và bao lâu chưa đạt được thì bà nhất định không chịu thua. Mặc cho người ta có im lặng, tránh né bà, hay là xua đuổi bà đi nữa, bà chẳng sợ. Bà kiên trì nài xin, rõ ràng là bà bám rất chắc! Bà muốn tới một mục tiêu và bà phải đạt được mục tiêu đó. Đức Giêsu im lặng, rồi sau đó Người trả lời bằng một câu phải nói là rất sỉ nhục: “Không được lấy bánh của con cái mà cho chó con” (c. 26). Nghe thế, đã chẳng cảm thấy nhục nhã mà hậm hực bỏ đi, bà ấy còn tỏ ra đồng ý với Đức Giêsu: “Vâng đúng thế”. Nhưng rồi bà nói thêm một câu khiến cho Đức Giêsu phải đổi ý: Bà cho biết rằng bà đâu có dám xin bánh, bà chỉ xin mấy vụn bánh thôi, mà cũng chẳng phải xin vụn bánh do chủ đoái thương chủ ý ban cho; bà chỉ xin được ăn những vụn bánh tình cờ rơi xuống từ bàn chủ trong khi ông dùng bữa thôi. Xin một thứ dư thừa, xin một thứ không ai bận tâm đến. Và Đức Giêsu đã không thể từ chối bà được nữa; Người đã đáp ứng như ý bà xin.
2. Vài nhận định
Tôi nhận thấy rằng:
Bà Canaan này đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh.
Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu. Bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.
Không biết là bà có linh cảm được rằng Đức Giêsu thế nào cũng chấp nhận lời bà thỉnh cầu chăng. Không biết là bà có đã nghe biết nhiều về Đức Giêsu chưa. Không biết là bà có hiểu biết phần nào nhân cách của Đức Giêsu chăng. Nhưng cách bà xin cho tôi thấy là bà biết là bà có thể cậy dựa vào Đức Giêsu. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này. Khi biết rằng bà xin không phải cho bà, khi biết rằng con người mà bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chẳng có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Tôi chợt nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà goá nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Tại sao cũng lại là một phụ nữ? Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.
Nhìn lại cách tôi sống và cầu nguyện, tôi nhận ra gì? Dường như tôi dễ buông xuôi trước một khó khăn dù bé nhỏ. Dường như tôi không có xác tín mãnh liệt về ơn gọi của tôi để sống cho đến mức độ cuối cùng. Dường như tôi không có cảm thức rằng số phận của người khác liên hệ đến cách tôi sống ơn gọi của tôi. Quả thật, tôi lùi bước tức khắc khi vừa bị từ chối. Có mấy khi tôi kiên trì cầu xin Chúa cho một người đã cậy nhờ tôi cầu nguyện cho đâu. Dường như tôi chẳng dám lên tiếng cho những người cô thế cô thân, vì tôi sợ liên lụy đến tôi, tôi sợ mất quyền lợi, mất chỗ đứng, mất sự tín nhiệm... Có khi chỉ nguyên nghĩ rằng tôi chẳng đạt được kết quả gì đâu, là tôi đã cảm thấy tê liệt, chân tôi không sao nhúc nhích được nữa rồi. Người phụ nữ Canaan này, một người ngoại, cho tôi thấy rằng kiên trì là một nhân đức, bởi vì nó lay chuyển được lòng của Thiên Chúa! Bà ý thức rằng bày tỏ nguyện vọng tốt lành, nhất là để trợ giúp kẻ khác, thì không phải là chuyện xấu để phải cả nể, để phải giữ kẽ, để phải nổi tự ái lên.
Vâng, tôi phải thấy để có thể xin. Tôi phải xin để tìm ra những câu trả lời và những giải pháp. Tôi phải luôn luôn bắt đầu và tiến đi như thế.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, là nữ tỳ phục vụ thế giới, Mẹ đã trải nghiệm những gian truân khốn khó của những người nghèo,
xin giúp con sẵn sàng tận dụng đời sống con để phục vụ họ, qua những cử chỉ kín đáo trong thinh lặng, chứ không phải qua những chương trình quảng cáo rầm rộ.
Xin giúp con ý thức rằng, dưới những lớp áo tồi tàn của những người mệt nhọc và những người bị áp bức, con găp được chính Đức Vua, Đức Giêsu, Chúa của con.
Bài giảng 7
ĐỨC MARIA
ĐỂ CHO LỜI CHÚA BIẾN ĐỔI MÌNH
Mục đích: Xin Đức Maria giúp biết cộng tác với Lời Chúa để được biến đổi
- Đức Maria đã thưa với sứ thần Gabriel: “Này (Ecce) tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi (fiat) như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
- Chân phước Guerric d’Igny thì nói: “Đức Maria là một tâm hồn cưu mang Lời Chúa”.
- Hôm nay, khi cầu nguyện với đề tài này, chúng ta có bối cảnh là Bảy sự Thương Khó của Đức Maria.
Lời Chúa không phải là một cái gì tĩnh, bất biến, nhưng là một mầm sống cứ tăng trưởng không ngừng, một sự sống thần linh cứ phát triển để nên hình nên dạng trong lòng Mẹ.
Sau khi Ngôi Lời nhập thể, Đức Maria được đầy Đức Giêsu không những nơi thân xác, mà cả trong tâm trí: đầy Đức Giêsu bởi vì Đức Giêsu chiếm tất cả tư tưởng của Mẹ, sự chờ đợi của Mẹ, tình yêu của Mẹ. Sự sống của Thiên Chúa dần dà làm chủ bản thân Mẹ. Có những ngày, đấy là một khối nặng đang tì mạnh vào con người mảnh dẻ của Mẹ, làm Mẹ đau đớn. Mầm chồi ấy dần dà thấm nhuần vào trong tâm lý của Mẹ, trong những thái độ sâu xa của Mẹ. Từ nay, đã là người cưu mang Lời Chúa, Mẹ không thể sống như không có mầm Lời Chúa trong mình. Chính Lời Chúa thúc đẩy Mẹ xử sự, hành động, nói năng, như người mang Lời Chúa trong lòng. Khi đó, nếu coi Mẹ là một phần của thế giới, thì có thể nói thế giới đã bắt đầu được biến đổi rồi.
1. Lời Chúa là “thanh gươm hai lưỡi” (Dt 4,12): chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta (XP 24). Khi “cưu mang” Lời Chúa trong tâm hồn, tu sĩ chắc chắn cũng cảm thấy Lời Chúa cày xới tâm hồn, thúc đẩy mình suy nghĩ, xử sự, nói năng …
Chính thư Dt đã nói: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy… tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4,12-13).
Ht XP 24 trích Novo Millennio Ineunte (số 39): “Đặc biệt cần thiết là việc nghe Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống… cho phép rút ra từ bản văn Kinh Thánh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta”.
2. Một sự nuôi dưỡng và đào luyện (XP 24): ghi khắc trên tu sĩ những nét đặc trưng của Ngôi Lời Nhập thể (christiforme, x. ĐTH 14, 16, 18).
Ht XP 24 nhắc lại lời khuyên của Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II: “Anh chị em đừng mệt mỏi suy niệm Kinh Thánh và nhất là Tin Mừng để Lời Chúa có thể ghi khắc trên anh chị em những nét đặc trưng của Ngôi Lời Nhập thể” (GP II, Bài giảng 2/2/2002).
Và đấy là bắt đầu cuộc sống “theo kiểu Kitô (christiforme)”, nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”, Đức Giêsu là “Mẫu Mực”. Tu sĩ “được đồng hóa với Người, nhờ có cùng những tâm tình và cùng một lối sống” (ĐTH 14, 16, 18).
Đời sống của mọi ki-tô hữu phải là một đáp trả cá nhân với Lời Chúa, đáp trả một lời mời, một tiếng gọi của Thiên Chúa. Các thánh là những ki-tô hữu đã đáp trả Lời này cách gương mẫu.
3. Kết quả: “Đời sống thánh hiến là một ký ức sống động về lối sống và hành động của Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể...” (ĐTH 22).
Một cách ngắm nhìn các thánh là xem các ngài như một minh họa, một lời bình Tin Mừng. Tiểu sử của nhiều vị thánh đã cho thấy sức biến đổi của một lời nào đó trong Tin Mừng. Thánh Âutinh, khi nghe một em bé hát “Hãy cầm lấy mà đọc!”, thì đã mở Kinh Thánh ra và mắt ngài thấy ngày đoạn thư của thánh Phaolô: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,13-14). Thánh Antôn, tổ phụ đan tu sa mạc, đã nghe và áp dụng cho mình đoạn Tin Mừng nói về người thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Thánh Phanxicô Assisi, vào ngày 24-2-1209, đã bị rúng động bởi bài Tin Mừng kể lại việc sai phái Nhóm Mười Hai (x. Mc 6,8); ngài hiểu ngay là ngài được đề nghị đi rao giảng Tin Mừng về sự nghèo khó. Cha Charles de Foucauld thì bị đánh động bởi nếp sống ẩn dật của Đức Giêsu, việc lao động tay chân, sự khiêm nhường và việc phục vụ âm thầm của Ngài, để rồi đã tìm ra đường hướng sống cho mình, cho các anh Tiểu Đệ và các chị Tiểu Muội. Thánh Têrêsa Lisieux đã tìm ra ơn gọi và vị trí của ngài trong Họi Thánh khi đọc 1 Cr 12 về các đặc sủng cho tới lời mời gọi của thánh Phaolô: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả” (c. 31), và đó là bài ca đức mến. Khi nhận định về cuộc đời cỉa hai vị thánh mới được tôn phong ngày 29-01-2004, các vị có thế giá đã cho rằng cuộc đời của thánh Arnold Janssen có thể được minh họa bằng câu “Ut Verbum Dei currat” (2 Tx 3,1: “Để lời Chúa được phổ biến mau chóng”) và cuộc đời thánh Joseph Freinademetz thì được minh họa bằng câu: “Omnibus omnia factus sum” (1 Cr 9,22: “Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người”).
Ht XP 24 dạy: “Một khi đã được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, được nên mới mẻ, tự do và phù hợp với Tin Mừng, các người thánh hiến nam nữ có thể trở nên những tôi tớ đích thực của Lời trong công việc truyền giáo”.
Khi đó đời sống thánh hiến thật sự là một ký ức sống động về lối sống và hành động của Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể trong tương quan với Cha và với anh em Người. Đời sống này là truyền thống sống động về cuộc sống và sứ điệp của Đấng Cứu thế” (ĐTH 22).
Minh họa:
Có một goá phụ Trung Hoa giàu có phụng dường một tu sĩ Phật giáo trong hai mươi năm liền. Bà xây cho tu sĩ một tịnh xá trong khu vườn vắng vẻ thanh tịnh của bà. Bà chu cấp mọi thứ cần thiết. Bà rất sung sướng khi thấy tu sĩ tiến bộ trên đường thiêng liêng. Tuy thế, bà vẫn chưa yên tâm hoàn toàn. Để xem hai mươi năm của bà cho đáng công hay chăng, bà quyết định thử lòng kẻ tu trì.
Một hôm, bà bố trí cho một thiếu nữ xinh đẹp đến cám dỗ tu sĩ. Vào lúc nửa đêm, đang lúc nhà sư ngồi thiền, cô gái đẩy cửa vào và dùng mọi cách để quyến rũ ông. Nhà sư vẫn chìm đắm trong việc tụng niệm. Đến một lúc không chịu nổi các tấn công của cô gái nữa, nhà sư quơ cái chổi, đánh cố gái túi bụi và tống cô ra ngoài.
Cô gái đến gặp bà nhà giàu và kể đầu đuôi câu chuyện. Bà bằng lòng về sự thánh thiện của tu sĩ chăng? Không! Nghe cô gái kể xong, bà nổi giận nói:
- Hắn ta không biểu lộ một chút thông cảm nào với con! Hắn ta không nói được với con một lời để khuyên bảo dạy dỗ con! Hai mươi năm cầu nguyện ăn chay của hắn quả là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.
Bài giảng 8
QUAN NIỆM ĐÚNG VỀ ĐỜI THÁNH HIẾN
Mục đích: Điều chỉnh lại những quan niệm sai lệch về đời thánh hiến
Một người thanh niên muốn trở thành phi công, thì mơ ngày nào đó có được một cái mô-tơ và một cặp cánh. Mọi cuộc đời có giá trị đều phải có một “cái mô-tơ và một cặp cánh”, tức phải có lý tưởng, có ơn gọi. Nhưng đáng tiếc là những cái đẹp nhất cũng tàn tạ theo thời gian! Có những anh hùng phi công đã kết thúc cuộc đời trong những cuộc ăn chơi trác táng. Ngay cả đời thánh hiến cũng có những lúc “tuột dốc”, rơi vào tình trạng “vênh vẹo”, thỉnh thoảng bị “pan”.
Vì vậy tác giả sách Gương Chúa Giêsu nói rằng: “Phúc cho những tu sĩ giữ được phần nào sự sốt sắng thời tập viện”. Nếu ta đã là một “hành khách lạc tuyến đường”, thì thời gian tĩnh tâm sẽ đưa ta trở lại đúng tuyến đường, vì cho ta gặp lại Đức Kitô là “Đường”.
“Bộ áo không làm nên thầy tu”! Nhưng dưới bộ áo dòng, người ta cũng chờ đợi gặp được một “ông thầy tu”, nghĩa là một tinh thần, một linh hồn, một sự sống, là chính sự sống của Chúa Kitô.
1. Khía cạnh tiêu cực: Những quan niệm sai lầm về đời thánh hiến
Ht XP 12d: “Bên cạnh sự nhiệt tình xả thân nhằm làm chứng và tự hiến đến mức tử đạo, những người thánh hiến cũng cảm nghiệm những đe doạ của sự tầm thường trong đời sống thiêng liêng, của việc trưởng giả hóa lần làn và não trạng tiêu thụ. Việc điều hành phức tạp các công việc mà những yêu cầu của xã hội và luật lệ mới của Nhà nước quy định, cùng với các cám dỗ tìm kiếm hiệu năng và duy hoạt động, có nguy cơ làm lu mờ tính độc đáo của Tin Mừng và làm suy yếu các động cơ thiêng liêng. Tình trạng các dự phóng riêng tư chiếm ưu thế hơn các dự phóng cộng đoàn có thể xói mòn sự hiệp thông tình yêu giữa anh em, chị em”.
a) Quan niệm trưởng giả: an toạ; tìm những bù đắp, những thoải mái, tìm cách thoát khỏi những ràng buộc được chừng nào hay chừng nấy. Người ta đào thoát: tìm những an ủi, bù trừ về tình cảm, những giải trí, những kỷ niệm …
Thật ra, không dâng cho Thiên Chúa tất cả là một thứ phản bội “trong trứng”, nhè nhẹ, sẽ dẫn tới sự phản bội toàn diện. Thế mà thế gian không lầm đâu! Khi nó đến gần một tâm hồn thánh hiến, nó muốn nghe xem từ tâm hồn ấy có thật vang lên một âm vang của Đức Kitô chăng. Chúng ta vẫn nói: “Bộ áo không làm nên thầy tu!”. Tuy nhiên, chúng ta muốn người ta tìm ra cái gì dưới một chiếc áo dòng, nếu không phải là một người tu sĩ?
b) Quan niệm bất động: ngồi yên; tránh di chuyển…
Bất động là một tội quên sót tiêu biểu. Đây là bỏ qua không tiến lên, không theo Chúa trên con đường hẹp, con đường duy nhất đáng kể, còn đường của sự hoàn thiện. Thánh Autinh nói: “Khi người ta đã tuyên bố một lần duy nhất: ‘Đủ rồi!’, thì người ta đã ở trong nguy hiểm chết người”. Không tiến là lùi!
c) Tự phụ: Ỷ lại vào sức mình
Xây dựng “các dự phóng riêng” vì không tín nhiệm vào các dự phóng cộng đoàn có thể là do sự tự phụ. Nghĩ rằng tự mình có thể đạt tới sự thánh thiện cho mình và giúp người khác nên thánh, cũng là tự phụ. Thật ra, chính Thiên Chúa, “Đấng Thánh duy nhất”, mới có thể làm cho ta nên “thánh”. Do đó, nền tảng sâu xa của đời ta là sự khiêm nhường (x. Pl 1,21). Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta ý thức về điều này qua những biến cố thăng trầm của đời ta.
2. Khía cạnh tích cực: Những quan niệm đúng về đời thánh hiến
a) Năng động: đi lên, tiến bộ, “không ngừng canh tân chính mình trong việc tăng trưởng…, đào sâu, phát triển” (XP 20). Chính lời Đức Giêsu cho hiểu điểm này: “Hãy theo tôi!”. Các hình ảnh: Nước Thiên Chúa như một hạt giống, một nắm men, những nén bạc… phải làm phát triển, tăng lên. Thánh Phaolô nhắc ta tiến bộ trong Ep 4,13-15. Nơi người tín hữa, phương chi nơi tu sĩ, sự tăng trưởng là sự sống bình thường.
Phải “đào luyện tay nghề”! Tu sĩ, là “nhà phiêu lưu vĩnh cửu”, chuyên viên về những sự thuộc về Thiên Chúa, phải lo cho mình được thành thạo trong việc phụng sự Thiên Chúa. Vậy, phải luôn luôn bắt đầu lại. Đời sống tu trì là một cuộc thăng tiến, một cuộc thanh luyện liên tục. Không có chuyện “về hưu” theo nghĩa không phải cố gắng làm gì cả.
b) Sống Lời Chúa: “Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II nhắc nhở các người thánh hiến rằng sống linh đạo trước tiên có nghĩa là xuất phát lại từ ngôi vị Đức Kitô, Thiên Chúa thật và người thật, hiện diện trong Lời của Người… Thánh thiện không thể có được nếu không lắng nghe lời Thiên Chúa….Đức giáo hoàng đã nói: “Anh chị em đừng mệt mỏi suy niệm Kinh Thánh và nhất là Tin Mừng, để cho Lời Chúa có thể ghi khắc trên anh chị em những nét đặc trưng của Ngôi Lời Nhập Thể” (XP 24). Các bản Luật Dòng và Tổng Hiến Chương đều có mục đích giúp các thành viên sống cụ thể Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. “Một khi đã được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, được nên mới mẻ, tự do và phù hợp với Tin Mừng, các người thánh hiến nam nữ có thể trở thành những tôi tớ đích thực của Lời trong công việc truyền giáo” (XP 24).
c) Thừa sai - tông đồ: Phải là nhà thừa sai trong mọi việc, ở mọi nơi, bất cứ lúc nào. “Nhiệm vụ đầu tiên mà ta phải nhiệt tâm đảm nhận là loan báo Đức Kitô cho mọi người” (XP 37). Ht đề cập đến cả việc “phục vụ sự sống” trong lãnh vực y tế (XP 38), “truyền bá sự thật” trong lãnh vực giáo dục (XP 39)…
Khi thấy cha sở họ Ars hăng say tận tụy phục vụ trong âm thầm khiêm tốn, ma quỉ nói với ngài: “Chỉ cần có ba đứa như mi, thì vương quyền của ta chấm dứt!”
3. Kết luận
Để có thể càng ngày càng sống trọn vẹn đời thánh hiến, cần chú ý vào trọng tâm: đi lên đỉnh cao (Chúa), thì phải trong sạch và tĩnh niệm. Chính từ những đỉnh cao mà phát sinh những nguồn điện mạnh…
“Đời sống thiêng liêng phải được đặt lên hàng đầu trong chương trình của mọi gia đình đời sống tận hiến và mọi cộng đoàn trở thành những trường học về linh đạo phúc âm chân chính” (ĐTH 93).
“Cầu nguyện và chiêm ngưỡng tạo nên bầu khí cho việc đón nhận Lời Chúa và đồng thời phát sinh từ việc lắng nghe Lời. Nếu không có đời sống nội tâm là tình yêu, tình yêu lôi kéo Ngôi Lời, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần về với mình, thì không thể có được một cái nhìn đức tin. Kết cục là cuộc sống không còn có ý nghĩa, khuôn mặt của anh em chị em bị che khuất và ta không thể nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa trong họ, các biến cố lịch sử vẫn luôn khó hiểu và thiếu niềm hy vọng, sứ vụ tông đồ và bác ái biến thành những hoạt động chẳng đi đến đâu” (XP 25a).
Bài suy niệm 5
LỜI CHỨNG CỦA BÀ MARIA MÁCĐALA
(Gioan 20,11-18)
Giờ đây, chúng ta cùng cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, mầu nhiệm Vượt Qua đã đem lại cho chúng con ân huệ dồi dào; xin cho chúng con được thấy những ân huệ Chúa ban sinh hoa kết quả trong suốt cuộc đời chúng con.
1. Kinh nghiệm về cái chết, đối với các môn đệ cũng như đối với tôi, là kinh nghiệm về cái chết của một người thân yêu. Cái chết thật sự đi vào trong kinh nghiệm của tôi khi nó “hái” đi một con người gần gũi và yêu quí đối với tôi. Sự cắt đứt một liên hệ sống động, sâu xa, cách vĩnh viễn và bất khả vãn hồi, với một người lâu nay vẫn thuộc về chân trời hằng ngày của tôi hoặc của thế giới tình cảm của tôi dường như, thoạt tiên, là điều không thể chịu nổi. Hoặc cái chết là một con đường không chỗ có quay lại hoặc không phải là cái chết. Các môn đệ đã kinh nghiệm như thế khi Đức Giêsu bị cất đi khỏi họ, Đấng lâu nay đã trở thành một con người cốt yếu trong đời sống của họ: đối với họ, Người không chỉ là một người thân yêu, mà còn là chìa khóa của cuộc sống họ. Vậy mà bây giờ, Người đã chết!
Thế nhưng Tin Mừng đã không kết thúc với cái nốt tiêu cực này. Lạ lùng là bài tường thuật không kết thúc như biết bao bài tường thuật khác với cái chết của nhân vật chính. Do đâu mà có cái phần nối tiếp của bài tường thuật đưa đi sang bên kia cái chết như thế?
Câu trả lời rõ ràng nhất, câu trả lời mà mỗi ki-tô hữu sẽ cung cấp, đó là Đức Giêsu đã sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết. Tôi muốn đọc lại kinh nghiệm gặp gỡ của bà Maria Mácđala trước mộ Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan, chương 20, câu 11 đến câu 18.
2. Sự hiện diện của Maria Mácđala bên thập giá, trong khi mai táng và vào sáng phục sinh là cơ bản đối với các Tin Mừng. Bà là một trong những chứng nhân chìa khoá của niềm tin, bởi vì bà có thể làm chứng rằng Đức Giêsu đã chết thật, rằng xác Người đã được mai táng trong mồ và rằng mồ trống không vào ngày thứ ba đúng là ngôi mộ trong đó xác Đức Giêsu đã được mai táng. Không có gì phải nghi ngờ về điểm này, không có sự lầm lẫn nào, hoăc có sự man trá gì. Về điểm này, các bà đều làm chứng, đặc biệt là bà Maria Mácđala.
Các môn đệ đều vắng mặt. Không có một nhân vật nào khác đã có mặt vào 3 thời điểm này. Như thế, nếu không có các phụ nữ, nhất là nếu không có bà Maria Mácđala, hẳn là Tin Mừng sẽ không phải là Tin Mừng như hiện nay. Thậm chí ta còn có thể nói rằng hẳn là sẽ không có Tin Mừng hoặc sẽ là một Tin Mừng hoàn toàn khác. Tin Mừng về sự sống lại đầu tiên đã được các phụ nữ loan báo, và chứng tá của các bà là tảng đá góc cho tất cả niềm tin phục sinh. Hẳn là chúng ta hôm nay chẳng thể nào nói về sự sống lại nếu các phụ nữ, và trong số đó bà Maria Mácđala, đã không có mặt.
Tuy nhiên, kinh nghiệm của bà Maria Mácđala là một kinh nghiệm tiệm tiến. Kinh nghiệm này là như điển hình của hành trình đưa từ nỗi buồn sầu tới niềm vui phục sinh, từ nỗi đau của biệt ly đến sứ mạng mới cho “các anh em”.
Lúc đầu, bà Maria khóc gần bên mộ (20,1.13.15: sự kiện bà khóc được nhắc đến 4 lần). Bà Maria cũng “thấy” Đức Giêsu, nhưng không biết là Người (20,14). Khi Đức Giêsu gọi bà đích danh, bà nhận ra Người và chuyển đi từ nỗi đau sang niềm vui (20,16).
Sự chuyển đi từ một tâm trạng sang một tâm trạng khác và từ sự không biết sang sự hiểu biết có kèm theo một sự thay đổi về vị thế (thế đứng) của bà Maria Mácđala, một sự thay đổi có ý nghĩa phong phú. Khi chúng ta gặp bà lúc đầu hoạt cảnh, bà đứng trước mộ, và bà còn cúi xuống nhìn vào bên trong để xem có gì ở bên trong mộ. Ở đấy đã chấm dứt các niềm hy vọng của bà và tất cả những gì đưa lại ý nghĩa cho đời bà. Mồ trống trơn, chẳng còn một vết tích gì về thi hài Đức Giêsu.
Đức Giêsu hiện ra – nhưng không hiện ra trước mắt bà Maria Mácđala. Chi tiết này có tầm quan trọng của nó: Đức Giêsu hiện ra ở sau lưng bà Maria Mácđala. Câu 14 nói rõ ràng là “bà quay về phía sau”. Ít ra bà phải quay măt về phía sau để khám phá ra Đức Giêsu. Cuối cùng, khi Đức Giêsu giúp bà nhận ra Người bằng cách gọi tên bà ở c. 16, bà Maria lại quay lần nữa về phía Đức Giêsu. Vào lúc này, tôi giả thiết là bà đã quay mặt hoàn toàn về phía Đức Giêsu bởi vì một chút sau đó, Đức Giêsu bảo bà là đừng giữ Người lại.
Dù sao, khi bà Maria Mácđala đã đứng trước Đức Giêsu, thì bà quay lưng lại với mộ. Như thế trong hoạt cảnh ngắn ngủi này, bà đã xoay 180o và bây giờ ở trong vị trí ngược lại với vị thế ban đầu. Trước mặt bà bây giờ là Đức Giêsu, còn phía sau lưng bà là ngôi mộ. Khoảnh khắc này đánh dấu khởi đầu mới của cuộc đời bà: sự chết bây giờ đã ở phía sau, còn sự sống đích thật thì đang ở đàng trước. Một con đường mới đầy hy vọng đang mở ra khi Đức Giêsu cho bà hiểu rằng ngôi mộ không phải là dấu chấm hết của các niềm hy vọng của bà. Đúng ra ngôi mộ là một khởi điểm mới, bởi vì Đức Giêsu cử bà Maria Mácđala đi đến với các môn đệ để loan báo Tin Mừng phục sinh. Bà Maria Mácđala đã trở thành nhà “thừa sai” đầu tiên của Tin Mừng Gioan.
Vậy chuyển động của đức tin được tượng trưng bởi động tác quay mặt lại của bà Maria Mácđala; bà bỏ lại sau lưng thế giới trống rỗng của cái chết để nhìn Đấng đứng phía sau bà, và bắt đầu tiến về sự sống thật, tiến về với anh em.
Chuyển động này cũng được ghi nhận trong bản văn qua việc sử dụng những động từ khác nhau để mô tả cách thức theo đó bà Maria Mácđala “nhìn thấy” trong câu truyện. Trong khi bà khóc trước mộ, bà “thấy” hai thiên thần (c. 12). Rồi khi bà quay lại, bà vẫn còn đứng trước ngôi mộ, bà “nhìn thấy” Đức Giêsu, nhưng không nhận ra Người (c. 14): bà nghĩ đó là người làm vườn. Cả vào lúc này nữa, cái nhìn của bà mới chỉ được phần nào, và là cái nhìn thể lý của cặp mắt thịt mà thôi. Chỉ khi bà quay một lần thứ hai để thấy mình đứng trước Đức Giêsu, bà mới có thể thật sự “thấy” và “nhận biết” (c. 16). Khi bà đi về với các “anh em”, tức đi đến với các môn đệ khác, bà bảo họ: “Tôi đã thấy Chúa”. Lần này bản văn hy lạp dùng một động từ khác để diễn tả sự thay đổi trong cái “nhìn” của bà Maria Mácđala: đây là cái nhìn thiêng liêng, cái nhìn của đức tin. Ngoài ra bà nói rằng bà đã thấy không phải chính xác là Đức Giêsu mà là “Đức Chúa”, là danh hiệu của Đức Giêsu Kitô phục sinh, nơi Người, chính Thiên Chúa tự mạc khải ra. Bà Maria “thấy” Đấng Phục sinh khi bà đi loan báo sự hiện diện của Người cho anh em Người. Cái nhìn và sứ mạng khó có thể liên kết cách chặt chẽ hơn.
.. . . . . . . . . . .
Lạy Thiên Chúa chí tôn vinh hiển,/ xin chiếu sáng vào tâm hồn mù tối của con.
Lạy Chúa, xin ban cho con / một niềm tin chân chính, / một đức cậy vững vàng,/ một lòng mến hoàn hảo;
xin làm cho con nên minh mẫn tinh tường / để con biết tuân hành thánh ý đích thực của Chúa.
Nhờ đó, chúng con biết làm chứng về Đức Kitô phục sinh cho anh chị em chúng con.
Bài giảng 9
ĐỨC MARIA SINH HẠ LỜI CHÚA
Mục đích: Xin Đức Maria giúp sống thân phận người tôi tớ phục vụ Lời Chúa: trung thành đón nhận và trung thành ban phát
Đúng là việc cưu mang Lời Chúa phải kết thúc bằng việc sinh hạ Lời Chúa ra cuộc đời. Chúng ta nghĩ rằng điều này chỉ đúng cho Đức Maria hay sao?
1. Lời của Đức Giêsu: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,35).
Thánh Phanxicô Assisi, trong Thư gửi các tín hữu (cc. 9-10), đã viết: “Chúng ta là anh chị em Người, khi chúng ta thực hiện ý Cha trên trời. Chúng ta là mẹ của Người, khi chúng ta cưu mang Người trong tâm hồn và thể xác (1 Cr 6,20) bằng cách yêu mến Người và gìn giữ lương tâm trong trắng và chân thành; chúng ta sinh Người ra bằng hành vi thánh thiện nhằm nêu gương sáng cho kẻ khác”. Rồi ngài viết tiếp: “Ôi thật là điều thánh thiện và đáng quí mến, khi có một người Anh và một người Con hiền lành, khiêm hạ, an hòa, ngọt ngào, đáng mến và đáng ước ao trên hết mọi sự, đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (c. 13).
2. Đức Maria sinh hạ Lời Chúa tại nhà ông Dacaria và tại Bêlem
Sau 9 tháng cưu mang, Đức Maria đã sinh ra Ngôi Lời trong xác phàm. Nhưng ngay khi đang cưu mang Lời Chúa, Mẹ đã sinh ra Lời Chúa bằng cách mang Chúa đến cho gia đình ông Dacaria và công bố Lời Chúa. Nghe lời Mẹ chào, hài nhi Gioan đã nhảy mừng và bà Êlisabét đã nhận ra Mẹ Thiên Chúa đến với mình. Sau đó, Mẹ đã công bố Lời Chúa cách mới mẻ độc đáo trong bài Magnificat.
3. “Tôi tớ đích thực của Lời trong công cuộc truyền giáo” (XP 24)
Tu sĩ cũng sẽ sinh hạ Lời Chúa ra bằng các hành vi lành thánh, bằng những cuộc gặp gỡ để phục vụ trong tình bác ái. Và còn sinh hạ Lời Chúa ra bằng những lời nói thanh cao, trong sáng, xây dựng.
Riêng Ht XP thì bảo: “Các người thánh hiến nam nữ có thể trở nên những tôi tớ đích thực của Lời trong công việc truyền giáo” (s. 24).
Lời giới thiệu của một người có uy tín, được tin tưởng, nể trọng, luôn tạo được một nhịp cầu tri âm. Với những lời lẽ tế nhị, phát xuất từ tâm hồn của một bà mẹ, Tin Mừng mà Đức Maria giới thiệu có sức lôi cuốn tất cả mọi người, dầu là kẻ cứng tin hay là kẻ vô đạo nhất. Thánh Phanxicô Xaviê kể rằng: Khi đến một nơi nào mà người ta không mấy chú trọng đến điều ngài rao giảng, ngài đăt ảnh Đức Mẹ nơi đó và dâng hiến việc truyền giáo của ngài cho Đức Mẹ. Lập tức có sự thay đổi và dân chúng lũ lượt kéo đến nghe ngài nói về Phúc Am Chúa Giêsu. Nhờ tình thương của Mẹ thiên quốc, những đòi hỏi lớn lao của Lời Chúa sẽ trở nên dịu ngọt và Phúc Âm Chúa Giêsu thực sự được cảm nghiệm như niềm vui ơn cứu độ.
Để phục vụ Tin Mừng Chúa Giêsu, Đức Trinh Nữ Maria không có lời rao giảng và những phép lạ tỏ tường – ít nhất là vào các thời kỳ đầu – nhưng Mẹ dâng hiến toàn thể cuộc đời cho Chúa Giêsu. Và thế là đã xảy ra một điều tuyệt vời: trước tất cả những bước chân của những nhà truyền giáo vĩ đại như một Phaolô, một Phanxicô Xaviê, bước chân đẹp nhất đã ra đi loan Tin Vui, đúng ra mang Đức Giêsu là Tin Vui, là bước chân của người thiếu nữ làng Nadarét.
Để tránh lẫn lộn việc truyền giáo đích thực với những sinh hoạt trần thế, các nhà truyền giáo phải là sứ giả của Tin Mừng, với trọn ý nghĩa của nó. Sứ giả là người được cử đi để nói thay cho một người khác cao trọng hơn và uy quyền hơn. Sứ giả của Tin Mừng là người được sai đi để loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu và cách đặc biệt, làm chứng về sự phục sinh của Người (Lc 24,47). Sứ giả tuyệt đối không được nói hay làm điều gì nhân danh chính mình, phải dứt khoát gạt bỏ cái “tôi” (x. 1 Tx 2,5-6).
Tắt một lời, sứ giả Tin Mừng phải là người đem Chúa Kitô đến cho người khác, hoặc bằng lời nói, việc làm, hoặc bằng chính đời sống mình. Nhưng thực ra vấn đề sâu xa không phải là có hai, mà chỉ có một cách để đem Chúa đến cho người khác, đó là chính người sứ giả phải có Chúa ở với mình, rồi tìm cách bộc lộ sự hiện diện của Chúa cho người khác. Do hữu thể và hành động được hoàn toàn đồng nhất và qui hướng về Chúa Giêsu, Đức Maria là vị Sứ giả Tin Mừng tuyệt hảo và là mẫu mực của mọi sứ giả Tin Mừng.
Bài giảng 10
ĐỨC MẾN, CON ĐƯỜNG TRỔI VƯỢT
(1 Cr 12,31b–14,1)
Mục đích: Gặp gỡ Đức Kitô như là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa
Trong cuộc đời truyền giáo, chúng ta vẫn được nhắc bảo là noi gương Đức Kitô. Hôm nay chúng ta nghe thánh Phaolô giới thiệu gương mặt Đức Kitô để chiêm ngưỡng và có một chương trình sống.
1. Con đường trổi vượt hơn cả
“Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả” (12,31). Bài diễn từ bắt đầu bằng một tối thượng cấp trong dạng lạ lùng hẳn là phải lôi kéo sự chú ý của người Cr. Giọng bí mật này tiếp tục suốt bài diễn từ (13,1-13) vừa đưa vào từ ngữ agapê trong dạng tuyệt đối vừa tiến đi với giọng điệu hiền triết đầy những gợi ý huyền bí.
Danh từ hodos (“con đường”) được dùng ở đây, thì hầu như luôn luôn được Bản LXX dùng để dịch từ híp-ri derek (“con đường”); trong Cựu Ước, từ ngữ này đặc biệt có nghĩa là nẻo đường Yhwh rảo qua để gặp gỡ Ít-ra-en, Dân Ngài, và mạc khải cho họ biết ý muốn cứu độ của Ngài trong Torah, và do đó, là lối sống của người tín hữu được kêu gọi bước đi trên những nẻo đường của Yhwh, bằng cách đón nhận Lời Ngài vào trong đời sống mình qua việc lắng nghe chuyên chăm và vâng phục.
2. Nếu tôi không có đức mến (13,1-3)
Hiệu quả lạ kỳ được gợi ra ở phần mở với thuật ngữ “con đường trổi vượt” (12,31b) được khuếch đại thêm trong ba mệnh đề đầu tiên trong đó Phaolô dùng các phản đề theo cách tăng dần, để lập một đối chiếu giữa agapê và ơn nói tiếng lạ, giữa agapê và các đoàn sủng tiên tri, hiểu biết tất cả các mầu nhiệm và đức tin có khả năng làm phép lạ, cuối cùng giữa agapê và tất cả những gì con người có thể làm ở bình diện các thành quả anh hùng.
“1Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.
2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.
3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (13,1-3).
Trong ba đoạn đối chiếu, công thức trở đi trở lại là “mà tôi không có đức mến”. Công thức này rất giống với ngôn ngữ được các hiền nhân và các nhà thần bí ưa chuộng, bởi vì chỉ có ngôn ngữ này mới thích hợp cho ai đang tìm cách nói lên điều khôn tả. Ta có thể nghĩ đến bài ca ngợi sự khôn ngoan trong Gióp 28, mẩu đối thoại giữa thánh Phanxicô Assisi với anh Lêô về “niềm vui trọn hảo” hoặc các áng thơ của thánh Gioan Thánh Giá.
Tôi có thể nói các ngôn ngữ loài người và thiên quốc, nhưng nếu tôi không có tình yêu, lời tôi nói cũng giống như tiếng ồn ào gây nên do tiếng trống tiếng chiêng, mà theo nghĩa bóng là các lời nói trống rỗng của các nhà hùng biện.
Cũng thế, tôi có thể có đoàn sủng tiên tri, sự hiểu biết đầy đủ về tất cả các mầu nhiệm (x. 1 Cr 12,8; 14,6), đức tin có thể làm các việc kỳ diệu, nhưng nếu tôi không có tình yêu, thì “tôi cũng chẳng là gì”. Công thức triệt để này nhắc lại Kn 9,6: “Quả thế, con người ta dẫu thập toàn đi nữa mà chẳng có Đức Khôn Ngoan của Ngài, thì cũng kể bằng không không vậy” (x. cả Dc 8,7b). Hoặc thậm chí tôi có thể đi tới chỗ phân phát của cải hoặc cho đi là hiến tặng mạng sống tôi, nhưng nếu tôi không có tình yêu, “thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. Nếu thiếu tình yêu, cả hành vi anh hùng nhất cũng không có thể giúp gì vào việc cứu độ (x. Rm 2,25; Gl 5,2).
Điều đánh động và gây ngạc nhiên là trong bản văn này, từ ngữ agapê luôn luôn được dùng ở dạng tuyệt đối, không hề có một xác định tính cách dù là chủ thể hay đối tượng, ngược lại với cách Phaolô thường dùng, khi nói là agapê của Thiên Chúa, của Đức Kitô, của Thánh Thần hoặc của loài người (xem chẳng hạn Rm 8,35.39; 15,30; 1 Tx 3,12; 1 Cr 16,24; 2 Cr 8,24). Như thế, tình yêu được giới thiệu như một giá trị duy nhất và tự lập, thậm chí được nhân cách hóa như Đức Khôn Ngoan (hokmah – sophia) trong Cn 8 và Hc 24[2].
Ta ghi nhận là ba lần trong cc. 1-3, hoàn cảnh giả thiết là đức mến được diễn tả bằng câu “nếu tôi không có đức mến”, đã giới thiệu tình yêu như là một thực tại tự lập đối với người hẳn là phải có đức mến và như thực tại mà nếu không có, thì mọi sự còn lại chẳng còn gì đáng kể.
Ta cũng không thể không lưu ý đến tình trạng mười ba câu của 1 Cr 13 không hề có bất cứ một qui chiếu minh nhiên nào về Thiên Chúa, về Đức Kitô hoặc về Thánh Thần. Nhưng cũng không thể đọc trang này mà không quan tâm đến chân trời của tư tưởng Phaolô theo đó tình yêu của Thiên Chúa, mà Con duy nhất của Ngài đã ban cho chúng ta, và tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã hiến tặng mạng sống cho chúng ta, là mạc khải về mầu nhiệm agapê. Chính vì thế, B. Standaert, và trước đây C. Spicq[3], đã khẳng định rằng “bài ca ngợi agapê là một loại Ki-tô học ẩn giấu – và, tác giả tiếp tục, – chúng ta ghi nhận rằng hẳn là Phaolô đã có thể ưu tiên dùng những từ ngữ khác thay vì agapê […]. Sự chọn lựa từ ngữ agapê được giải thích tốt hơn dưới mắt chúng ta khởi đi từ qui chiếu mang tính Ki-tô học cao độ của nó. Đối với Phaolô, agapê, như ngài diễn tả nội dung trong các thư khác, trước tiên là hành vi qua đó Đức Kitô đã chết trên thập giá vì tội lỗi chúng ta (x. Rm 8,31tt và 2 Cr 5,14-15)”. Theo nghĩa này, hẳn là ta có thể nói rằng agapê được nhân cách hoá, chủ ngữ của mười lăm động từ ta thấy trong phần hai của bản văn này (cc. 4-7), rất có thể là chính Đức Kitô.
Ai là “tôi” chủ ngữ của tất cả những gì được nói đến trong phần thứ nhất này? Trong cc. 1-3, nổi rõ các qui chiếu về bối cảnh Giáo Hội của Cr. Nhưng thánh tông đồ cũng nói lên chính ý muốn của ngài trong tư cách là con người tôn giáo… Cuối cùng, cái “tôi” này còn là một cái “tôi” tiêu biểu, giống như cái tôi của Rm 7, tượng trưng mỗi tín hữu hoặc thậm chí có thể mỗi người.
3. Đức mến làm gì và không làm gì (13,4-7)
Trong phần thứ hai này, mọi đại từ nhân xưng đều biến mất, thậm chí bị minh nhiên phủ nhận ở c. 5, là chỗ tác giả nói rằng agapê “không tìm lợi lộc của mình”. Agapê là chủ từ duy nhất của mười lăm động từ… : hai ở dạng tích cực, tám ở dạng tiêu cực và năm lại ở dạng tích cực. Ngoài việc xác định phẩm chất của tình yêu trong việc nó làm, như thế là mặc nhiên thách cộng đoàn Cr sống phù hợp với làn sóng này chứ không với việc đi tìm các đoàn sủng ngoạn mục hơn, với các động từ tiêu cực, Phaolô phê bình lối sống của các người nhận thư.
Sự kiện agapê là chủ ngữ của tám động từ tiêu cực và bảy động từ tích cực gợi ý rằng tình yêu trung thực là tình yêu đạt được một sự hài hòa khôn ngoan giữa những thái độ thụ động và những thái độ chủ động, giữa làm và không làm. Ai chỉ sống bằng những thái độ thụ động thì có thể có vẻ hiền từ và tốt lành, nhưng trong thực tế có thể chỉ là một con người lãnh đạm và không quan tâm đến người khác. Đàng khác, người nào có toàn những thái độ chủ động thì rất có thể làm nhiều chuyện cho người khác, khiến rơi vào một thứ xu hướng duy động không hiểu biết và không điều độ và trong thực tế xu hướng này che giấu một thứ trốn chạy bản thân vì sợ sự cô độc và một xu hướng dụng cụ hóa tha nhân vì tìm kiếm tha nhân không vì chính tha nhân, nhưng để đáp lại một xu hướng thích làm đến rồ dại.
Trong phần thứ nhất, ước muốn bị lột mặt nạ trong tính xấu xa của nó. Bây giờ, ước muốn được chiêm ngắm trong chiều kích đã được biến dạng bởi hành động hoàn toàn nhưng-không của Thiên Chúa được mạc khải bởi Đức Giêsu Kitô…
“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu…” (13,4a). Hai phẩm chất đầu tiên của đức mến bày tỏ thực tại thâm sâu nhất của đức mến. Sự nhẫn nhục là khả năng nhìn rộng trên những người khác và trên thực tại với những chân trời mở rộng. Chính cái nhìn này làm dấy lên khả năng “làm điều tốt” cách khả ái và kín đáo theo gương Đức Giêsu, “đi tới đâu là Người giáng phúc tới đó” (Cv 10,38). Sự nhẫn nhục và hiền hậu là những nét tiêu biểu của hành động của Thiên Chúa đối với loài người và thuộc về thực tại mà Phaolô gọi là “hoa quả” của Thần Khí (Rm 2,4; 9,22; Gl 5,22). Hai nét này phải là đặc điểm của lối sống và hành động của Thiên Chúa và mỗi ki-tô hữu (2 Cr 6,6; 1 Tx 5,14; Cl 3,12-13; Ep 4,2; 1 Tm 1,16; 2 Tm 3,10; 4,2).
Tiếp theo là tám động từ ở dạng tiêu cực: “không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (13,4b-6). Các động từ này diễn tả các thái độ không tương hợp với agapê. Đây là những thái độ ghen tị và cạnh tranh, được kể vào những “việc làm của xác thịt” ở Gl 5,20 và trong những danh mục các tật xấu trong Rm 13,13 và 2 Cr 12,20; đây là những thái độ cao ngạo trước kẻ khác bị coi là thấp kém, tự đề cao kiêu căng; những lối sống gai chướng làm tổn thương người khác, những hành vi khép kín kẻ thực hiện trong vòng tròn ích kỷ của tư lợi, những phản ứng giận dữ và hiềm khích. Khép chuỗi dài các động từ ở dạng tiêu cực này là một mệnh đề đối nghĩa trong đó tác giả nói rằng agapê không để cho mình bị dính líu vào trong những tâm tình mừng rỡ khi phải chứng kiến sự bất công, nhưng tỏ ra vui mừng khi chứng kiến tất cả những gì là chân thật và công chính.
Bài ca ngợi agapê kết thúc với bốn mệnh đề ngắn với điệp khúc là “sự toàn thể”: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (13,7). Đức mến có khả năng chịu đựng mọi nghịch cảnh và không đầu hàng trước các khó khăn, không bao giờ mất tin tưởng vào sự sống và không bao giờ ngừng hy vọng.
Vì có thể coi tình yêu là chính Đức Kitô, khi bước theo “con đường trổi vượt” là chúng ta bước theo Đức Kitô. Mười lăm nét làm nên dung mạo của đức mến cũng là mười lăm nét làm nên gương mặt của Đức Kitô và là chương trình sống của chúng ta.
Công Đồng Vatican II đã dạy:
“Đời sống tu trì bắt chước cách chính xác hơn và thực hiện liên tục trong Giáo Hội nếp sống mà Con Thiên Chúa đã nhận khi Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống mà Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người” (GH 44).
Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II thì bảo:
Nếu cố gắng liên tục sống đức mến, chúng ta sẽ làm cho “toàn thể cuộc sống nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”, nhờ đó, chúng ta “thực hiện theo một danh nghĩa đặc biệt việc tuyên xưng Ba Ngôi, confessio Trinitatis, là đặc điểm của toàn thể đời sống kitô hữu; đó là nhìn nhận với lòng ngưỡng mộ, vẻ đẹp tuyệt vời của Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và vui sướng làm chứng về lòng hạ cố đầy yêu thương của Người đối với bất cứ người nào” (ĐTH[4] 16).
Còn Đức Bênêđictô XVI, trong Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu[5], đã dạy:
“Thiên Chúa tự làm cho mình thành hữu hình: trong Đức Giêsu chúng ta có thể chiêm ngắm được Chúa Cha. […] Và trong lịch sử của Họi Thánh, Người cũng không vắng mặt: Người luôn tìm đến chúng ta - qua những con người mà Người soi sáng; qua Lời của Người; trong các bí tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể. Trong phụng vụ của Họi Thánh, trong lời cầu nguyện, trong cộng đoàn sống động của các tín hữu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, cảm nhận sự hiện diện của Người và học cho biết nhận ra Người trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Người đã yêu chúng ta trước và tiếp tục yêu chúng ta trước; chính vì thế mà chúng ta có thể đáp trả bằng tình yêu. Thiên Chúa không đòi hỏi một tình cảm mà chúng ta không thể khơi lên trong chúng ta. Người yêu chúng ta và cho chúng ta thấy và cảm nhận tình yêu của Người, và từ “bước trước” này của Thiên Chúa, tình yêu nảy sinh trong chúng ta như một lời đáp trả.
“Trong tiến trình gặp gỡ này, một điều cho chúng ta thấy rõ là tình yêu không phải chỉ là cảm xúc. […] Việc gặp gỡ với những biểu lộ hữu hình của tình yêu Thiên Chúa có thể gợi lên trong chúng ta cảm giác hân hoan, đến từ cảm nghiệm rằng mình được yêu. Việc gặp gỡ này đòi hỏi cả ý chí lẫn lý trí của chúng ta. […] Đây rõ ràng là một tiến trình vẫn luôn chuyển động: tình yêu không bao giờ “kết thúc” và trọn vẹn được; tình yêu chuyển đổi trong suốt thời gian sống, chín dần và nhờ đó luôn trung thành với chính mình” (s. 17).
[1] Chúng ta ghi nhận là động từ này chỉ được dùng hai lần, ở đây và ở c. 6 khi nói về Thần Khí; trong các bản văn khác, thánh Phaolô không bao giờ nói rằng Thiên Chúa sai phái Thần Khí (Rm 5,5; 2 Cr 5,5; 1 Tx 4,8; x. Ep 1,17; Rm 11,8).
[2] Cách giới thiệu agapê theo kiểu tuyệt đối như thế chỉ có một bản văn song song ở 1 Cr 8,1, là nơi mà thánh Phaolô khẳng định rằng khác với “sự hiểu biết, gnôsis” làm cho sinh lòng kiêu ngạo, agapê thì xây dựng.
[3] C. Spicq, “Première Épýtre aux Corinthiens”, trong La Sainte Bible, Pirot-Clamer, t. XI b, 264; B. Standaert, “1 Corinthiens 13”, trong L. De Lorenzi (nxb), Charisma und Agape, Monographische Reihe von “Benedictina”, Rom 1983, 133.
[4] Ngày 25-3-1996.
[5] Ngày 25-12-2005.