Khổ chế không có nghĩa là “khổ công chế ra” hay “khổ vì chế độ” như ai đã nói. Hiểu theo nghĩa hẹp, khổ chế là những quy định khắc khổ mà chúng ta phải tuân theo. Theo linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ: “khổ chế là thuật ngữ riêng của Công giáo. Thuật từ này do đức ông Trần văn hiến Minh và các cha trong ban giáo sư trường thần học Bùi Chu tạo ra từ thập niên 50.
Với chủ đích của nội san số 14 là “Canh tân”. Chúng tôi xin mạn phép bàn về khổ chế dưới gốc nhìn canh tân trong tâm thức hiện đại để thử tìm một hướng đi cho các đan sĩ hôm nay trước vấn đề khổ chế. Chúng tôi xin trình bày 3 đề mục:
1. Khổ chế trong tâm thức hiện đại
2. Thử tìm một hướng đi cho việc thực hành khổ chế trong thế giới hiện đại
3. Hướng đi nào cho đan sĩ hôm nay?
1. Khổ chế trong tâm thức hiện đại
Một thực tế mà ai cũng có thể nhận thấy: con người đương đại không muốn nhắc đến hai từ khổ chế hay ít ra là tránh né, hoặc làm giảm nhẹ. Người ta tìm mọi cách để thoát khỏi đau khổ và cho cuộc sống đỡ khổ. Đây là một điều tự nhiên, vì không ai mong muốn đời mình phải khổ, chứ chưa muốn nói là thích làm cho mình khổ. Nếu có ai thích được khổ thì có lẽ người đó rơi vào tâm bệnh masochisme (khổ dâm).
Một thực tế khác, như một số người nhận xét: con người hôm nay “cắm đầu hưởng thụ”. Cách diễn đạt này không phải là để phê bình, nhưng muốn nói lên một nền văn hoá mới đang phát triển và phổ biến: văn hoá hưởng thụ. Nền văn hoá này đang len lõi vào tận tất cả mọi ngõ ngách của cuộc sống và như cha Hồng Giáo nhận định là “vào tận bên trong những đan viện kín cổng cao tường nhất (nếu còn có đan viện như thế)”[1]. Thế mà, càng đề cao hưởng thụ, người ta càng sợ phải khổ chế. Một cuộc thăm do xã hội mới đây trong bốn thành phố lớn: Hà nội, Hồ chí Minh, Cần thơ và Hải phòng cho thấy tỉ lệ sinh con đã ở mức độ báo động. Báo động không phải vì bị vỡ kế hoặch nhưng vì số gia đình chỉ sinh một con đang tăng cấp số nhân. Người ta không muốn sinh thêm con không phải vì thiếu thốn, nhưng vì sợ phải khổ, sợ hy sinh và sợ không có thời gian để hưởng thụ.
Trong các cộng đoàn tu trì, tu sĩ được tự do hơn, các qui định về luật lệ càng ngày càng giảm bớt. Thay vào đó, cộng đoàn cổ võ sự trưởng thành, tự giác và tự kỷ luật của cá nhân nhiều hơn. Việc canh tân này làm cho các tu sĩ có một đời sống trưởng thành và triển nở hơn. Tuy nhiên, theo cha Hồng Giáo, có một hiện tượng đang xảy ra trong các cộng đoàn tu sĩ tại Việt nam là sự đua đòi và não trạng tiêu thụ đang đi vào trong các tu viện.[2] Sở dĩ, có hiện tượng này là vì thiếu ý thức và kỷ luật bản thân. Chính sự thiếu sót đó mà tu sĩ dễ rơi vào một lối sống trưởng giả, dễ dãi, ích kỷ và sợ hy sinh, sợ khổ chế. Từ đây, tu sĩ dễ dàng đòi hỏi các quyền lợi, nhưng ngại khi đề cập đến dấn thân.
Tuy nhiên, theo một gốc độ khác, thế giới hôm nay là thế giới mà người ta phải nỗ lực vươn lên nhiều hơn. Theo giới quan sát, các trẻ em bây giờ phải học nhiều hơn và có nhiều thử thách hơn. Chẳng hạn trẻ em Nhật có thời gian nghỉ ngơi rất ít vì phải cạnh tranh để trang bị cho mình những kiến thức cần thiết hầu có một công việc tốt trong tương lai. Ở Việt nam trẻ không chỉ học ở trường, còn phải học thêm và học những kỷ năng khác đến nỗi các em không có thời giờ để vui tươi và triển nở nhân cách như đã được dư luận lên tiếng lâu nay. Các sinh viên cũng không thoát ra khỏi vòng xoáy đó. Các em vừa phải tiếp thu một núi kiến thức và vừa phải kiếm kế sinh nhai vì gia đình không đủ khả năng. Ngay cả, các tu sĩ cũng phải học hành nhiều hơn, phấn đấu nhiều hơn. Một tu sĩ ngày nay được huấn luyện mang tính toàn diện hơn và họ phải trải qua một thời gian huấn luyện lâu hơn, tốn nhiều công sức hơn và phải khổ chế hơn.
Trong môi trường xã hội, mức độ cạnh tranh càng ngày càng khốc liệt hơn. Người ta phải làm việc nhiều hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn. Điều đó đòi hỏi phải từ bỏ những sở thích, tiện nghi và ngay cả tự do nhiều hơn.
Có một điều gì đó rất nghịch lý và mâu thuẫn trong thời đại này. Người đương đại không muốn từ bỏ, nhưng lại từ bỏ rất nhiều; từ bỏ mà không biết mình từ bỏ; khổ chế không đưa đến khổ luyện. Tuy nhiên, người ta lại dị ứng với khổ chế mang tính cơ chế, luật lệ và những khổ chế áp đặt; dị ứng với khổ chế trong việc huấn luyện, trong việc tăng trưởng đời sống tinh thần và thiêng liêng. Điều đó phản ánh cách hành xử của một nền văn hoá mới: nền văn hoá tự do, nhân bản, đề cao phẩm giá và nhân phẩm theo chiều hướng duy thế tục và duy tự nhiên. Họ xem khổ chế như một món hàng để đổi chác, trao đổi thoả mãn những nhu cầu thụ hưởng và không chú ý đến chiều kích tăng trưởng, mở ra, vươn lên và hiệp thông. Phải chăng đây là chiều kích của khổ chế trong thế giới hiện đại?
2. Thử tìm một hướng đi cho việc thực hành khổ chế trong thế giới hiện đại
Theo các nhà giáo dục: mức độ thành công trong cuộc sống không hệ tại ở hệ số IQ (hệ số thông minh) cao, nhưng là hệ số EQ (hệ số cảm xúc). Tuy nhiên, để có hệ số IQ và EQ cao ngoài yếu tố bẩm sinh, người ta phải cần đến một hệ số khác. Đó là hệ số AQ (hệ số thử thách). Theo môt bản thống kê, tỉ lệ các nhà bác học người Do thái chiếm 40% số bác học của thế giới. Tại sao người Do thái có tỉ lệ thành công cao như vậy, phải chăng họ là dân Chúa chọn hay là do gen di truyền? Người ta nhận thấy nơi người Do-thái hệ số AQ của họ rất cao và theo các nhà nghiên cứu đó cũng là lý do thành công của họ. Vì ngay từ nhỏ các đứa trẻ đã được cha mẹ cho các em đối diện với những thử thách hợp với tuổi của mình và từ đó các em có khả năng thích ứng, cũng như khả năng vượt khó khi đứng trước những thử thách trong cuộc đời.
Sự thật này không phải là điều gì mới mẽ, nhưng chính là định luật của sự sống con người: “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Sự thật đó đã được sống trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội, của các dòng tu và đã sản sinh ra biết bao nhiêu thánh nhân, cũng như các bậc kỳ tài. Công đồng Vaticano II đã hơn một lần tái khẳng định sự cần thiết trong hiến chế tín lý về Giáo Hội số 44.
Khổ chế là cần thiết và đã mang lại những điều tốt đẹp trong quá khứ. Tuy nhiên, “người ta không thể lấy rượu mới đổ vào bầu da cũ”, vì nó không hợp và tệ hơn sẽ làm “nứt bầu da”. “Rượu mới phải đặt vào bầu da mới”.
Trong cuốn “Histoire de la vie religieuse”, Jean-Claude Guy kể lại một số hình thức khổ chế bên Syri như:
Có những tu sĩ tự trói tay vào mỏm đá và phơi mình dưới ánh nắng ban ngày, cũng như dầm mình dưới làn sương giá lạnh của ban đêm, để thực hiện đúng theo như câu thánh vịnh: “kẻ yêu Chúa không sợ cái nắng ban ngày, cũng chẳng ngại sương giá ban đêm”
Người khác có sáng kiến đục rỗng thân cây và chui vào nằm trong đó, chỉ để một cái miệng ra ngoài để người ta cho ăn, đúng như lời thánh vịnh: “Con cái loài chim được Chúa nuôi ăn”.
Một hình thức khác cũng khá phổ biến là người ta vạch một vòng tròn và sống trong đó suốt mấy chục năm hay là dựng một cái cột không có mái che và sống suốt đời trên đó như Simon cột[3].
Những hình thức này xem ra rất là khắc khổ, nhưng là những khổ chế có tính cách tự sát. Nó mang dáng dấp của một chủ nghĩa anh hùng, đề cao cơ bắp. Nếu người ta thực hành để rèn luyện ý chí thì cũng có thể chấp nhận một phần nào, nhưng nếu là lòng tự phụ, tự hào thì thật là sai lầm biết bao. Bởi vì không phải mỗi khi chúng ta thực hiện một nỗ lực bản thân là Chúa đến với mình; trái lại chúng ta luôn cần có ơn Chúa và cộng tác với ơn của Ngài.
Ngoài ra, cùng một khổ chế tạo nên biết bao nhiêu linh hồn thánh thiện, nhưng cũng một khổ chế đó lại làm hư hỏng nhiều người. Sự khác biệt này không hệ tại ở hành vi hay là cách thức thực hiện; nó hệ tại ở động lực mà chúng ta nhắm đến.
Thuật ngữ “ascesis” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là khổ chế, khổ hạnh. Nó còn có một nghĩa khác: tập luyện, rèn luyện. Do đó, khổ chế không phải để mà khổ. Nếu thực hành khổ chế như vậy, chúng ta không có quyền phải làm theo mà còn phải lên án, bởi lẽ nó không làm triển nở đời sống con người, nhưng là một thứ bệnh hoại. Khổ chế đúng nghĩa là khổ chế để khổ luyện. Theo nghĩa này, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa lời khuyến khích các đan sĩ “hoan hỉ hy sinh” của sắc lệnh “canh tân và thích nghi đời sống tu trì”. Khổ luyện dẫn đưa chúng ta đến đâu nếu không phải như quan điểm của cha Hoành Sơn: khổ luyện để mở ra với chính mình, để vươn lên và để thông hiệp với Chúa và với đồng loại. Khổ chế như vậy là khổ chế của Tin Mừng, khổ chế mà Chúa Giêsu đã thực hiện để nhập thể và nhập thế. Khổ chế của người tu sĩ cũng phải đi qua con đường đó: “Ai muốn theo Thầy phải bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Thầy” (Lc 9, 23). Khổ chế để đi theo Đức Ki-tô và nên giống Đức Ki-tô. Thế mà, Đức Ki-tô đã qua khổ chế để đến vinh quang, qua khổ chế để mang lại cho chúng ta sự sống, một sự sống tròn đầy.
Khổ chế để mở ra là con đường hợp với thời đại, một thời đại đề cao dấn thân hơn là xuất thế. Hơn bao giờ hết, thế giới hôm nay là thế giới của liên đới. Con người nối kết và xích lại gần nhau hơn để hợp tác, để hỗ trợ. Như vậy, mở ra là một đòi hỏi của đạo đức thời đại, huống chi là đạo đức Ki-tô giáo. Mở ra để làm gì không phải là để nhận ra tha nhân là một cái tôi khác của tôi; tha nhân là ân nhân, là thầy của tôi và đang cần đến tôi, giống như tôi cần đến họ. Đó là sự mở ra của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu” (Cv 2, 44-45). Họ đã chấp nhận chết đi một ít để người khác được sống và cũng chính họ sẽ có được một cuộc sống dồi dào hơn. Khổ chế không còn là một sự khiên khem, từ bỏ tiện nghi, đánh tội để kiện toàn chính mình, nhưng khổ chế mang chiều kích nhập thế và nhập thể để từ đó tất cả đều vươn lên đến với Chúa và thông hiệp với nhau trong một tình yêu, một sự sống. Một khổ chế như thế là khổ chế của Thập giá, khổ chế của người môn đệ Chúa Giêsu.
3. Hướng đi nào cho ĐAN SĨ XI-TÔ VIỆT NAM hôm nay?
Ơn gọi Xi-tô là nên giống Đức Ki-tô. Thế mà theo Soeur Blance Lopez Lorena, trong bài tham luận “Ơn gọi Xi-tô hôm nay” đã kể ra một Đức Ki-tô hoàn toàn nhân tính khi khẳng định: “đời đan tu Xi-tô làm cho nhân tính của Đức Ki-tô trở nên khí cụ quan trọng bậc nhất cho sự thăng tiến tâm linh”. Như vậy, đời đan tu Xi-tô sống và thực hiện chiều kích nhập thể với một Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật và người thật, đã nhập thể và nhập thế. Đức Ki-tô được diễn tả rất cụ thể trong chính đời sống Xi-tô. Đó là: một Đức Ki-tô nghèo; một Đức Ki-tô thầy dạy; là hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu và là ngôn sứ Nước Trời.
Là đan sĩ Xi-tô Việt Nam, sống trong khung cảnh và văn hoá Việt Nam, nên không thể tách rời khỏi việt nam tính. Nói cách khác, để nên giống Đức Ki-tô ta phải xác định ai nên giống, nên giống điều gì và nên giống một Đức Ki-tô nào. Đức Ki-tô vẫn luôn là một Đức Ki-tô nhập thể và nhập thế, không phải với ngày xưa, nhưng đang ở đây và vào lúc này. Do đó, Đức Ki-tô mà chúng ta phải nên giống vừa là Đức Ki-tô Xi-tô, và cũng là Đức Ki-tô cho người Việt Nam, với người Việt Nam và cùng người Việt Nam.
Việt nam ngày nay vẫn là một nước đang phát triển và là một đất nước nông nghiệp. Mức sống của phần lớn người dân vẫn là nghèo. Người ta chỉ mong đủ ăn, đủ mặc, chưa nghĩ đến ăn sung mặc sướng. Họ đang cần được thông cảm, được chia sẻ và được liên đới. Do đó, nên giống Đức Ki-tô là trở nên người nghèo của những người nghèo: “Con chồn có hang, có chim có tổ, con người không có chỗ gối đầu” (Mt 8, 20), nghĩa là bắt chước Đức Ki-tô “Đấng vốn giàu sang đã trở nên nghèo vì chúng ta để nhờ sự nghèo khó của Ngài mà chúng ta được trở nên giàu có” (I Cr 8, 9). Khổ chế lúc này là chấp nhận bớt đi một chút xíu để có thể ban phát cho người nghèo. Chúng ta cũng đã có thói quen này trong các mùa chay, bớt ăn, bớt các chi tiêu để làm việc thiện. Như vậy, cùng một lúc có thể thực hiện được sự từ bỏ và bác ái. Khổ chế này giúp chúng ta được tăng trưởng và sống chiều kích hiệp thông một cách thiết thực nhất.
Việt nam là một đất nước còn đậm nét với nền văn hoá lúa nước. Tình làng, nghĩa cận vẫn được đề cao. Người ta nhấn mạnh đến việc “lá lành, đùm lá rách” và hướng về tinh thần chung, tinh thần tập thể. Đan sĩ Xi-tô nên giống Đức Ki-tô hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu và được nuôi dưỡng trong “Trường học bác ái”, là nơi đào tạo nên những con người sống bác ái Ki-tô giáo triệt để nhất. Việc sống bác ái không hệ tại công việc to lớn, anh hùng, nhưng lệ thuộc vào động lực tình yêu. Yêu ai? Chắc chắn là yêu Chúa, yêu mình vì Chúa, chứ không phải là tình yêu vị kỷ. Khi hướng về mình, chúng ta có thể làm được bất cứ việc gì, dầu điều đó có khó khăn đến đâu. Việc làm ấy không chắc chắn gì cả vì nó có khuynh hướng vun đắp cho tình yêu vị kỷ, lấy mình làm trung tâm. Trái lại, tình yêu đích thực quan tâm đến lợi ích của người khác và quên mình đi. Tình yêu này giúp chúng ta đi đến cùng với những đòi hỏi của nó. Một đòi hỏi được cụ thể qua các lời khấn, trong đời sống cộng đoàn. Chính vì thế, Đức Phao-lô VI, trong tông huấn “Chứng tá Phúc Âm” mời gọi chúng ta đón nhận những hoàn cảnh cuộc sống đến với chúng ta một cách tự nguyện và vui tươi. Đó là những khó khăn gắn liền với lao động; khó khăn trong các mối quan hệ xã hội, tương quan trong đời sống cộng đoàn; những thử thách của đời sống như bệnh tật, tai nạn, thiếu thốn... và sự thiếu an toàn trong cuộc sống[4]. Trên hết là phải vượt qua những đòi hỏi mang tính duy cá nhân và duy hưởng thụ nơi mỗi người trong chúng ta. Những khổ chế này tuy “vô danh” nhưng rất thiết thực và bổ ích cho việc hướng lên nơi mỗi đan sĩ.
Cuối cùng, một Đức Ki-tô ngôn sứ cần thiết cho người Việt Nam hôm nay. Theo thống kê, người công giáo chỉ chiếm khoảng 7% dân số cả nước. Số người công giáo sống đạo thực sự có lẽ không thể nào biết được. Tuy nhiên, khuynh hướng đánh mất cảm thức thờ phượng mà Đức Phanxico cảnh báo đang là hiện tượng nơi những người trẻ. Hiện tượng này xuất phát từ việc đánh rơi chính mình trước những cám dỗ của hưởng thụ; những cám dỗ duy thế tục và những tư tưởng đậm màu sắc duy vật. Chúng ta đánh mất mình, vì thiếu đức dũng. Đức dũng ở đây không phải là sức mạnh đối đầu, sức mạnh đấu tranh, nhưng là sự tự chủ trong tâm hồn, tự chủ trong thân xác. Đó là cái dũng Đức Giêsu đã thể hiện khi bị cám dỗ trong sa-mạc 40 đêm ngày. Ngài đã chiến thắng trước quyền lực, danh vọng, tiền tài... Việc chiến thắng của Ngài đã đưa Ngài bước vào sứ mạng mà Cha trao phó. Ngài đã làm chứng cho thấy con người “chỉ thờ phường một mình Thiên Chúa và chỉ thờ lạy một mình Người mà thôi” (Mt 4, 10). Người đan sĩ hôm nay cũng phải trở nên một Đức Ki-tô ngôn sứ. Trở nên một “Đức Ki-tô ngôn sứ” đồng nghĩa phải nên giống Đức Ki-tô tự chủ và vững vàng trong sa-mạc. Điều đó ắt là một khổ chế, một con đường khó khăn đang mời gọi các đan sĩ tự nguyện và hoan hỉ bước tới.
Kết luận:
Không ai phủ nhận sự cần thiết của khổ chế trong đời sống và trong sự thăng tiến của con người. Và ai cũng có thể thấy được rằng: không phải tất cả mọi khổ chế đều tốt. Khổ chế là con đường, là phương thế. Phương thế và con đường chỉ phù hợp cho một địa hình, một hoàn cảnh cụ thể nào đó. Mỗi hoàn cảnh, mỗi địa hình cần có những phương thế và hình thức khác nhau.
Tâm thức hiện đại là tâm thức của dấn thân, chứ không chỉ nhấn mạnh vào việc xuất thế. Các đan sĩ cũng không thoát ra khỏi tâm thức này. Là đan sĩ phải là con người của dấn thân, dấn thân cho nước trời và dấn thân cho phần rỗi của anh em, của chính mình. Họ hướng về một mình Thiên Chúa, nhưng để mở ra và mở cho mọi người. Việc mở ra này rất cần một thái độ tự nguyện, hơn là chấp nhận; rất cần một tâm tình hân hoan từ bỏ, hơn là thái độ thụ động. Tự nguyện, hoan hỉ là hai yếu tố để chúng ta mở ra rộng hơn, hướng lên cao hơn và hiệp thông sâu xa hơn. Đường đó là đường khổ chế mà không khổ cực; khổ chế nhưng không tự sát, nhưng là khổ luyện để giống Chúa Giêsu hơn.
[1] Lm Nguyễn Hồng Giáo, Chúa gọi tôi đi theo Người, học viện Phanxico, năm 2006, p. 232
[2] Sdd, p. 233
[3] Hoành Sơn, Khổ luyện và khổ hạnh, www.catholic.org.tw/vntaiwan/index.html.
[4] Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI, tông huấn “Chứng tá Phúc Âm” số 30.