Với nền kinh tế và khoa học phát triển chóng mặt, mỗi tháng, có khi mỗi ngày, một điện thoại di động, máy vi tính… vừa được sản xuất xong đã có thể lỗi thời. Con người thường phải chạy theo những thay đổi chóng mặt đó. Vì thế, cuôc sống được ví như một dòng chảy theo kiểu “yêu cuồng, sống vội”. Với một xã hội đang phát triển như thế, con người phải đối diện với nhiều khó khăn, nhất là những người trẻ, ít khi- hay không có giờ- để nghĩ đến những giá trị đạo đức.
Thế giới khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc
Với một nền kinh tế toàn cầu hoá như hiện nay, người ta thường ví von “một cánh bướm đập ở Braxin thì ở tại Việt Nam hay Nhật Bản cũng bị ảnh hưởng”. Điều đó nói lên tính liên đới và “toàn cầu hoá” tới độ siêu tưởng của thế giới này. Hay chỉ cần một “cái nhấp chuột” của máy vi tính, bạn có thể nói chuyện hay “chát” với một ai đó cách xa chúng ta nửa vòng trái đất. Những phát minh hiện đại đã làm cho con người trên thế giới xích lại gần nhau hơn như máy vi tính, internet, điện thoại di động…nhưng đôi lúc “gần nhà nhưng xa ngõ”, “hàng xóm như người xa lạ”. Tuy khoa học kỹ thuật phát triển, nhưng tình liên đới, quan hệ bạn bè, họ hàng, không còn được như trước kia. Vì thực tế, con người phải lo bon chen với cuộc sống, chạy theo đà phát triển của xã hội, nên không có gì lạ khi con người dường như chỉ coi trọng tiền bạc, danh vọng, quyền lực. Đó là hệ quả của nền khoa học phát triển mà quên phát triển những giá trị nhân bản, đạo đức, đánh mất tính nhân văn như câu khẩu hiệu trong các trường học: “Tiên học lễ, hậu học văn” của nền giáo dục nước nhà. Hệ quả tất yếu nơi một số người trẻ ngày nay, chỉ thích chạy theo những mốt thời trang, những quần áo “hàng hiệu”, những vi tính xách tay đời mới, điện thoại di động phải thay đổi liên tục để theo kịp với trào lưu và “đẳng cấp” của giới trẻ, như thế mới không bị coi là “cù lần”, lạc hậu, “hai lúa” với bạn bè.
Mặt trái của tiến bộ khoa học kỹ thuật[1]
Tuy khoa học kỹ thuật đã giúp cho con người nhiều điều như: đi lại dễ dàng và tiện lợi hơn, gặp gỡ và trao đổi mau chóng hơn, con người sống lâu hơn nhờ tiến bộ trong ngành y… Tuy nhiên, mặt trái của khoa học kỹ thuật là làm cho con người đánh mất những giá trị tinh thần, không còn khao khát giá trị tâm linh nữa. Quan tâm duy nhất của họ là có nhiều tiện nghi và hưởng thụ tối đa. Khoa học kỹ thuật cũng tạo ra những lỗ hổng trong tương quan giữa người với người. Minh hoạ cho điều này nơi đất nước Nhật Bản, họ được xem là nước phát triển kỹ thuật vào loại nhất thế giới. Nhưng có một điều nghịch lý là Nhật Bản lại là nước có số tỉ lệ tự tử cao nhất. Tại sao? Thưa vì áp lực của việc học và việc làm dẫn đến trầm cảm- một trong các nguyên nhân dẫn đến tự sát.
Thiên Chúa đã chết[2]
Triết gia nổi tiếng người Đức, Friedrich Nietzsche nói một câu khiêu khích: “Thiên Chúa đã chết”. Đối với ông và những người không muốn Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống mình thì quả thật, Thiên Chúa đã chết, vì họ có tin vào Thiên Chúa đâu!!! Con người trong thế giới ngày nay, là con người của khoa học thực nghiệm, nghĩa là cái gì họ có thể “đụng, chạm, sơ, nắn” được thì mới tin là có thật. Vì thế, đối với họ, Thiên Chúa là một khái niệm mơ hồ. Một số khác lại cho rằng Thiên Chúa chẳng qua chỉ là thứ bình phong mà con người dựng nên để che đậy những ý đồ của mình. Lại nữa, có ý kiến khác nữa lại cho rằng ý niệm về Thiên Chúa là một điều nguy hại, bởi vì ý niệm đó giam hãm con người trong một thứ trật tự có sẵn và phủ nhận mọi tự do và sáng kiến của con người, làm cho họ chỉ biết cam chịu. Vì thế, không có gì xa lạ khi mà một số người trẻ ngày nay thường thờ ơ với Thiên Chúa và tỏ ra xem thường những việc đạo đức như đi lễ ngày Chúa Nhật, xưng tội, rước lễ, kiêng việc xác…
Tự do và tục hoá[3]
Mặc khải Kitô giáo cho con người biết giá trị của họ là được làm con cái Chúa trong tự do. Nhưng để hiểu và sống cái giá trị làm con đó thì con người lại lạm dụng tự do quá mức. Hẳn vậy, những tiến bộ khoa học kỹ thuật giúp con người giảm thiểu được những tác hại của bệnh tật, thiên tai và nghèo đói. Tuy nhiên, khi con người quá lệ thuộc vào khoa học kỹ thuật thì con người cũng đồng thời trở thành nô lệ cho nó. Trong phạm vi xã hội và chính trị, ý thức về tự do cũng dễ trở thành cám dỗ đưa con người tới cá nhân chủ nghĩa, chỉ biết thu lợi về cho mình mà thôi. Điều đó làm nảy sinh thêm bất công trong xã hội khi người giàu thì càng giàu, còn người nghèo thì càng nghèo hơn[4]. Con người nghĩ rằng mình có thể thoát ra khỏi “cái bóng” của Thiên Chúa, nhưng chính ảo tưởng đó đã khiến cho con người nghĩ tự do của mình đồng nghĩa với việc muốn làm gì thì làm. Thứ tự do đó đã làm đảo loan xã hội, làm mất tôn ti trật tự, xã hội bị cào bằng và coi nhau như “cá đối bằng đầu”. Dần dà, con người dửng dưng hoặc chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Đây là nguyên nhân làm cho tình trạng tục hoá tràn lan trên thế giới, đặc biệt nơi một số người trẻ. Thí dụ điển hình, mới đây trong lời mở đầu của Hiến Chương Liên hiệp Châu Âu, họ đã không nhắc gì đến căn cội Kitô của mình.[5]
Hiện trạng xã hội Việt Nam hôm nay[6]
Được mời gọi tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa qua những dấu chỉ thời đại, giáo hội tại Việt Nam cố gắng lắng nghe, nhận diện và biện phân xã hội dưới ánh sáng Tin Mừng. Sau đây là thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, khoá họp thường niên năm 2010: Hiện nay Việt Nam đang hoà nhập vào tiến trình toàn cầu hoá, cụ thể qua việc tham gia các tổ chức khu vực như khối các nước Đông Nam Á (Asian) và quốc tế như Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Việt Nam thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước với những kỹ thuật hiện đại, tạo nên công ăn việc làm cho dân chúng và làm cho đất nước mang dáng dấp một quốc gia đang phát triển. Người dân được tiếp cận với những thông tin và thành quả đa dạng về khoa học kỹ thuật, mở ra những cơ hội cho một phong thái làm việc mới. Tuy nhiên, vì chưa được chuẩn bị đầy đủ để bước vào tiến trình toàn cầu hoá nên Việt Nam gặp rất nhiều thách đố. Tình trạng lạm phát, tệ nạn tham nhũng và hối lộ, việc quản lý lỏng lẻo và thiếu trách nhiệm đối với những tài nguyên quốc gia… làm cho đời sống người dân thêm khó khăn. Hố ngăn cách giàu nghèo ngay càng sâu đậm hơn. Nhiều người dân vẫn chưa có mức sống xứng hợp với nhân phẩm, không những tại nông thôn mà ngay cả trong những thành phố lớn. Do đó, vấn đề không chỉ là kinh tế mà còn là vấn đề đạo đức và xã hội. Hiện trạng kinh tế ấy kéo theo nhiều thay đổi trong xã hội Việt Nam. Sinh hoạt làng quê cổ truyền dần dần được thay thế bằng nếp sống đô thị. Dân chúng đổ sô về những thành phố lớn kiếm công ăn việc làm, tạo ra mật độ dân cư chênh lệch giữa nông thôn và thành thị. Đặc biệt tại các thành phố lớn, do tình trạng dân số tăng quá nhanh, thiếu chính sách quản lý và phát triển đô thị hợp lý, nên gây nhiều hậu quả tiêu cực trên sinh hoạt xã hội: môi trường sống thiếu vệ sinh và đang bị tàn phá, hệ thống giao thông và y tế yếu kém, nhiều tệ nạn xã hội như bạo lực, nghiện ngập, phá thai… Truyền thống văn hoá Việt Nam vẫn đề cao những đức tính như tình gia tộc, tương thân tương ái, tôn sư trọng đạo… Tuy nhiên, những giá trị đó đang bị đe doạ nghiêm trọng do não trạng duy vật và hưởng thụ, tính cục bộ vá óc địa phương hẹp hòi, thói gian dối và lừa đảo, nạn bạo hành… Điều đáng lo ngại hơn cả là phẩm chất giáo dục. Sứ mệnh của giáo dục là đào tạo cho xã hội những con người liêm chính và có tinh thần trách nhiệm, biết phát huy việc học hỏi và suy tư, óc phê phán cũng như khảo cứu cách sáng tạo. Trong thực tế, hiện trạng giáo dục tại Việt Nam khiến nhiều người lo ngại, một số giáo viên chưa thể hiện được chức năng nhà giáo dục đích thực, môi trường học đường bị ô nhiêm bởi bệnh thành tích, thương mại hoá… Nền giáo dục tại Việt Nam đang cần đến một triết lý giáo dục nhân bản đích thực và toàn diện. Những phân tích trên cho thấy sự tương tác mật thiết giữa các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hoá và đời sống tôn giáo. Một mặt, sự phát triển hiện nay đã tác động sâu rộng trên đời sống đức tin và luân lý. Mặt khác, sự thăng tiến con người toàn diện và sự phát triển bền vững của xã hội phải được đặt trên nền móng của những giá trị đạo đức và tôn giáo. Trước khi nói về thái độ của người trẻ hôm nay trước những giá trị đạo đức truyền thống, thiết nghĩ cũng nêu lên vài trào lưu với những tích cực và những mặt giới hạn mà giới trẻ ngày nay thường có, khi sống trong một đất nước đang “hội nhập” văn hoá Âu- Mỹ như Việt Nam.
Một số trào lưu ảnh hưởng đến giới trẻ ngày nay.[7]
+ Cá nhân chủ nghĩa:
Ngày xưa người ta coi trọng giá trị của tập thể, làm gì cũng nghĩ đến danh dự gia đình, dòng tộc… Ngày nay thì lại khác, cá nhân được nhiều người tôn trọng, họ được tự do bộc lộ ý kiến của mình. + Thực dụng: Theo chủ nghĩa này, con người chỉ nghĩ đến bản thân, miễn sao có lợi cho mình là được, không nghĩ gì đến lý tưởng cao xa. Người xưa chủ trương: “giấy rách phải giữ lấy lề”, còn người ngay nay thì lại biện minh: “có thực mới vực được đạo”.
+ Tự do:
Tự do là món quà Thiên Chúa ban tặng cho con người, nên ai cũng khao khát tự do. Nhưng vì hiểu sai tự do đó, mà một số người trẻ không thích những gì người khác áp đặt cho mình hay nghe người khác ra lệnh.
+ Hưởng thụ:
Những ước muốn của con người là vô giới hạn. Công nghệ quảng cáo kích thích nhu cầu hưởng thụ tối đa của con người, khiến một số người đánh mất khả năng kiềm chế và làm chủ ước muốn của mình.
+ Chủ nghĩa tương đối hóa:
Xã hội tân tiến thì những phát triển công nghệ càng nhanh, nhu cầu “đổi mốt” đã làm cho các giá trị chỉ còn là tương đối. Từ đó giá trị tinh thần cũng bị kéo theo. Khó tìm thấy nơi giới trẻ ngày nay những giá trị vĩnh cửu và không có một giá trị chuẩn mực nào đối với họ. “Vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta là chủ nghĩa tương đối. Nguyên nhân của chủ nghĩa này là không có chân lý tuyệt đối và phổ quát cho hết mọi người, và nếu có đi nữa thì con người cũng không thể đạt tới được”[8]. Cùng quan điểm trên, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng nhận xét: “Thừa hưởng truyền thống tôn giáo Á Đông, được biểu lộ qua những hình thức tín ngưỡng đa dạng, người Việt Nam dễ hướng về “Ông Trời” và tôn kính Tổ Tiên. Chính niềm tin đó là nền tảng cho đời sống đạo đức để họ quý trọng sự sống, ăn ở ngay lành và sống hài hoà với mọi người. Tuy nhiên, tâm thức tôn giáo nơi người Việt Nam thường thiên về tình cảm, giới hạn vào một số thực hành nghi lễ và luân lý. Khuynh hướng này dễ đưa đến chủ trương “tương đối hoá tôn giáo”, gây khó khăn cho việc trình bày cũng như lãnh hội giáo lý mặc khải của Kitô giáo. Hơn thế nữa, một khi không được đặt trên lý trí khao khát chân lý, tâm tình tôn giáo cũng dễ bị lay động trước những trào lưu duy vật và hưởng thụ”.[9]
+ Lương tâm bị xem nhẹ:[10]
Giới trẻ Việt Nam rất năng động, sẵn sàng tham gia những giao lưu và sinh hoạt xã hội. Họ mau chóng nắm bắt những thành quả của công nghệ hiện đại để nâng cao kiến thức và giúp ích cho đời. Tuy nhiên, chủ nghĩa tương đối và hưởng thụ, tình trạng giáo dục bất cập, những cách trình bày chân lý nửa vời trên các phương tiện truyền thông, những chương trình giải trí thiếu lành mạnh…đã đưa nhiều bạn trẻ đến một não trạng và lối sống thực dụng, làm bất cứ điều gì để hưởng lợi, miễn là không bị bắt hay không ai nhìn thấy. Tiêu chuẩn tốt- xấu trở thành tương đối và như thế, có dấu hiệu về sự phá sản lương tâm.[11]
Thái độ của người trẻ hôm nay trước những giá trị đạo đức truyền thống.
Điều chúng ta muốn nói ở đây là việc đạo đức truyền thống ngày xưa trong các gia đình vốn được quan tâm đặc biệt. Nhưng ngày nay, đặc biệt nơi một số người trẻ, hầu như các việc đạo đức ấy không tồn tại. Vì đâu? Có nhiều lý do khách quan và chủ quan mà người viết đã trình bày ở trên- như ảnh hưởng của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển, các trào lưu của thế giới Âu- Mỹ. Có một lý do mà không thể không nói đến đó là: “lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn”. Chính các bậc làm cha làm mẹ là những người phải chịu trách nhiệm đầu tiên về con cái của mình. Hẳn thế, ngày nay nhiều cha mẹ hầu như khoán trắng cho nhà trường hay thầy cô giáo dục con cái của mình, họ chỉ có nhiệm vụ chu cấp tiền bạc cho con ăn học. Điều đó “cần” nhưng chưa “đủ”. Vì gia đình là cái nôi của xã hội. Thật thế, nếu ở trong gia đình mà cha mẹ nói con cái không nghe lời, thì làm sao ra xã hội con cái biết sống cho nên người, nói chi là “sống tốt đời đẹp đạo” hay “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”[12] cho được. Có một vấn nạn đặt ra cho các bậc làm cha làm mẹ- nhất là các gia đình giàu có, chỉ có một hoặc hai con- là cha mẹ chiều chuộng con cái một cách thái quá, con đòi gì cũng cho như người xưa đã nói, con cái sẽ “được voi đòi tiên”. Điều đáng lo ngại là sau này lớn lên, cha mẹ nói con cái không nghe lời nữa, vì đã chiều chuộng con từ nhỏ một cách quá mức như vậy. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Hay trong Kinh Thánh, sách Huấn Ca cũng từng khuyên các bậc làm cha làm mẹ là: “Roi vọt và lời răn đe là khôn ngoan mọi lúc” (Hc 22, 6b), nơi khác cũng khuyên răn và nhắc nhở các bậc sinh thành: “Thương con thì cho roi cho vọt, sau này sẽ vui sướng vì con…Ngựa không thuần sẽ thành ngựa bất kham, con buông thả sẽ nên con mất dạy” (Hc 30, 1. 8).
Vậy, với một xã hội đang phát triển về mọi mặt như thế, nhưng giá trị đạo đức lại xuống cấp như vậy, là những người trẻ hôm nay, - Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thường nói: “những người trẻ là tương lai của Giáo hội và xã hội”- chúng ta phải làm gì? Thiết nghĩ hơn ai hết, chúng ta- những người trẻ- chúng ta phải để ý đến lời kêu gọi của Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn Giáo hội tại Á Châu, ngài nói: “Dân chúng đặt tin tưởng vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, vào đời sống và hành động hơn là lý thuyết”[13]. Như thế, Mẹ Giáo hội luôn mong mỏi và chờ đợi nơi những người Kitô hữu- nhất là những người trẻ- phải là men là muối cho đời, cho những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống, một mẫu gương sống động, thực tế và nhất là một cử chỉ yêu thương, bác ái, để các người chưa tin Chúa noi theo, chứ không phải là một mớ lý thuyết suông. Những người trẻ luôn phải đứng trước ngã ba đường để chọn lựa cho mình một hướng đi, một cách sống. Sống sao cho nên người và sống sao cho ra người. Đó cũng là mong mỏi của những sinh thành. Tuy xã hội có nhiều điều kiện hơn để tiếp thu những gì tinh tuý mà khoa học kỹ thuật mang lại nhưng cũng không thiếu những cám dỗ trong đời thường, chúng ta- những người trẻ- hãy vững tâm vào Chúa, hãy tin tưởng vào bản thân, để có thể bước đi trên đôi chân của mình. Để kết thúc bài chia sẻ, người viết xin trích lại những tâm huyết của Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gởi các bạn trẻ: “Là những lính canh buổi hừng đông, các người trẻ nam nữ cũng có mặt trong số những người thánh hiến. Chúng ta thực sự cần những người trẻ can đảm, tự nguyện để Thiên Chúa biến đổi dưới tác động của Thánh Thần và trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, trao ban cho mọi người một chứng tá tươi vui và trong sáng về việc đón nhận Chúa Kitô”[14]. Ngài còn là người đã thiết lập ngày giới trẻ thế giới vào năm 1986. Cao điểm nhất là trong các Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, ngài đã đồng hành với giới trẻ qua các bài thuyết trình, sinh hoạt và đặc biệt là cầu nguyện chung. Ngài chia sẻ với giới trẻ “các con đừng sợ khi nhìn vào tương lai, nhìn vào tình trạng trẻ trung của các con, nhìn vào sự thật, nhìn vào ơn gọi của các con, hãy loan truyền Tin Mừng dầu có phải đương đầu với đau khổ và chết chóc”. Ngài còn khuyến khích: “Các con là những người trẻ, các con là tương lai của Giáo hội và tương lai của xã hội”.
[1] Tủ sách Chân Lý Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay, Lưu hành nội bộ, năm 1995, p. 40.
[2] Tủ sách Chân Lý Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay, Lưu hành nội bộ, năm 1995, p. 135.
[3] Tủ sách Chân Lý Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay, Lưu hành nội bộ, năm 1995, p. 114.
[4] Tài khoản của các tỷ phú trên thế giới (khoảng 950 người), tương đương 8% GDP của toàn thế giới (dân số thế giới hiện nay khoảng 7 tỷ người).
[5] Bài “Kitô giáo trong thế giới hôm nay” của Lm. Hồng Giáo.
[6] Thư Chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, số 4- 9, năm 2010.
[7] Viết theo gợi ý của Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt- Bài chia sẻ với các tập sư của hai Hội Dịng Biển Đức- Xitô, tại Đan Viện Xitô Châu Sơn, Nho Quan, Ninh Bình, ngày 06. 05. 2010.
[8] Lời dẫn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí.
[9] Thư Chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, năm 2010.
[10] Lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa phú bẩm trong tâm hồn con người.
[11] Thư Chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, năm 2010.
[12] Thư Chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, năm 1980.
[13] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu, số 42.
[14] Thánh Bộ Đời Sống Thánh Hiến, Huấn Thị Xuất Phát lại từ Đức Kitô, số 46, năm 2002.