do CHA TÔMA VŨ QUANG TRUNG
BTGT. DÒNG TÊN
NGÀY 4.6.2005 đến hết ngày 9.6.2005
KHAI MẠC : 16giờ, ngày 4/6/2005
Chúng ta khởi sự tuần tĩnh tâm với lịch sử cuộc đời mỗi người chúng ta. Cuộc hành trình thiêng liêng hôm nay nhằm khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu trong những biến cố đã diễn ra trong cuộc đời chúng ta. Cầu nguyện là đặt trong mối tương quan yêu thương với chính Thiên Chúa, là để cho ánh sáng của Ngài soi chiếu vào mọi khoảnh khắc của cuộc đời chúng ta.
Cuộc đời chúng ta là một hồng ân do Thiên Chúa ban tặng. Có những ngày cuộc sống chúng ta bừng lên một màu hồng rực rỡ của tin yêu và hy vọng, của niềm vui và bình an, của hạnh phúc và yêu thương. Thế nhưng hành trình ấy có những lúc trải qua những chuỗi ngày hun hút, ảm đạm, buồn tẻ. Tâm hồn ta như bầu trời mùa đông giá lạnh vì thiếu ánh nắng ấm áp của mặt trời. Như người bộ hành lạ mặt tiến bước trên đường về Emmaus, Chúa vẫn cùng đi với chúng ta trong những giây phút ấy, nhưng có lúc chúng ta không nhận ra Người. Đó là những lúc cuộc đời chúng ta bị mây mù che khuất khuôn mặt Người. Buồn sầu, cô đơn, thất vọng, chán chường làm ta chẳng còn hứng thú để tiếp tục cất bước. Tương lai tăm tối đầy thử thách. Những va chạm, cọ xát với cuộc sống, với con người để lại những vết thương sâu kín, khó lành.
Hãy để cuộc đời chúng ta hiện lên từng cảnh sống như cuốn phim chiếu chậm, khởi từ những năm tháng thơ ấu xa xưa mà ký ức chúng ta còn nhớ được. Những khung cảnh, những con người lần lượt xuất hiện trong bức tranh cuộc đời. Hãy dừng lại nơi những cảnh sống, nơi những con người vẫn còn gợi lên cho ta những cảm xúc mạnh mẽ trong giây phút hiện tại. Những cảnh sống ấy, những con người ấy trong cuộc đời đã qua đã đóng vai trò nào đối với hiện tại của tôi hôm nay ? Có những cảnh sống, những con người gợi lên cho tôi những giây phút êm đềm hạnh phúc. Có những tình huống, những khuôn mặt gợi lên bao nỗi khổ đau... Bóng tối và ánh sáng như đan quyện vào nhau lẫn lộn làm nên bức tranh của cuộc đời. Trong những chặng đường ấy của cuộc hành trình đưa đến giây phút hiện tại, tôi có nhận ra khuôn mặt của Người Bộ Hành lạ mặt vẫn cùng đi với tôi không ?
Các đoạn Kinh Thánh giúp cầu nguyện:
1) Lc 24, 13-35: Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người
2) Tv 139 (138): Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ
3) Tv 22 (23): Lạy Chúa, dù qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
BÀI 2 NHỮNG THƯỚC PHIM ĐẶC BIỆT
Trong bài cầu nguyện trước, chúng ta vừa nhìn lại chặng đường mà chúng ta đã đi qua trong ánh sáng của Chúa để khám phá ra sự hiện diện đầy yêu thương của Người trên từng lối bước. Bài cầu nguyện này giúp chúng ta đi sâu hơn nữa vào những biến cố, những kinh nghiệm đã nhào nặn nên con người chúng ta hôm nay.
Với thái độ lắng nghe như cô Maria ngồi bên chân Chúa Giêsu, chúng ta cũng lắng nghe tiếng Chúa tỏ lộ cho chúng ta sứ điệp của Người nơi những biến cố, những kinh nghiệm chúng ta đã trải qua.
Trước hết, tôi tự hỏi mình những hình ảnh nào, những cảnh sống nào đã thu hút sự chú ý và mời gọi tôi dừng lại lâu hơn cả. Những cảm xúc nào còn dâng lên mạnh mẽ tận đáy lòng tôi khi những kinh nghiệm sống ấy được gợi lại ? Trong cuộn phim quay chậm về cuộc đời tôi, những thước phim nào tôi nhận ra thật rõ nét sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa, Đấng đã dùng quyền năng để can thiệp vào cuộc sống của tôi và làm cho những khoảnh khắc ấy của cuộc sống được tràn ngập ánh sáng yêu thương của Người ? Chúa đã ban cho tôi ơn nào lúc đó ? Đâu là những lối rẽ của cuộc sống lẽ ra đã làm cho cuộc đời của tôi ra khác với hiện tại? Chúa đã dẫn dắt tôi thế nào kể từ biến cố ấy để tiếp tục cuộc hành trình đời tôi cho đến hôm nay ? Lúc ấy, tôi có nhận ra sự hiện diện của Người không ? Và tôi có vui lòng chấp nhận con người của tôi như tôi đang sống trong giây phút hiện tại hôm nay không ? Nếu có, tôi hãy tạ ơn Chúa vì tình yêu của Ngài dành cho tôi mà tôi cảm nhận được trong những giây phút tối tăm đầy thử thách. Nếu chưa, tôi hãy chú ý đến ba trường hợp sau đây :
1) Có một vài khía cạnh nào đó trong cuộc sống của tôi đã hoàn toàn bị tê liệt mỗi khi tôi nhớ đến một biến cố, một khuôn mặt nào đó đã qua trong những thước phim chiếu chậm trên đây. Hãy đọc lại đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu chữa một người bị bất toại suốt 38 năm (Ga 5, 1-9). Chỉ khi gặp gỡ Chúa Giêsu, anh mới được Chúa chữa lành và có khả năng vác lấy cuộc đời mình trên vai, tiếp tục cuộc hành trình mới trong niềm vui tạ ơn Thiên Chúa.
2) Nếu có một biến cố, một hoàn cảnh sống nào đó mà mỗi khi nhớ lại, trái tim tôi vẫn còn rỉ máu như một vết thương sâu kín chưa được chữa lành, hãy đọc lại đoạn Tin Mừng về người phụ nữ bị băng huyết 12 năm đã tìm đến Đức Giêsu, đã chạm đến Người để được Người chữa lành (Lc 8, 43-48). Ngoài Đức Giêsu ra, không ai có thể chữa lành căn bệnh của chị. Hôm nay, tôi cũng chỉ có thể đến với Đức Giêsu Mục Tử để Người chữa lành những vết thương nào đó vẫn còn rỉ máu, vẫn còn nhức nhối nơi tâm hồn tôi, cho dù thời gian đã qua đi 12 năm, 20 năm, 50 năm...
3) Nếu có một biến cố hay một cảnh huống nào đó đã hoàn toàn dập tắt trong tôi mọi niềm hy vọng, sự bình an vui sống, hãy đọc lại đoạn Tin Mừng về việc Chúa Giêsu làm cho người con trai duy nhất của bà goá thành Na-in sống lại để trao trả cho bà đứa con trai yêu dấu, niềm hy vọng và nơi cậy dựa duy nhất của cuộc đời bà (Lc 7, 11-17). Chỉ có một mình Đức Giêsu mới là Đấng đem lại cho tôi niềm hy vọng và sự bình an trong cuộc sống để tôi tiếp tục an tâm tiến bước trên con đường phục vụ Người.
Đấng thêu dệt nên tôi trong dạ mẫu thân khi xưa, hôm nay vẫn đang tiếp tục nhào nặn con người tôi qua từng biến cố thăng trầm của cuộc đời:
Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy;
Mọi ngày đời được dành sẵn cho con
Đều thấy ghi trong sổ sách Ngài,
Trước khi ngày đầu của đời con khởi sự.
BÀI 3 MỘT BỨC TRANH HÀI HÒA
Sau khi để ánh sáng Chúa chiếu soi trên từng thước phim của cuộc đời và lắng nghe sứ điệp Chúa gởi đến để nhận ra ý nghĩa của những biến cố đã diễn ra trong quá khứ, giờ đây chúng ta được mời gọi để nhìn vào một bức tranh rộng lớn hơn mà Thiên Chúa chính là tác giả. Đó chính là công trình tạo dựng của Người. Trong bức tranh rộng lớn đầy màu sắc phong phú hài hòa này, con người là một tác phẩm kỳ diệu, là đỉnh cao của công trình sáng tạo và là kết tinh của tình yêu nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh I-Nhã cho chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa thật rõ nét khi Người tạo dựng nên chúng ta :
Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính
và phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta,
và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình.
Sự hiện diện của tôi hôm nay trên trần gian này phát xuất từ ý định yêu thương của Thiên Chúa. Đó là một quyết định, một chọn lựa từ đời đời :
Trong Đức Kitô,
Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ (Ep 1, 4)
Như thế, từ đời đời, Thiên Chúa đã thấy trước và đã xác định tất cả những gì nơi con người tôi hôm nay: thân xác, linh hồn, những khả năng tự nhiên và siêu nhiên như lý trí để hiểu biết, trí khôn để suy xét, trái tim để yêu thương, ý chí để quyết định, tự do để chọn lựa, cả đến giới tính là nam hay nữ... Tất cả là tặng phẩm của Đấng đã yêu thương tạo dựng nên tôi. Tôi có biết đón nhận tất cả những gì làm nên con người tôi hôm nay như một món quà Thiên Chúa ban tặng để sống thái độ biết ơn đối với Đấng đã tác tạo nên tôi không ?
Người còn đặt tôi vào một hoàn cảnh cụ thể với cha mẹ, với những anh chị em, với những bà con họ hàng, bạn bè... những người Người gởi đến cho tôi để giúp tôi bước vào cuộc đời, cho tôi được lớn lên trong ơn gọi làm người, làm con cái Thiên Chúa và đặc biệt là được sống hạnh phúc trong hồng ân của đời thánh hiến.
Có nhận ra vì sao tôi có mặt hôm nay trong cuộc đời này, vì sao tôi được trở nên con cái Thiên Chúa, vì sao tôi được kêu gọi, được tuyển chọn để trở thành bạn hữu thân thiết của Chúa trong đời thánh hiến, tôi mới biết cảm tạ hồng ân yêu thương mà Người dành riêng cho tôi. Từ đó, tôi mới biết quý trọng cuộc đời như món quà Thiên Chúa ban tặng và dùng tất cả những tài năng tự nhiên, siêu nhiên để phụng sự Thiên Chúa như cách tạ ơn và đáp lại tình yêu nhưng không của Người.
Thánh Augustinô cảm nghiệm sâu xa ý nghĩa của hồng ân tạo dựng ấy khi thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa ! Vâng, chính vì Chúa mà Chúa đã tạo dựng nên tôi, để tôi ngợi khen, tôn kính và phụng sự Người. Đó là mục đích cao cả của đời người, là chương trình Thiên Chúa đã hoạch định để cho con người được sống hạnh phúc mãi mãi với Người.
Hãy thành thật tự hỏi lòng mình xem tôi có hoàn toàn đón nhận công trình tạo dựng của Chúa nơi con người và cuộc đời của tôi không: khuôn mặt, vóc dáng, chiều cao, giới tính, các nén bạc, hoàn cảnh gia đình, cha mẹ, bà con, dân tộc, thời gian tôi có mặt trong lịch sử... Có điều nào cho đến nay, tôi không cảm thấy hài lòng về con người, về nguồn gốc của mình không ? Có điều gì tôi cần hòa giải với chính mình, với những người thân, với Chúa về con người như tôi đang là và những tương quan tôi đang có trong giây phút hiện tại không ?
Thánh I-Nhã cho thấy ý nghĩa của những gì Thiên Chúa tạo dựng chung quanh tôi :
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự khác để giúp con người hoàn tất mục đích
vì đó mà họ đã được dựng nên.
Vâng, tất cả mọi sự chung quanh tôi đều nói lên sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa dành cho tôi. Tất cả đều là những sứ giả được Người sai đến để giúp đỡ tôi hoàn tất ơn gọi của đời mình và làm cho chương trình của Thiên Chúa đối với tôi được thành tựu. Từ cha mẹ, anh chị em, bà con họ hàng, bạn hữu, thầy cõ, các dì, các cha, cho đến cơm ăn áo mặc hàng ngày, phương tiện đi lại, nhà cửa, sách vở, không khí để thở, cánh hoa để điểm tô, ánh mặt trời để soi sáng và sưởi ấm, ánh trăng soi chiếu ban đêm, bầu trời đầy tinh tú lấp lánh... Tất cả đều được tạo dựng cho tôi và vì tôi theo một trật tự thật hài hoà kỳ diệu :
Mọi sự thuộc về anh em.
Còn anh em thuộc về Đức Kitô
Và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa (1 Cr 3, 22-23)
Trong tâm tình yêu mến, tri ân Thiên Chúa, tôi chỉ biết cảm tạ hồng ân tuyệt vời Người đã yêu thương dành cho tôi khi tạo dựng nên tôi và cho tôi được mãi mãi hiện hữu trong kế hoạch yêu thương của Người. Đồng thời, đáp trả tình yêu ấy bằng cách biến đời tôi trở thành lời ca ngợi vinh quang Người mãi mãi và làm cho đời tôi thực sự trở thành món quà mà tôi sẽ dâng tặng lại cho Thiên Chúa vào giây phút tôi được mời gọi trở về với Người.
Lạy Chúa,
Chúa đã dựng nên chúng con Chúa !
Vì thế, tâm hồn chúng con khắc khoải xao xuyến
cho đến khi được an nghỉ trong Chúa.
BÀI 4 SỐNG CHỪNG MỰC VÀ QUÂN BÌNH
Chúng ta vừa chiêm ngắm bức tranh tạo thành vừa phong phú, vừa hài hoà, và nhận ra chỗ đứng của chính mình trong bức tranh ấy giữa những công trình khác của Thiên Chúa làm nên vì và cho từng người chúng ta. Giờ đây, khi hiểu ra vai trò của các thụ tạo khác mà Chúa đặt vào cuộc đời chúng ta, chúng ta cũng được mời gọi để sống mối tương quan hài hòa với các thụ tạo này theo ý định của Thiên Chúa.
Thánh I-Nhã giải thích như sau về lối sống chừng mực và quân bình mà mỗi người chúng ta cần phải có khi sử dụng các thụ tạo như con đường dẫn ta đến với Thiên Chúa để đạt được cùng đích của đời mình :
Chúng ta phải dùng những tặng phẩm Thiên Chúa trao ban trong công trình tạo dựng tùy theo chúng giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ chừng nào chúng làm cản trở.
Con người là đỉnh cao của mọi loài thụ tạo. Qua con người và nhờ con người mà các thụ tạo qui hướng về Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên chúng. Thánh Phaolô đã cho thấy cả một chuỗi trật tự đó:
“Mọi sự thuộc về anh em.
Còn anh em thuộc về Đức Kitô
và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa.” (1Cr 3, 22-23).
Như thế, trong tương quan với muôn loài muôn vật, vai trò của con người là giúp các thụ tạo ấy đạt đến mục đích mà Thiên Chúa đã đặt ra khi tạo dựng nên chúng.
Các thụ tạo khác chính là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Mỗi một thụ tạo đểu giữ một vai trò nhằm giúp con người theo đuổi mục đích đời mình. Như thế, thụ tạo không phải là cùng đích của con người. Vì thế, nếu tôi đặt bất cứ một thụ tạo nào như là tất cả, như là cùng đích của đời mình để tìm kiếm, chiếm đoạt, là tôi đã thay thế vị trí của Thiên Chúa bằng một ngẫu tượng, một thứ bò vàng như dân Israel xưa đã làm.
Thánh Gioan cho nhắc nhở người môn đệ Chúa Kitô phải xa 1ánh những thứ ngẫu tượng mà thế gian hay tìm kiếm và tôn thờ :
“Anh em đừng yêu thế gian
và những gì ở trong thế gian.
Kẻ nào yêu thế gian
thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha,
vì mọi sự trong thế gian :
như dục vọng của tính xác thịt,
dục vọng của đôi mắt
và thói cậy mình có của,
tất cả những cái đó
không phát xuất từ Chúa Cha,
nhưng phát xuất từ thế gian ;
mà thế gian đang qua đi
cùng với những dục vọng của nó.
Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa
thì tồn tại mãi mãi.” (1Ga 2, 15-17).
Như thế, mọi thụ tạo đều tạm bợ và chóng qua. Ai gắn bó lòng mình với những thứ tạm bợ chóng qua ấy cũng sẽ qua đi cùng với nó. Mọi thụ tạo, vì chúng tốt lành do được Thiên Chúa dựng nên, nên chúng luôn có sức quyến rũ và hấp dẫn tôi dừng lại ở nó. Thụ tạo chỉ là con đường đưa tôi đến với Thiên Chúa. Nó chỉ là lối phải đi qua chứ không phải là nơi để dừng lại.
Thánh Augustinô đã thú nhận rằng :
Con thật hư hỏng
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Khi dừng lại ở một thụ tạo, tôi đã biến thụ tạo ấy thành một cản vật giữa tôi và Thiên Chúa. Đó cũng là lúc tôi bị tha hóa, đánh mất chính mình và rơi vào tình trạng tôn thờ ngẫu tượng, không còn đặt Thiên Chúa như cùng đích của đời mình.
Như thế, tôi phải học biết để giữ lấy sự tự do cao quý mà Thiên Chúa ban cho tôi. Tôi phải học biết làm thế nào uống nước nơi suối nguồn mà không để mình bị chìm đắm. Biết thưởng thức vẻ đẹp của thụ tạo mà không chiếm hữu. Biết tìm của nuôi mình mà không bám rễ sâu. Biết mở lòng ra đón nhận nhưng không được bám víu. Biết sống gần gũi với mọi người mà chẳng để lòng vấn vương... Vì tôi là người lữ khách, luôn luôn phải sẵn sàng lên đường tiến về quê hương đích thật trên trời. Tôi không được phép cắm lều để dừng lại bên vệ đường, tìm an nghỉ trong việc chiêm ngắm các loài hoa xinh đẹp !
Thánh Phaolô nói: “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.” (Gl 5, 24)
Vấn đề là làm thế nào để tôi có thể thi hành quyền sử dụng chính đáng mà không để bất cứ một thụ tạo nào lôi kéo tôi xa lìa con đường của Thiên Chúa. Một sự vật có thể hữu ích cho tôi lúc này nhưng lại trở nên nguy hiểm cho tôi vào một lúc khác. Chất bột đường cần thiết cho sức khỏe nhưng lại trở nên nguy hiểm cho tôi nếu tôi đang mắc chứng béo phì. Cơm ăn lúc khỏe mạnh là điều cần thiết nhưng nó lại trở nên thứ độc dược khi tôi bị bệnh thương hàn !
Trong thực tế, tôi được Thiên Chúa ban cho khả năng phán đoán và tự do. Nhờ đó, tôi có thể biết cân nhắc trong việc chọn lựa và sử dụng các thụ tạo cho hợp lý, đúng chỗ, đúng lúc sao cho có chừng mực trong mọi sự. Điều này đòi tôi phải luôn tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và nhiều khi phải cần đến sự hướng dẫn của những người khôn ngoan đạo đức.
Tự do là một thái độ nội tâm, nhờ đó, chúng ta giữ được khoảng cách đối với tất cả mọi sự vật trong cuộc sống. Để có được thái độ tự do cao quý và tinh thần siêu thoát này, con người phải luôn luôn nỗ lực chiến đấu chống lại những khuynh chiều tự nhiên của bản năng hay chống lại cảm tính.
Theo khuynh chiều tự nhiên, chúng ta thích sống giàu sang, tiện nghi vật chất đầy đủ hơn là cuộc sống khó nghèo, thiếu thốn. Ta thích có sức khỏe để làm việc hơn là nay đau mai ốm và ra như một kẻ vô ích nằm trên giường bệnh, làm phiền người khác phải giúp đỡ, phục vụ. Ta cũng thích được mọi người kính trọng, quí mến chứ không muốn mình bị kẻ khác coi thường, khinh rẻ, chê bai, đàm tiếu. Ta muốn được sống lâu, được trường thọ hơn là “nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương”... Vì thế, không ai có thể đạt đến tình trạng hoàn toàn tự do và siêu thoát trong một sớm một chiều. Đó là một ngọn núi cao đầy hiểm trở mà con người phải nỗ lực chinh phục mỗi ngày, từng bước một, nhờ sự trợ giúp của ơn Chúa, để có thể trèo lên cao hơn hướng về đỉnh núi.
Khi chẳng còn gắn bó với một điều gì không phải là Thiên Chúa, con người đạt tới thái độ siêu thoát, thái độ hoàn toàn tự do trước mọi sự, mọi thực tại, để chí gắn bó với một điều quan trọng duy nhất. Đó là thánh ý của Thiên Chúa:
“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.” (1Ga 2, 17)
BÀI 5 TỘI LỖI, SỰ NỔI LOẠN CHỐNG THIÊN CHÚA
Bài cầu nguyện này nhằm giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn và cảm nghiệm mạnh mẽ hơn về những vùng bóng tối sâu thẳm của tội lỗi đang bao trùm thế giới và cả nơi tâm hồn mình để cầu xin ánh sáng cứu độ của Đức Kitô soi chiếu, xua tan đi những gì còn cản trở, khiến chúng ta không được tự do đáp lại tình yêu Chúa cách quảng đại và trọn vẹn.
Đức Giêsu đã chiến thắng thế gian tội lỗi. Nhưng từ lòng người vẫn tiếp tục sản sinh ra các điều gian ác. Bóng tối của sự ác vẫn bao trùm thế giới con người như bức tranh mà Thánh Phaolô đã minh họa về thời đại của Ngài :
“Vì họ đã không thèm nhận biết Thiên Chúa nên Người đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất xứng, lòng họ đầy bất chính, xấu xa, tham lam, độc ác đủ thứ; nào là ganh tị, giết người, cãi cọ, mưu mô thâm hiểm; nào là nói hành nói xấu, vu oan giá họa. Họ thù ghét Thiên Chúa, ngạo ngược kiêu căng, khoác lác, giỏi làm điều ác, không vâng lời cha mẹ, không có lương tri, không giữ lời hứa, không chút tình cảm, không chút xót thương. Họ thừa biết phán quyết của Thiên Chúa là hễ ai làm những điều như vậy thì đáng chết. Thế mà không những họ cứ phạm những tội đó lại còn tán thành những kẻ làm như vậy” (Rm 1, 28-32)
Ngày nay, con người tiến bộ về mọi mặt. Kỹ thuật truyền thông làm cho trái đất xưa kia là cả một thế giới rộng lớn, bỗng trở nên nhỏ bé như một ngôi làng. Con người sống gần gũi nhau hơn và liên đới chặt chẽ với nhau hơn trong tầm mức toàn cầu. Một biến cố xảy ra cho một đất nước đều được cả thế giới quan tâm chia sẻ nỗi ưu tư, lo lắng. Với mạng lưới siêu xa lộ thông tin Internet, con người sống ở nửa bên này và nửa bên kia địa cầu trở nên hàng xóm láng giềng thân thiết, chia vui sẻ buồn với nhau hàng ngày.
Thế nhưng, bên cạnh những tiến bộ ấy, người ta thấy tội lỗi vẫn tràn ngập như xưa. Và có lẽ hơn cả khi xưa vì tội lỗi hôm nay không còn dừng lại nơi mức độ cá nhân nữa mà đã trở thành những cơ cấu mang tầm mức quốc tế : những đường dây buôn bán trẻ sơ sinh, mua bán phụ nữ, buôn bán ma túy, những tổ chức mafia, những nhóm khủng bố, những hành động cố tình hủy diệt môi sinh trái đất...
Các phương tiện truyền thông ngày nay vẫn có mặt trái của nó. Bầu khí do nó tạo ra nhiều khi không mấy thuận lợi để giúp con người xây dựng mình và thế giới: màn ảnh truyền hình, băng viđêô, sách báo vẫn đầy dẫy những cảnh giết chóc, bạo lực, hận thù, dâm dật... xúi giục con người phạm tội. Mạng Internet vẫn có thể bị kẻ xấu lợi dụng để quảng cáo các nhà chứa, trao đổi các hình ảnh khiêu dâm...
Những bóng tối ấy cũng hiện diện ngay nơi tâm hồn chúng ta.
Sau khi vua Đavít phạm tội với nàng Bát-Se-va và đưa tướng U-ri-gia, chồng nàng, vào chỗ chết ngoài mặt trận, Chúa sai ngôn sứ Na-than đến kể cho vua Đavít câu chuyện về một người giàu có với vô số chiên bò nhưng lại đi bắt con chiên cái nhỏ của một người hàng xóm nghèo khó để làm thịt đãi khách đến thăm ông. Đavít nổi giận khi nghe một sự việc tái trai gai mắt đầy bất công như thế và lên án kẻ nào làm điều đó thật đáng chết. Lúc đó, Na-than nói với vua Đavít: "Kẻ đó chính là ngài !" (2Sm 12, 7).
Khi chúng ta nhìn xem thế giới chìm trong bóng tối của quyền lực sự dữ với đủ mọi hình thức tội lỗi chống lại tình yêu Thiên Chúa và chiêm ngắm cái chết đau thương của Đức Giêsu trên thập giá như dấu chứng của lòng thương xót của Thiên Chúa để đem lại nguồn ơn tha thứ cho tội lỗi con người, giờ đây chúng ta hãy nhìn xem chính bóng tối sự dữ ấy nơi cuộc đời chúng ta. Phải, chính mỗi người chúng ta cũng tham dự vào mầu nhiệm sự ác vẫn đang diễn ra hàng ngày trên thế giới này vì chính chúng ta cũng từng nổi loạn chống lại Thiên Chúa khi từ khước tình yêu Người dành cho chúng ta.
Mỗi người chúng ta đang sống và hít thở bầu khí chung của thế giới này. Bản thân chúng ta vẫn thuộc về thế giới đang bị bóng đêm của tội lỗi bao phủ.
Thánh Gioan cho thấy một sự thật. Đó là sự hiện diện của bóng tối tận nơi sâu thẳm của tâm hồn chúng ta :
Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội,
chúng ta tự lừa dối mình,
và sự thật không ở trong chúng ta.
Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi,
Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính
sẽ tha tội cho chúng ta,
và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính.
Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội,
thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối,
và lời của Người không ở trong chúng ta. (1Ga 1, 8-10)
Chỉ cần nhìn lại hành trình cuộc đời đã qua trong những thước phim chiếu chậm, mỗi người chúng ta có thể nhận thấy khá rõ những vùng bóng tối che khuất tình yêu Chúa dành cho chúng ta. Bên cạnh những hồng ân yêu thương mà tôi đón nhận từ Thiên Chúa, có biết bao những vấp ngã và yếu đuối của chính con người mình. Trung thực với lòng mình, tôi nhận ra biết bao lần, tôi đã rơi vào trong hố sâu của tăm tối tội lỗi. Hành trình của đời người đã khởi đầu ngay trong ảnh hưởng của tình trạng tăm tối do tội lỗi gây nên :
Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,
Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. (Tv 50)
Khi phạm tội, tôi không vi phạm một điều luật hay một giới răn nhưng là xúc phạm đến chính Chúa, Đấng thiết lập nên lề luật hay giới răn ấy.
Tội làm tôi xa cách Chúa. “Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người, không có một chút bóng tối nào” (1Ga 1, 5). Vì thế, càng xa Chúa, tôi càng rơi vào bóng tối dầy đặc. Chúa là nguồn sống. Càng xa Chúa, tôi càng chôn sâu hồn tôi vào cõi chết. Chúa là Đấng tự do tuyệt đối. Càng xa Chúa, tôi càng rơi vào kiếp sống nô lệ.
Tội làm nên xa vắng. Khi xa Chúa, tôi cũng xa kẻ khác. Bởi lẽ, khi phạm tội, tôi đã tự đặt mình làm trung tâm của thế giới. Chính lúc ấy, tôi loại trừ người khác ra khỏi lòng tôi.
Tội làm cho tâm hồn tôi cô đơn. Cô đơn, vì tội để lại trong tâm hồn tôi một khoảng trống rùng rợn. Khoảng trống của sự mất mát nên mới xót xa. Khoảng trống đợi chờ nên mới cô đơn. Khoảng trống này không phải là không có gì, nhưng đó là sự hiện diện cay đắng của một sự thiếu vắng. Thiếu vắng một tình yêu tha thiết !
Quả thật khi phạm tội, tôi đã từ khước tình yêu mà Chúa dành cho tôi. Tôi đã thưa “Không!” với Chúa. Và với lời thưa “Không!” ấy, tôi đã phản bội lại tình yêu của Chúa, Đấng đã yêu thương và đã hy sinh chính mạng sống mình để cho tôi được sống.
Giữa bóng đêm tăm tối của tội lỗi, Thánh Gioan hân hoan loan báo:
Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người. (Ga 1, 9)
Trước ánh sáng rực rỡ của Ngôi Lời Thiên Chúa, con người phải tự chọn lựa thái độ cho mình. Hoặc tiếp nhận ánh sáng để được sống. Hoặc từ khước ánh sáng để phải chết muôn đời.
Và đây là bản án :
ánh sáng đã đến thế gian,
nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng,
vì các việc họ làm đều xấu xa.
Quả thật, ai làm điều ác,
thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng,
để các việc họ làm khỏi bị chê trách.
Nhưng kẻ sống theo sự thật,
thì đến cùng ánh sáng,
để thiên hạ thấy rõ :
các việc của người ấy
đã được thực hiện trong Thiên Chúa. (Ga 3, 19-21)
Là môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Người mời gọi :
Tôi là ánh sáng thế gian.
Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. (Ga 8, 12)
Là con cái của ánh sáng, chúng ta được mời gọi từ bỏ quyền lực tối tăm để đi vào vương quốc ánh sáng của Thiên Chúa :
Thiên Chúa là ánh sáng ;
nơi Người, không có một chút bóng tối nào.
Nếu chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người
mà lại đi trong bóng tối,
thì chúng ta nói dối và không hành động theo sự thật.
Nhưng nếu chúng ta đi trong ánh sáng
cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng,
thì chúng ta được hiệp thông với nhau,
và máu Đức Giêsu, Con của Người,
thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi. (1Ga 1, 5b-7)
Hiểu thấu thân phận yếu đuối, tội lỗi của con người, thánh Gioan khích lệ chúng ta :
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi,
tôi viết cho anh em những điều này,
để anh em đừng phạm tội.
Nhưng nếu ai phạm tội,
thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ
trước mặt Chúa Cha :
đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính.
Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta,
không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi,
nhưng còn vì tội lỗi cả thế gian nữa. (1Ga 2, 1-2).
Hãy đặt mình trước mặt Đức Giêsu đang chịu đóng đinh trên thập giá và tâm sự với Người. Hãy tự hỏi :
Vì sao Người là Đấng Tạo Hóa mà lại trở thành người ?
Vì sao Người là Đấng có sự sống vĩnh cửu mà lại nhận lấy cái chết chỉ vì tội lỗi của tôi ?
Tôi cũng nhìn vào chính con người mình và tự hỏi :
Tôi đã làm gì cho Đức Kitô ?
Tôi đang làm gì cho Đức Kitô ?
Tôi phải làm gì cho Đức Kitô ?
BÀI 6 TÌNH YÊU KHOAN DUNG VÀ THA THỨ (Ga 8, 2-11)
Hàng trăm con mắt đổ dồn về một người phụ nữ đang bưng mặt khóc nức nở. Chị cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã trước những ánh mắt khinh bỉ ném vào người chị. Chị không dám nhìn ai. Chị chỉ muốn chui xuống đất để không ai nhìn thấy chị trong lúc này.
“Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao ?”
Đức Giêsu nhìn thoáng qua người phụ nữ. Có lẽ đây không phải là lần đầu tiên chị phạm tội này. Dù đang ở trong tình trạng tiều tụy nhưng những đường nét nơi thân xác chị, từ mái tóc đến làn da đều toát lên một sự mời mọc, khiêu khích. Sự quan hệ vụng trộm của chị chắc đã diễn ra nhiều lần đến nỗi tiếng đồn thổi đã đến tai cả những biệt phái và kinh sư. Họ bố trí người theo dõi chị vì để kết tội cần phải có tang chứng. Bị bắt quả tang, có lẽ người đàn ông nào đó đã nhanh chân chạy thoát. Còn lại người phụ nữ chậm chân nên đã bị họ bắt giữ.
Theo luật Lv 20, 10 và Đnl 22, 22, cả hai người nam nữ phạm tội ngoại tình đều bị ném đá cho đến chết. Thân xác người phụ nữ lúc này run lên bần bật vì sợ hãi. Chị nghĩ đến những hòn đá sẽ ném vào người chị trong chốc lát... Một cái chết đau đớn, nhục nhã và khủng khiếp !
Đó là hình ảnh mỗi người chúng ta. Chúng ta luôn phạm tội dưới ánh mắt của Thiên Chúa, cho dù đó là những ước muốn thầm kín nhất tận đáy lòng mình ! Chúng ta luôn luôn bị bắt quả tang cho dù mính có ý thức điều đó hay không. Thiên Chúa là Đấng luôn thấu suốt mọi kín ẩn của lòng ta :
Lạy Chúa,
Ngài dò xét con và Ngài biết rõ,
Biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa. (Tv 138)
Ngoại tình là tội phản bội, là sự bất trung đối với tình yêu, là vi phạm nặng nề giao ước hôn nhân. Đó là thứ tội mà người ta thường khó tha thứ cho người mà mình đã hết lòng thương yêu. Tình yêu dành cho người mình thương càng lớn thì sự phản bội của họ càng gây đau đớn hơn. Bất cứ một tội nào tôi phạm cũng đều là một sự phản bội lại Tình yêu mà Chúa dành cho tôi.
Thánh Gioan nói rằng : “Căn cứ vào điều này chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta.” (1Ga 3, 16)
Như thế, mỗi lần tôi phạm tội là mỗi lần tôi phải bị ném đá, bị lên án tử. Nhưng vì yêu tôi, Đức Giêsu đã thay tôi hứng chịu những hòn đá độc ác ấy của tội. Hậu quả là mỗi lần tôi phản bội, chính Đức Giêsu bị lên án tử và bị ném đá thay tôi để cho tôi được sống.
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Lời Đức Giêsu như một tiếng chuông cảnh tỉnh lòng người. Các kinh sư và người Pha-ri-sêu đang chăm chú vào tội kẻ khác mà quên rằng mình cũng là một tội nhân :
“Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta.” (1Ga 1, 8)
Trở về với lòng mình và trung thực với chính mình, ai cũng nhận ra một sự thật: không ai là người vô tội !
Đức Giêsu lại cúi xuống viết trên đất. Ngài tế nhị không muốn để người khác hổ thẹn khi bắt gặp ánh mắt của Ngài, ánh mắt thấu suốt tâm can và từng tấc dạ của lòng người. Có người bảo Đức Giêsu đang viết tội của các kinh sư trên đất...
Họ lần lượt rút lui trong thinh lặng. Người lớn tuổi lặng lẽ bỏ đi trước. Dường như càng sống lâu, người ta càng thấy mình nhiều tôi. Chẳng còn ai mạnh miệng đứng ra tố cáo người phụ nữ. Người ta dễ dàng khoan dung với tội của người khác khi hồi tâm nhận ra những lầm lỗi yếu đuối nơi chính mình.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu và người phụ nữ. Chỉ còn lại một Đấng thương xót bên kẻ đang cần được xót thương.
“Này chị, họ đâu cả rồi ? Không ai lên án chị sao ?” - Thưa ông, không có ai ca !
Không ai dám lên án người phụ nữ. Vì lên án kẻ khác cũng là lên án chính bản thân mình! “Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án.” (Lc 6, 37).
Chỉ có một mình Đức Giêsu, Đấng duy nhất vô tội và là Đấng duy nhất có quyền lên án kẻ phạm tội. Nhưng Đức Giêsu không những không lên án kẻ phạm tội mà Ngài còn là Đấng Bảo Trợ cho tội nhân trước mặt Thiên Chúa :
“Nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha. Đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2, 1).
Chỉ có một mình Đức Giêsu, Đấng duy nhất vô tội, có đủ thẩm quyền và tư cách để ném đá người phụ nữ tội lỗi. Nhưng Ngài nhẹ nhàng nói với người phụ nữ: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !”
Đó là lời xá giải của Đức Giêsu, lời ban ơn tha thứ của Thiên Chúa. Tội lỗi của chị đã được xóa bỏ. Chị hãy lên đường! Hãy sống một cuộc đời mới ! Hãy quên đi chặng đường đã qua của bóng tối và hãy bước đi trong ánh sáng rạng ngời (x. Pl 3, 13-14). Quả thật:
“Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.” (Ga 3, 17)
BÀI 7 HÀNH TRÌNH VỀ NHÀ CHA (Mt 25, 1-13)
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gíó thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102)
Người khôn ngoan là người biết nhìn xa, thấy rộng để biết chuẩn bị trước cho những gì sẽ đến. Người dại là người chỉ thấy những gì trước mắt mà quên đi những gì sẽ đến nên thiếu chuẩn bị cho chính mình.
Năm cô trinh nữ khôn ngoan biết rằng chàng rể có thể đến bất cứ lúc nào, có thể rất sớm mà cũng có thể rất trễ trong đêm khuya nên không những đã đem đèn theo mà còn mang dầu dự trữ cho cuộc rước dâu có thể diễn ra trong đêm tối.
Năm cô trinh nữ dại khờ không biết lo xa nên ỉ i vào ít dầu đã đổ vào đèn, lấy đó làm đủ để chờ đợi giây phút chàng rể đến.
Không có dầu, đèn sẽ không thắp được. Không có đèn sẽ chẳng có thể ra đi trong đêm tối. Chàng rể thường vẫn đến vào lúc người ta đã chờ đợi mỏi mệt và vào lúc người ta đã ngủ thiếp đi, không còn ý thức rằng điều quan trọng là phải tháp tùng chú rể trong cuộc rước dâu để có thể bước vào phòng tiệc cưới.
Người khôn là người biết thẩm định đâu là giá trị mau qua và đâu là giá trị trường cửu, sẽ còn mãi mãi.
Có những người lao nhọc vất vả cả đời chỉ để tìm kiếm kho tàng dưới đất là nơi trộm cắp đào khoét được, là nơi mối mọt có thể phá hỏng mà quên đi kho tàng vĩnh cửu, kho tàng bất diệt trên trời, như người phú hộ giàu có chỉ lo xây kho lẫm và tìm an nghỉ trên đống lúa thóc dư đầy !
Dầu là đức tin và ngọn đèn chính là lòng yêu mến. Làm thế nào để giữa muôn vàn thử thách của cuộc sống, đức tin vẫn trở nên điểm tựa vững chắc cho cuộc hành trình của người lữ khách đang tiến về quê hương thiên quốc. Lửa mến chỉ có thể được thắp sáng trên bình dầu của đức tin và trở thành ánh sáng dẫn đưa chúng ta trên nẻo đường dương thế.
“Kìa chú rể, ra đón đi !” Đó là giây phút quyết định đối với các cô trinh nữ đã mòn mỏi đợi chờ. Đây là lúc lộ ra ai khôn ai dại. Những cô khôn ngoan đầy đủ dầu đèn có thể lên đường ngay với chàng rể để đi vào tiệc cưới. Đây không phải là lúc để chuẩn bị mà là lúc phải ra đi! Đây cũng chẳng phải là lúc người ta có thể giúp nhau được nữa vì thời giờ cấp bách. Chỉ có ai sẵn sàng mới có thể lên đường, đi trong đoàn người ánh sáng tiến vào đêm khuya.
Giờ chết là giờ quyết định cho vĩnh cửu. Chính là kinh nghiệm mà ai cũng sẽ trải qua nhưng chỉ có một lần nên chẳng thể chia sẻ cho nhau về kinh nghiệm đặc biệt này. Cái chết đẩy chúng ta vào ánh sáng chói loà của Thiên Chúa… Giá trị cuộc đời tôi được phơi bày dưới ánh sáng của Thiên Chúa. Lúc đó, cuộc đời tôi sẽ được lượng giá tùy mức độ ánh sáng Chúa đã thâm nhập vào con người tôi. Cái chết vẫn là ánh sáng thật nhất phơi bày cuộc đời tôi. Cái chết cũng là ánh sáng cuối cùng phán xét và định hình cho tôi vĩnh viễn trong cuộc sống vĩnh cửu.
Cái chết dưới ánh sáng Chúa Kitô Khi đến thế gian, Đức Giêsu đã chia sẻ trọn vẹn thân phận của kiếp người. Ngài đã đón nhận cả cái chết chứ không hề tránh né. Đức Giêsu đã báo trước 3 lần rằng Ngài sẽ bị giết ở Giêrusalem. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng đã rùng mình ghê sợ khi nghĩ đến giờ phút đầy thử thách đó của đời người:
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này,
nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (Ga 12, 27)
Chúa Kitô không xoá bỏ cái chết nhưng Ngài biến đổi nó bằng cách chiếu tỏa ánh sáng của Ngài vào giữa chốn tối tăm đầy âm u của sự chết. Cái chết không còn là cửa đưa vào tối tăm nhưng là lối đi dẫn vào miền ánh sáng. Tôi không còn sợ hãi trước cánh cửa của sự chết vì đó là cửa dẫn đưa tôi đi vào nhà Cha. Bên kia cánh cửa, không còn là khoảng không của cõi hư vô nhưng có bàn tay Cha âu yếm chờ đợi để đón tiếp tôi trở về. Tôi cũng không còn cô đơn trong cái chết vì Chúa Kitô như người mục tử nhân hậu, cùng đồng hành với tôi để dẫn tôi qua thung lũng âm u, đi vào đồng cỏ xanh bên bờ suối trong lành, nơi tôi sẽ được nghỉ ngơi mãi mãi trong niềm vui và bình an.
“Xin để tôi tớ này, được an bình ra đi” (Lc 2, 29)
Đối với người tu sĩ, cái chết là giây phút Thiên Chúa nhận trọn lời hiến dâng, là ngọn lửa thiêu trọn vẹn của lễ, là giờ “rước dâu,” lúc Chúa Kitô đến đón những kẻ thuộc về Ngài và đã theo Ngài đến giây phút cuối cùng, để đem họ về với Ngài, để Ngài ở đâu thì họ cũng được ở đó. (Ga 14, 13).
Giờ chết là lúc chúng ta được làm chủ trọn vẹn cuộc đời mình để cuộn lại dâng cho Chúa, là lúc chúng ta nói lên lần cuối và dứt khoát lời hiến dâng cho Thiên Chúa và là hành động cuối cùng dể phục vụ anh em .
Cái chết thúc bách tôi sống Cái chết luôn diễn ra thật bất ngờ. Mỗi giây phút của cuộc đời tôi đều có thể là giây phút cuối cùng. Đó là giây phút quyết định cho cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, mỗi giây phút của cuộc sống đều quan trọng và cấp bách.
Khi nhắm măt xuôi tay đi vào vĩnh cửu, tôi sẽ đem theo những gì ? Những thành quả của công việc tôi làm ư ? Uy tín và thanh danh của tôi ư ? Những năm tháng tôi vất vả lao nhọc phục vụ Giáo Hội và tha nhân ư ? Không phải những thứ ấy. Điều duy nhất làm hành trang đi vào vĩnh cửu chính là tình yêu. Chỉ có tình yêu mới tồn tại mãi mãi. Chỉ có tình yêu mới vượt được biên giới của thời gian để đi vào vĩnh cửu. Vì thế, mỗi giây phút cuộc đời tôi chỉ có thể trở thành vĩnh cửu trong mức độ đó là những giây phút tôi đã sống trọn vẹn cho tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa qua việc ngợi khen, tôn kính và phụng sự Ngài; tình yêu đối với anh chị em qua thái độ quên mình khiêm tốn phục vụ.
Mỗi giây phút tôi phải tham dự trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và phục sinh của Chúa Kitô bằng cách thực thi ba lời khấn. Tôi càng chết đi với Chúa Kitô thì sức sống của Ngài càng bừng lên mãnh liệt hơn tôi và sự sống của Ngài là sự sống vĩnh cửu. Tôi chết đi mỗi lần tôi từ bỏ ý riêng, từ bỏ những ý định riêng, từ bỏ con người ích kỷ của tôi, từ bỏ thái độ chiếm đoạt, từ bỏ những gì tôi gọi là của tôi, để không còn là của tôi nữa, kể cả chính tôi, nhưng tôi chỉ còn là của Chúa Kitô và của anh chị em mình.
Kinh nghiệm cho thấy, biết bao lần chúng ta hối tiếc vì người này người khác đã chết mà chúng ta chưa có dịp làm hòa, chưa có dịp đem lại cho người ấy một niềm vui, dù chỉ là một niềm vui thật nhỏ bé. Tại sao không tận dụng ngày hôm nay còn đang sống bên nhau để cho nhau niềm vui, cho nhau hạnh phúc. Điều chua xót là chỉ khi xa nhau, người ta mới nhận ra giá trị của nhau, chỉ khi người kia không còn nữa, tôi mới nhận ra người ấy thật dễ thương.
Vì thế, tôi phải tận dụng ngày hôm nay để làm cho tình yêu trong tim tôi bừng sáng trong cộng đoàn để khi tôi đi vào vĩnh cửu, tình yêu ấy vẫn còn cháy sáng mãi giữa cộng đoàn. Tình yêu vừa đi theo tôi vào vĩnh cửu vừa lưu lại như sự nghiệp của tôi giữa anh chị em, những người còn ở lại trần gian.
Đoàn quân ra đi đề lại những dấu chân.
Chiếc thuyền ra đi để lại những gợn sóng.
Tôi ra đi để lại Tình Yêu !
Như những cô trinh nữ cầm đèn cháy sáng để đi đón chàng rể, cuộc sống của mỗi người chúng ta phải luôn cháy sáng ngọn lửa tin yêu, để bất cứ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng sẵn sàng để được vào phòng tiệc cưới muôn đời với Chúa Kitô.
Cuộc đời tôi dưới ánh sáng giờ chết
Nếu tôi ra đi hôm nay, cái chết có phải là cửa ngõ đưa tôi vào nhà Cha không ? Tôi có cảm nghiệm niềm hân hoan vì đã hoàn tất cuộc đời dâng hiến và vui sướng vì thỏa lòng khao khát gặp Chúa Kitô không ?
Có gì làm tôi tiếc nuối không ? Có gì làm tôi sợ hãi khi nghĩ rằng cả cuộc đời mình sắp bị phơi trần dưới ánh sáng chói lòa của Thiên Chúa, trước đôi mắt phán xét của Chúa Kitô ? Tôi sẽ gặp đôi mắt âu yếm của người yêu đang chờ tôi hay sẽ gặp đôi mắt phán xét của người yêu bị phản bội ?
Tôi đã thuộc trọn về Chúa chưa ? Đã sẵn sàng như cô dâu trang điểm chờ chàng rể tới đón chưa ? Ba lời khấn có giúp tôi nên giống Chúa chưa ?
Sự vâng phục của tôi đã tới độ cho tôi sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa lần cuối chưa ?
Lòng trinh khiết của tôi đã làm cho tôi thuộc trọn về Chúa và chỉ chờ đợi một mình Ngài chưa ?
Đời sống khó nghèo của tôi đã làm cho tôi sẵn sàng từ bỏ tất cả một lần cuối chưa ?
Nếu tôi chết hôm nay, tôi có gì phải hối hận với cộng đoàn không? Tôi có nuối tiếc vì đã chưa làm một điều gì đó cho cộng đoàn, cho một người nào đó ?
BÀI 8 TIẾNG GỌI CỦA TÌNH YÊU (Mc 1, 16-20)
Chúng ta bước sang tuần thứ hai của cuộc hành trình thiêng liêng sau khi đã được tình yêu Chúa Kitô thanh luyện trong giai đoạn vừa qua.
Bài cầu nguyện này giúp chúng ta nghe lại một cách rõ ràng hơn tiếng gọi của tình yêu mà Đức Giêsu dành cho mỗi người chúng ta và để chúng ta làm mới lại tình yêu của chúng ta đối với Người. Có thể chúng ta đã nghe thấy tiếng gọi đầy yêu thương ấy của Người, và đã quảng đại đáp trả khi can đảm thưa tiếng "Xin Vâng" để dấn thân trên con đường Người mời gọi chúng ta cách đây 10 năm, 20 năm, 50 năm hay lâu hơn nữa.
Hãy nhìn lại lịch sử cứu độ để thấy cách thức Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn những con người mà Người cần đến để cộng tác trong kế hoạch yêu thương của Người đối với nhân loại.
Chúa đã gọi Abraham lúc ông đang an cư lạc nghiệp trên quê cha đất tổ. Chúa gọi Môisê lúc ông đang chăn chiên cho nhạc phụ trên núi. Chúa gọi Đavít lúc ông còn là một cậu bé đang tung ătng đùa giỡn với đoàn chiên trên đồng cỏ. Chúa gọi Samuel lúc ông là một cậu bé giúp lễ ngủ trong đền thờ bên cạnh thầy cả Hêli. Đức Giêsu gọi bốn người bạn trẻ trở nên những môn đệ đầu tiên của Người lúc họ đang miệt mài với công việc của những người chài lưới đánh cá.
Hãy nhớ lại giây phút khởi đầu của ơn gọi mỗi người chúng ta, giây phút của một hoàn cảnh đặc biệt nào đó đã dẫn mỗi người chúng ta đến con đường phục vụ trong ơn gọi của đời thánh hiến hôm nay. Tông đồ Gioan vẫn nhớ như in giây phút gặp gỡ Đức Giêsu và được lưu lại với Người suốt ngày hôm ấy. Hơn sáu mươi năm sau biến cố đang nhớ ấy, vị thánh sử này vẫn ghi lại trong Tin Mừng chi tiết thời gian thật rõ ràng: "Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười" (Ga 1, 39).
Tiếng gọi của Đức Giêsu làm cho cuộc đời tôi đảo lộn. Anh mắt của Người đã thu hút lòng tôi ngay từ thuở ban đầu. Cái nhìn của Người đầy yêu thương, khích lệ tôi can đảm đáp trả để dấn thân cùng với Người trên đường phục vụ.
Nơi tình Người dành cho tôi, tôi cảm nhận một sự chăm sóc yêu thương, tế nhị và kính trọng. Ngài thấu suốt mọi bí ẩn, mọi nỗi lòng thầm kín của tôi. Người chấp nhận con người còn đầy giới hạn, yếu đuối và tội lỗi của tôi. Người yêu thương tôi như tình trạng tôi đang sống từng ngày từng giờ. Người kiên nhẫn huấn luyện, dẫn dắt tôi qua những nẻo đường đầy gian nan thử thách và tỏ lộ cho tôi dần dần con đường yêu thương của Người dành sẵn cho cuộc đời tôi. Người gọi tôi là bạn hữu thân thiết của Người và mong được chia vui sẻ buồn với tôi trong những biến cố diễn ra trong cuộc sống phục vụ. Người mời gôi tôi gắn bó với chính Người như lẽ sống duy nhất của đời tôi và nhận Người là trung tâm, là kho tàng quý giá nhất của đời mình.
Khi thưa hai tiếng "Xin Vâng" để đáp lại lời mời gọi tình yêu của Người, tôi đã hân hoan dấn thân và cùng lên đường đồng hành với Người trong sứ mạng đem Tin Mừng yêu thương của Người đến cho thế giới hôm nay. Tôi đã chấp nhận lội ngược dòng đời để bước vào con đường hẹp của các lời khuyên Phúc Âm, để sống trọn vẹn cho tình Người và cho những anh chị em mà Người sai tôi đến để phục vụ. Tôi đã chấp nhận từ bỏ mọi sự để lên đường với Người, dấn thân vào cuộc phiêu lưu của một tình yêu mới mẻ mỗi ngày một rộng mở trước mặt. Tôi khao khát được thuộc về Người mãi mãi trong một tình yêu bất diệt đưa tôi đến cuộc sống vĩnh cửu bên Người.
Càng bước theo chân Thầy Chí Thánh, tôi càng hiểu ra những đòi hỏi của lời mời gọi yêu thương năm xưa trên bước đường phục vụ. Để được thuộc trọn vẹn về Người mỗi ngày một hơn, tôi vẫn tiếp tục cuộc chiến dai dẳng với cái tôi ích kỷ nơi con người cũ của mình để có thể sống quảng đại hơn cho Người. Tôi được mời gọi để nên đồng hình đồng dạng với Đấng tôi yêu mến trong lao nhọc, trong vất vả, trong muôn nỗi khổ đau của cuộc sống phục vụ do hiểu lầm, do ghen ghét, do đố kỵ, do những kẻ chống đối tôi, những kẻ không chấp nhận tôi, những người muốn loại trừ tôi. Tôi hiểu ra thế nào là vác lấy thập giá mình mà theo Thầy (Mt 10, 38), thế nào là trò không hơn thầy, tôi tớ không hơn chủ (Mt 10, 24).
Giữa những lúc cảnh đời đầy nước mắt đau thương, Người vẫn đến bên tôi ủi an, khích lệ :
Trong thế gian,
Anh em sẽ phải gian nan khốn khó.
Nhưng can đảm lên !
Thầy đã thắng thế gian. (Ga 16, 33)
Người nâng đỡ và động viên tôi những lúc tôi cảm thấy mệt mỏi vì đường dài, vì những gian nan, thử thách và đau khổ trên bước đường dấn thân phục vụ :
Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề,
Hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Anh em hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với Ta.
Vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Vì ách Ta êm ái, và gánh Ta nhẹ nhàng. (Mt 11, 28-30)
Hôm nay đây, về bên chân Thầy Chí Thánh để ở bên Người, để lắng nghe tiếng nói yêu thương của Người giữa lúc chân chồn gối mỏi, giữa lúc thân xác rã rời vì phục vụ, tôi vui sướng thưa với Người về câu chuyện đời tôi và cảm nhận trái tim yêu thương nồng ấm và dịu dàng nhân ái của Người dành cho tôi với tất cả sự trìu mến và ân cần chăm sóc.
Lạy Chúa Giêsu,
xin thêm sức mạnh của Ngài cho con.
Xin cho con được mãi mãi thuộc về Ngài
trong một tình yêu bất diệt.
Xin Ngài trở nên nguồn vui, niềm hy vọng
và suối nguồn hạnh phúc duy nhất của đời con.
Xin tiếp tục dẫn dắt con trên con đường phục vụ
và xin ở với con trong từng bước đi của cuộc sống,
để con được mãi mãi là người môn đệ trung tín
và theo chân Chúa đến giây phút cuối cùng của cuộc đời con.
Và sau cuộc hành trình phục vụ Chúa nơi trần thế này,
Xin hãy đón nhận con
vào Vương Quốc Yêu Thương của Chúa
để cùng với những người được tuyển chọn
Con mãi mãi hát bài tình ca
ngợi khen danh thánh Chúa đến muôn đời. Amen !
BÀI 9 HÀNH TRÌNH KHÁM PHÁ TÌNH YÊU (Lc 1, 26-38)
Chúng ta đã quảng đại đáp trả tiếng gọi tình yêu của Đức Giêsu để gắn bó và ao ước nên một với Người, để cùng với Người lên đường dấn thân xây dựng Nước Thiên Chúa nơi trần gian. Qua sự đáp trả này, chúng ta đã diễn tả lòng ước ao ở với Đức Giêsu để cùng chia sẻ sứ mạng cứu thế của Người. Chúng ta mong ước được lớn lên mãi trong mối tương quan yêu thương bạn hữu với Đấng đã yêu thương tuyển chọn chúng ta.
Khi lớn lên trong tình yêu đối với ai đó - nhất là người đã yêu thương và làm mọi sự vì yêu thương ta - không những ta mong ước được ở bên cạnh người mà ta thương mến, nhưng ta còn ước muốn được biết về con người ấy bao nhiêu có thể được. Trong sức thu hút và hấp dẫn của tình yêu, chúng ta chẳng bao giờ cảm thấy mình hiểu biết đủ về người mình yêu thương.
Vì thế, trong chặng đường thứ hai này của cuộc hành trình thiêng liêng, chúng ta khao khát được biết về Chúa Giêsu bao nhiêu có thể. Dĩ nhiên, đây không phải là cái biết của đầu óc, của trí tuệ hay sách vở mà là cái biết thâm sâu của những cảm xúc, của những rung động phát xuất từ trái tim muốn được ở với Đức Giêsu, là lòng khao khát muốn được hiểu biết thâm sâu hơn về Chúa, nhờ đó tôi có thể yêu mến Chúa sâu xa hơn và theo Chúa sát hơn nữa trên con đường Người đã đi.
Khi khởi đầu cuộc hành trình thiêng liêng này, chúng ta đã nhìn lại cuộn phim cuộc đời chúng ta qua từng thước phim được chiếu lại. Giờ đây, chúng ta xin Đức Giêsu vén mở cho chúng ta cuộn phim cuộc đời của Người, xin Người kể lại cho chúng ta nghe về những thước phim của đời Người để chúng ta hiểu hơn Người là ai, để nhận ra sâu xa hơn tình yêu Người dành cho ta, để ta yêu mến và theo Người hơn nữa.
Cuộn phim cuộc đời Đức Giêsu khởi đầu trong cõi vĩnh cửu của Thiên Chúa. Từ đời đời, Đức Giêsu là Một trong Ba Ngôi Thiên Chúa Tình Yêu, là Ngôi Lời Vĩnh Cửu hằng hữu. Được Chúa Cha sinh ra từ đời đời, Ngôi Con đồng bản tính với Thiên Chúa và quy hường về Chúa Cha như nguồn mạch thông ban sự sống :
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
Và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
Lúc khời đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. (Ga 1, 1-2)
Khi Thiên Chúa quyết định tạo dựng vũ trụ cùng với muôn vật muôn loài, Ngôi Hai chính là Lời Toàn Năng mà Chúa Cha phán ra để làm cho mọi loài được hiện hữu :
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. (Ga 1, 1, 3-4)
Từ trên ngai tòa uy nghi cao cả, Thiên Chúa Ba Ngôi đưa mắt nhìn xuống mặt địa cầu, nhìn thấy loài người sống trong sự mù quáng tối tăm, đưa đẩy nhau rơi vào hố sâu tội lỗi, dẫn đến chỗ hư mất đời đời. Trong tình yêu thương, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đi đến quyết định sai Ngôi Hai xuống thế làm người để cứu chuộc loài người khỏi hư mất.
Trong kế hoạch cứu chuộc nhân loại, một người nữ đã được tuyển chọn đặc biệt để đón nhận Ngôi Hai nhập thể làm người. Đó là trinh nữ Maria, một thiếu nữ đạo hạnh thuộc xứ Palestine.
Khi đến giờ đã định, Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho trinh nữ Maria biết về sự tuyển chọn của Người và chương trình của Người đối với cô trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Chúng ta hãy chiêm ngắm khung cảnh trên thiên quốc vào lúc Thiên Chúa trao sứ mạng cho thiên sứ Gabriel xuống trần gian báo tin cho Đức Maria và nhìn ngắm ngôi nhà nhỏ bé đơn sơ ở làng Na-gia-rét của ông bà Gioakim và Anna, nơi sắp diễn ra biến cố Truyền Tin cho trinh nữ Maria, mở đầu cho một trang sử mới của kỷ nguyên ơn cứu độ.
Hãy lắng nghe lời chào cung kính của thiên sứ, sự ngạc nhiên của Đức Maria, những lời trao đổi giữa sứ thần và Đức Maria về những gì sẽ diễn ra nơi cuộc đời của người thiếu nữ diễm phúc được tuyển chọn. Hãy lắng nghe lời loan báo của sứ thần về tương lai của Trẻ Thơ mà Đức Maria sẽ cưu mang. Sau hết, chúng ta vui sướng cùng với triều thần thiên quốc và cả vũ trụ hân hoan đón nhận lời thưa "Xin Vâng" của Đức Maria với thiên sứ :
Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói. (Lc 1, 38)
Chính lời ưng thuận của Đức Maria đã cho phép Ngôi Hai Thiên Chúa rời bỏ ngai tòa cao sang để khởi sự công trình cứu chuộc bằng mầu nhiệm Nhập Thể làm người trong cung lòng vẹn sạch của Đức Nữ Trinh Maria :
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. (Ga 1, 14)
Thánh Phaolô giải thích về mầu nhiệm vừa diễn ra sau lời thưa Xin Vâng của Đức Maria và hiệu quả của mầu nhiệm yêu thương ấy đối với nhân loại :
Khi thời gian tới hồi viên mãn,
Thiên Chúa đã sai Con mình tới,
sinh làm con một người đàn bà,
và sống dưới Lề Luật,
để chuộc những ai sống dưới Lề Luật,
hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. (Gl 4, 4-5)
Chính Đức Giêsu sau này sẽ vén mở mầu nhiệm tình yêu cứu độ cao cả của Thiên Chúa dành cho nhân loại :
Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 16)
Thánh Gioan cũng loan báo mầu nhiệm yêu thương này như một nhân chứng sống động :
Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng
và làm chứng rằng :
Chúa Cha đã sai Con của Người đến
làm Đấng cứu độ thế gian. (1Ga 4, 14)
Chúng ta hãy cảm tạ mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Chỉ vì thương yêu nhân loại tội lỗi mà Người đã sai Con của Người đến chia sẻ thân phận loài người chúng ta để cứu chúng ta khỏi chết muôn đời.
Hành trình của Tình Yêu đã khởi đầu nơi sự tự hủy của Ngôi Lời trong mầu nhiệm Nhập Thể. Thật vậy, chúng ta hân hoan tuyên xưng trong kinh Tin Kính về mầu nhiệm tình yêu của một Thiên- Chúa-vì-chúng-ta-và-cho-chúng-ta :
Vì loài người chúng tôi,
và để cứu rỗi chúng tôi,
Người đã từ trời xuống thế.
BÀI 10 TIN MỪNG CHO TOÀN DÂN (Lc 2, 1-20)
Chúa Hài Nhi, Thánh Vương vũ trụ,
Sinh làm con Trinh Nữ vẹn tuyền,
Toàn cầu hớn hở dâng lên,
Mến yêu đền đáp vô biên ơn Ngài.
(Thánh Thi Kinh Sách Lễ Giáng Sinh)
Cuộn phim cuộc đời Đức Giêsu tiếp tục với một khung cảnh kỳ diệu. Giữa đêm khuya thanh vắng trên cánh đồng Bêlem lạnh giá tuyết sương, một lời loan báo hết sức long trọng vang xuống từ trời cao :
Anh em đừng sợ.
Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại,
Cũng là tin mừng cho toàn dân :
Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em
trong thành vua Đa-vít,
Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa ! (Lc 2, 10-11)
Những người chăn chiên ngỡ ngàng trước lời loan báo của vị sứ thần. Trong ánh vinh quang rạng rỡ từ trên cao tỏa xuống, khuôn mặt ngái ngủ của họ còn ngơ ngác, sợ hãi chưa hiểu hết những gì đang xảy ra thì lời thiên sứ tiếp tục loan báo như lời mời gọi họ lên đường :
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người :
Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã,
nằm trong máng cỏ. (Lc 2, 12)
Và ca đoàn thiên quốc cất tiếng hát thánh thót hân hoan giữa trời đêm, loan báo niềm vui của Đất Trời được giao hòa, xe duyên nơi Trẻ Thơ vừa được sinh ra :
Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. (Lc 2, 13)
Giờ đây, chúng ta hãy nhập đoàn với những người chăn chiên, hối hả lên đường đến Bê-lem để chiêm ngắm Đấng vừa từ trời cao hạ thân xuống trần, sinh ra trong hang lừa máng cỏ, giữa khung cảnh nghèo khó trần trụi.
Một trẻ thơ vừa sinh ra. Sinh ra trong cuộc hành trình đầy gian nan vất vả của cha mẹ. Họ là những lữ khách đơn nghèo đang trên đường về quê để thi hành lệnh kiểm tra dân số của nhà cầm quyền. Họ đã gõ nhiều cánh cửa nhà trọ, nhưng không ai sẵn sàng tiếp đón. Con Thiên Chúa đã bị loài người từ khước ngay từ giây phút đầu đời của cuộc hành trình đến giữa nhân loại :
Người đã đến nhà mình
Nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. (Ga 1, 11)
Vì không có chỗ trong thế giới loài người nên Người đã vui lòng sinh hạ trong nơi dành cho súc vật. Là Con Thiên Chúa cao sang, uy quyền, Người đã không chọn sinh ra trong lầu son gác tía, trong cảnh nhung êm lụa ấm như một vị hoàng tử giữa muôn kẻ hầu người hạ. Người đã chọn sinh ra giữa khung cảnh thiếu thốn, khó nghèo đến tột cùng : không nhà, không cửa, không chăn êm nệm ấm, trong thân phận của một lữ khách tha phương.
Người sinh ra trên đường, để rồi bước vào một cuộc đời trôi nổi, nay đây mai đó trên đường. Từ Bê-lem sang Ai-cập. Từ Ai-cập về Na-gia-rét. Một ngày kia, Người sẽ chết nhục nhã cũng ở một ngã ba đường, giữa kẻ qua người lại cười chê khinh bỉ, trong thân phận của một kẻ tội phạm bị kết án tử hình thập giá, trần trụi đau thương !
Thánh Phaolô giải thích cho chúng ta ý nghĩa của mầu nhiệm tình yêu của Đấng vừa sinh hạ trong cảnh khó nghèo :
Anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta
đã có lòng quảng đại như thế nào :
Người vốn giàu sang phú quý
Nhưng đã trở nên nghèo khó vì anh em
Để lấy cái nghèo của mình
Làm cho anh em trở nên giàu có. (2Cr 8, 9)
Trong mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Con Thiên Chúa đã trở thành con của loài người. Đấng quyền năng đã trở thành một trẻ thơ bé nhỏ yếu đuối. Chính vì muốn chia sẻ thật sâu xa thân phận con người, nhất là những người khó nghèo, bị bỏ rơi mà Con Thiên Chúa đả đến giữa trần gian, sinh ra trong khung cảnh nghèo hèn.
Con Thiên Chúa đến làm con của loài người để cho con của loài người từ nay được trở nên con Thiên Chúa.
Thiên Chúa đến làn ngươi để từ nay nơi mỗi con người đều mang khuôn mặt của Thiên Chúa, cho dù dó là một thai nhi nhỏ bé trong lòng mẹ hay một người bị bỏ rơi giữa chợ đời, một người cùng khổ sống bên lề xã hội.
Ơn gọi làm người là một ơn gọi cao quý vì chính Con Thiên Chúa đã đến làm người để chiếu ánh vinh quang của Người vào cuộc sống nhân loại. Phẩm giá con người được nâng lên nhờ mầu nhiệm tự hạ của Đấng từ trời cao vừa giáng sinh làm người.
Nhận ra sự biến đổi kỳ diệu nơi cuộc sống làm người nhờ Con Thiên Chúa nhập thể, thánh Irênê thốt lên :
Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống !
BÀI 11 NGƯỜI CON YÊU DẤU CỦA CHA (Mt 3, 13-17)
Cuộn phim về cuộc đời Đức Giêsu đưa chúng ta đến bờ sông Gio-đan, nơi Đức Giêsu khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Người bằng việc lãnh nhận phép Rửa bởi tay Gioan Tẩy Giả.
Chúng ta hãy hòa vào đám đông những người đang nghe lời Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối và lãnh nhận phép Rửa để chứng kiến khung cảnh kỳ diệu sắp diễn ra nơi đây khi Đức Giêsu xuất hiện.
Trước lúc Đức Giêsu đến, Gioan vừa làm phép rửa, vừa loan báo cho dân chúng về Đấng Thiên Sai sẽ đến :
Có người đến sau tôi
nhưng trổi hơn tôi vì có trước tôi.
Tôi đã không biết Người,
nhưng để Người được tỏ ra cho dân Israel,
tôi đến làm phép rửa trong nước. (Ga 1, 30-31)
Gioan ý thức rõ ràng về sứ mạng của mình. Ông không phải là ánh sáng nhưng ông được Thiên Chúa sai đến để làm chứng cho ánh sáng. Để mọi người nhờ ông mà tin vào Đấng sẽ đến (x. Ga 1, 7-8). Vì thế, trước những thắc mắc của mọi người về mình, Gioan đã giải thích minh bạch cho họ:
Tôi đây không phải là Đấng Kitô
mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. (Ga 3,28)
Châm ngôn sống của ông trong tương quan với Đức Giêsu cho thấy thái độ khiêm tốn, xóa mình để Đức Giêsu được loan báo:
Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi. (Ga 3, 30)
Và đây Đức Giêsu xuất hiện. Người đến và hoà mình vào đám đông những người đến xin Gioan làm phép rửa để tỏ lòng sám hối. Khó có ai ngờ được Con Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, giờ đây lại đứng chung trong hàng ngũ các tội nhân. Thánh Phaolô giải thích cho ta về mầu nhiệm này:
Đấng chẳng hề biết tội là gì
thì Thiên Chúa đã biến Người
thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta
để làm cho chúng ta nên công chính trong Người. (2Cr 5, 21)
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu đứng chung với những người tội lỗi, chúng ta hiểu được thế nào là liên đới với những người khác, nhất là những người sống ngoài lề xã hội, những người bị sa ngã vào vũng lầy tội lỗi, những người bị mọi người xa lánh. Liên đới là đứng chung với họ để chia sẻ và cảm thông một số phận, để nâng đỡ và giúp họ tiếp tục tiến bước, khích lệ họ vươn lên trong cuộc sống làm người. Vì thế, liên đới chỉ là một cách nói khác của tình yêu thương. Đức Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, được Thánh Thần xức dầu và sai đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó để sống sự liên đới này đến cùng khi bị liệt vào phường trộm cướp và sẽ chết như một kẻ tử tội trên thập giá!
Liên đới còn là lên tiếng nói thay cho người khác tiếng nói của lẽ phải, của sự thật, của công bình. Công Đồng Vaticanô II đã diễn tả sự liên đới của người môn đệ Chúa Kitô với tha nhân:
Vui mừng và hy vọng,
ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay
nhất là của người nghèo và những ai đau khổ
cũng là vui mừng và hy vọng,
ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô
và không có gì thực sự là của con người
mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ.(Hiến Chế Mục Vụ, số 1)
BÀI 12 HAI CON ĐƯỜNG CỦA LÒNG MUỐN (Mt 5, 1-12; 7, 13-14)
Chúng ta đang bước theo Đức Giêsu trong hành trình khám phá ra tình yêu của Người dành cho chúng ta khi đi lại từng bước đường nơi các mầu nhiệm cuộc đời của Người. Chúng ta đang xin ơn để được hiểu biết Người thâm sâu hơn, yêu mến Người hơn và theo sát Người hơn nữa trên đường Người đã đi.
Thế nhưng Đức Giêsu đã đi trên con đường nào ? Liệu chúng ta có nhận ra hôm nay chúng ta vẫn trung thành bước theo Người trên con đường ấy không ? Chúng ta vừa chiêm ngắm cuộc chiến quyết liệt của Đức Giêsu chống lại các mưu mô của Satan. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với các môn đệ đến đồi Bát Phúc để lắng nghe Đức Giêsu công bố bản Hiến Chương Nước Trời, như con đường của Người và của tất cả những ai muốn theo Người sau này.
Những mối phúc thật mà Đức Giêsu loan báo chính là những kinh nghiệm mà Người đã sống, đã trải qua, và làm nên chân dung của người Con yêu dấu của Cha trên trời. Tinh thần nghèo khó, thái độ hiền lành, sự sầu khổ, lòng thương xót, tâm hồn trong sạch, đi xây dựng hoà bình, bị bách hại vì sống công chính, bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa vì Chúa. Đó là những con đường đưa đến niềm vui vì làm cho ta được nên giống với Đấng ta yêu mến. Đó cũng là lúc mà ta có được những tâm tình như chính Đức Giêsu đã có như lời khuyên của thánh Phaolô (x. Pl 2, 5). Sau hết, đó là những con đường dẫn ta đến chỗ được ở mãi mãi với Người:
Anh em hãy vui mừng hớn hở,
Vì phần thưởng dành cho anh em
ở trên trời thật lớn lao. (Mt 5, 12)
Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi sống từng ngày từng giờ những mối phúc này. Đó là những con đường dẫn đưa ta đến hạnh phúc chân thật ngay từ cuộc sống trần gian này. Chỉ khi quen với con đường này, chúng ta mới nhậy bén nhận ra những mời mọc, lôi kéo của Satan tìm cách đưa đẩy ta ra khỏi con đường của Đức Giêsu.
Đức Giêsu cho thấy con người buộc phải tự chọn lựa lấy một trong hai con đường : hoặc con đường đưa đến cái chết hoặc con đường dẫn đến sự sống :
Hãy qua của hẹp mà vào,
vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong,
mà nhiều người đi lại qua đó.
Còn của hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống,
nhưng ít người tìm được lối ấy. (Mt 7, 13-14)
Trong lòng ta, cuộc chiến dai dẳng nơi nội tâm vẫn còn tiếp diễn. Một bên là những khao khát theo Đức Giêsu trên con đường hẹp của Tin Mừng và bên kia là những ước muốn trần tục của thế gian mà Satan vẫn tìm cách khơi dậy từ những đam mê của con người cũ vẫn chưa hoàn toàn chết hẳn trong lòng ta. Kinh nghiệm day dứt của thánh Phaolô xưa kia cũng là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay :
Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn,
nhưng làm thì không.
Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm,
nhưng sự ác tôi không muốn,
tôi lại cứ làm. (Rm 7, 18b-19)
Từ kinh nghiệm ấy, thánh Phaolô cho thấy hai hướng đi của hai lòng muốn dẫn đến hai tình trạng hoàn toàn khác nhau nơi lòng người. Đó là hướng đi của xác thịt và hướng đi của Thần Khí:
Những ai sống theo tính xác thịt
thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt ;
còn những ai sống theo Thần Khí,
thì hướng về những gì thuộc Thần Khí.
Huớng đi của tính xác thịt là sự chết,
Còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an. (Rm 8, 5-6)
Thánh I-Nhã cho thấy Satan có chiến thuật riêng của nó để lôi kéo con người về phía nó theo từng bước một. Trước hết, nó tìm cách làm cho con người ham mê của cải, chạy theo các ham muốn tiện nghi vật chất, tìm kiếm tiền bạc. Từ nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, con người dễ dàng biến tiền bạc, của cải thành một ngẫu tượng mà mình tôn thờ, và để nó sai khiến mọi hoạt động của đời mình. Lúc ấy, con người trở thành nô lệ cho Thần Tài. Họ bất chấp mọi sự, kể cả những việc làm trái lương tâm, miễn là kiếm được càng nhiều tiền càng tốt. Đức Giêsu đã từng cảnh tỉnh con người trước nguy hiểm này :
Không ai có thể làm tôi hai chủ,
vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia,
hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ.
Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa
Vừa làm tôi tiền của được. (Mt 6, 24)
Từ lòng ham mê tiền bạc, của cải, Satan lôi kéo con người đến lòng ham thích danh vọng, tìm kiếm tiếng tăm, lời khen ngợi của người khác. Đó là lòng ham muốn danh vọng, muốn làm mọi sự để được nổi tiếng, để được mọi người biết đến và ca ngợi mình. Cơn cám dỗ này hết sức tinh vi vì nó len lỏi vào cả những công việc đạo đức thiêng liêng, thánh thiện nhất.
Đức Giêsu đã từng vạch trần cho các môn đệ thấy khuôn mặt đạo đức giả nơi việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay của những người tự coi mình là đạo đức. Họ làm mọi sự để người khác thấy, để được tiếng khen của người đời (x. Mt 6, 1-6. 16-18).
Từ lòng ham thích hư danh thế gian, Satan lôi kéo con người đến sự kiêu ngạo cả thể là nấc thang cuối cùng làm cho người ta trở nên giống như nó vậy. Lúc đó, con người lấy mình làm trung tâm, làm thước đo của mọi sự. Họ thế chỗ của Thiên Chúa và đề cao chính mình trên tất cả mọi sự. Từ sự kiêu ngạo, con người rơi vào đủ mọi thứ nết xấu khác.
Để đối lại con đường của Satan, Đức Giêsu cũng có chiến thuật riêng của Người. Trước hết, ngược lại với lòng ham mê của cải, tiền bạc, Đức Giêsu đề cao tinh thần nghèo khó, thái độ sống thanh thoát trước mọi cám dỗ vật chất. Ngưới cũng sai các môn đê cuả Người ra đi rao giảng trong tinh thần khó nghèo, phó thác :
Đừng sắm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng.
Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo,
Đừng đi giày hay cầm gậy.
Vì thợ thì đáng được nuôi ăn. (Mt 10, 9)
Từ thái độ siêu thoát trước các cám dỗ vật chất, Đức Giêsu đưa người ta đến chỗ sẵn sàng mau mắn đi vào con đường hẹp của sự từ bỏ, sẵn sàng đón nhận mọi lăng mạ, khinh chê và cả sự sỉ nhục. Thánh Phaolô đã từng trải qua kinh nghiệm này :
Tôi rất vui mừng tự hào vì những yếu đuối của tôi,
để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi.
Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối,
khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô.
Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh. (2Cr 12, 9-10)
Từ thái độ sẵn sàng chịu sỉ nhục vì danh Chúa, Đức Giêsu đưa người ta đến thái độ khiêm nhường, là mẹ phát sinh mọi nhân đức khác và cũng là thái độ làm cho người ta nên giống Người. Sống khiêm tốn là thái độ hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa trong mọi sự. Đồng thời, nhận ra tất cả mọi sự mình có là từ Thiên Chúa mà đến và biết sử dụng mọi sự Chúa ban để phục vụ Người và phục vụ anh chị em mình.
Chính Đức Giêsu đã nêu gương khiêm nhường phục vụ khi Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly:
Anh em gọi Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm.
Vì quả thật Thầy là Thầy là Chúa.
Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy
mà còn rửa chân cho anh em
thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.
Thầy đã nêu gương cho anh em
để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.
(Ga 13, 13-15)
Và Đức Giêsu cũng cho thấy lối sống khiêm hạ của Người khi đến trần gian :
Con Người đến không phải để được người ta phục vụ
nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống
làm giá chuộc muôn Người. (Mt 20, 28)
BÀI 13 NHẬN ĐỊNH TÌM THÁNH Ý CHÚA
Linh Thao để tự thắng mình
và tổ chức cuộc đời cho có trật tự
mà không quyết định
theo một tình cảm lệch lạc nào
(Thánh I-Nhã, Linh Thao số 21)
Tình cảm lệch lạc giống như những sợi tơ vương vấn. Chỉ cần một sợi tơ nhỏ bé cũng đủ giữ chân một cánh chim không cho nó tung cánh bay xa lên bầu trời bao la để đi đến những miền đất lạ.
Tình cảm lệch lạc chưa hẳn là tội lỗi nhưng là những gắn bó làm cho con người mất đi thái độ tự do để có thể thi hành thánh ý Chúa cách trọn vẹn trong cuộc đời mình. Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng cũng chỉ vì lòng gắn bó với của cải mà không thể tự do đáp trả lời mời gọi của Đức Giêsu để lên đường đi theo Người (x. Mc 10, 17-22)
Để có thể bước vào cuộc nhận định tìm ra thánh ý Chúa cho những thước phim sắp tới của đời mình, điều kiện tối quan trọng là tôi phải đạt đến thái độ tự do nội tâm. Đó là thái độ hoàn toàn bình tâm, không gắn bó với bất cứ một điều gì, củng chẳng nghiêng chiều về bên nào nào, để sẵn sàng đón nhận điều gì là tốt hơn cả theo thánh ý Chúa trên cuộc đời tôi. Nếu tôi đã có thái độ hoàn toàn sẵn sàng trước điều Chúa muốn, giờ đây tôi bước vào việc chọn lựa để khám phá ra điều Thiên Chúa muốn đối với tôi ngang qua những thúc đẩy mà tôi đã cảm nghiệm được trong những giờ cầu nguyện.
Có hai cách để làm việc lựa chọn :
- Cách thứ nhất, gồm 6 bước sau đây :
1. Điều sắp lựa chọn là gì ?
2. Giữ thái độ bình tâm
3. Xin Chúa đánh động, soi sáng
4. Suy xét, cân nhắc: nên - không nên
5. Quyết định điều phải chọn
6. Dâng quyết định chọn lựa lên Thiên Chúa
- Cách thứ hai, gồm 4 quy tắc :
1. Điều tôi sắp chọn lựa phải xuất phát từ lòng yêu mến Thiên Chúa.
2. Làm theo quy tắc tôi đặt cho người khác trong hoàn cảnh này.
3. Thái độ tôi muốn có vào giờ chết
4. Tình trạng của tôi trong ngày phán xét
Sau khi chọn lựa xong, tôi đến trước mặt Chúa để dâng lên Người quyết định chọn lựa của mình để xin Chúa chuẩn nhận.
Để chỉnh đốn lại cuộc sống, nên chú ý đến một vài gợi ý sau đây :
1. Tôi hay vấp phải những lỗi lầm nào? Tôi đã có những quyết định cụ thể nào để sửa chữa những lỗi lầm ấy ?
2. Có điều gì làm cho tôi đang vướng mắc hay không? Tôi đã đạt đến thái độ bình tâm để giải quyết vấn đề này trước mặt Chúa ra sao? Tôi có được bình an khi giải quyết như vậy không ?
3. Trong những ngày này, tôi có cảm thấy có điều gì Chúa muốn nói với tôi cách đặc biệt trong tương quan giữa Người với tôi không ?
4. Tôi có hướng sống cụ thể thế nào trong những thước phim sắp tới của đời tôi không ?
5. Có một câu Lời Chúa nào hay một tư tưởng nào trong những ngày cấu nguyện vừa qua mà tôi có thể chọn để nhắc tôi về những gì Chúa muốn tôi sống cho Người trong những ngày tháng sắp tới không ?
BÀI 14 NGƯỜI YÊU THƯƠNG HỌ ĐẾN CÙNG
(Ga 13, 1-17; Lc 22, 14-20)
Những thước phim cuối đời của Đức Giêsu đã mở ra với một khung cảnh thật cảm động. Trong bữa ăn tối sau hết với những người mình thương mến, Đức Giêsu đã quỳ xuống trước mặt các môn đệ để rửa chân cho các ông như một người tôi tớ phục vụ. Phản ứng mạnh mẽ của Phêrô cho thấy ông bị "sốc" trước cử chỉ hạ mình tột cùng của Đức Giêsu. Hãy lắng nghe những lời Đức Giêsu nói với ông và những lời ông thưa lại với Người.
Thước phim dừng lại ở một khuôn mặt. Đó là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người môn đệ sẽ dùng cái hôn để bán Thầy lấy 30 đồng bạc, giá trả cho một người nô lệ thời ấy! Hãy nhìn ngắm những cử chỉ yêu thương, ánh mắt trìu mến Người dành cho người môn đệ đang bị quyền lực bóng tối lèo lái! Người muốn tỉnh thức ông bằng những hành vi yêu thương cuối cùng để đem ông trở lại con đường ngay chính. Hãy nhìn đôi tay thánh thiện của Đấng Thánh đang rửa đôi chân dơ bẩn của người môn đệ phản bội. Người muốn tẩy sạch lương tâm ông như tẩy sạch lớp bụi trần đang bám vào khuôn mặt nguệch ngoạc của người môn đệ đã theo Chúa suốt ba năm nhưng lại đang tâm nối giáo cho giặc, trở thành khí cụ trong tay của quyền lực tối tăm. Hãy nhìn cách Chúa trao miếng bánh cho ông như một cử chỉ yêu thương dành cho một người thân thiết. Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó trời đã tối (Ga 13, 30). Lòng tham lam, lương tâm chai lì đã làm cho cuộc đời Giu-đa hoàn toàn chìm vào bóng tối! Trái tim Đức Giêsu rung động, xót xa :
Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người,
nhưng khốn cho người nào nộp Con Người :
thà người đó đừng sinh ra thì hơn! (Mt 26, 24)
Trong giây phút ấy, Đức Giêsu đã làm một cử chỉ diễn tả tình yêu thương tuyệt vời của Người dành cho nhân loại. Qua hình bánh rượu, Đức Giêsu vĩnh viễn để lại Mình và Máu Người làm lương thực thiêng liêng cho nhân loại :
Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết,
vì thịt tôi thật là của ăn,
và máu tôi thật là của uống.
Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy. (Ga 6, 54-56)
Thân mình Đức Giêsu sẽ chịu những thương tích đau đớn trong cuộc khổ nạn như tấm bánh bẻ ra trao ban sự sống cho nhân loại. Máu Người sẽ tuôn đổ chan hòa từ những vết thương, từ trái tim bị lưỡi đòng đâm thâu trên thập giá để tẩy xóa tội lỗi nhân gian.
"Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đền Thầy" (Lc 22, 19). Qua những lời ấy, Đức Giêsu thiết lập chức linh mục để từ đây hy tế cứu độ của Người dâng lên Chúa Cha để đền tội cho nhân loại sẽ mãi mãi được lập lại trong Giáo Hội như lời Người truyền dạy qua các thừa tác viên được Người tuyển chọn qua mọi thời đại. Qua việc cử hành hy tế tạ ơn mỗi ngày, Giáo Hội sẽ mãi mãi loan truyền cái chết của Người và tuyên xưng việc Người sống lại như một bằng chứng của tình yêu đang khi chờ đợi Người lại đến trong vinh quang.
Sống mầu nhiệm Thánh Thể hôm nay, chúng ta cũng trở nên những tấm bánh được bẻ ra để trao ban sự sống cho tha nhân qua những lao nhọc, vất vả, hy sinh, đau khổ trong cuộc sống phục vụ hàng ngày để nên một với Đức Giêsu trong hy tế cứu độ của Người. Cùng với Đức Giêsu, chúng ta cũng được biến đổi trong cuộc-sống-cho-tha-nhân theo cùng một cách thức mà Người đã phục vụ chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con một tâm hồn
theo hình ảnh tấm Bánh Thánh.
Một tâm hồn trong trắng,
cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn
để luôn xứng đáng với Chúa.
Một tâm hồn khiêm hạ tìm chiếm chỗ nhỏ bé,
nhưng luôn luôn muốn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Một tâm hồn đơn sơ,
không biết đến những phức tạp của ích kỷ,
và tìm hiến dâng mà không đòi lại.
Một tâm hồn lặng lẽ,
hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình
không được người khác biết đến.
Một tâm hồn nghèo khó,
chỉ làm giàu cho mình nhờ chiếm được chính Chúa.
Một tâm hồn luôn hướng về tha nhân,
quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hợp với Chúa,
và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.
(Cha Galot)
BÀI 15 TÌNH YÊU ĐÓN NHẬN KHỔ ĐAU (Lc 22, 39-44)
Rời phòng Tiệc Ly, những thước phim đưa chúng ta theo chân Đức Giêsu vào Vườn Dầu, nơi Người quen đến cầu nguyện với các môn đệ. Tại đây, Đức Giêsu trải qua một cơn hấp hối khi thấy trước những khổ đau Người sắp gánh chịu trong cuộc thương khó : những ánh mắt thù hận, những lời vu khống độc ác, những tiếng cười đắc thắng của kẻ thù, những lời mỉa mai hiểm độc, những ngọn roi tàn ác, những chiếc gai nhọn xuyên thâu buốt óc, cây thập giá sù sì đè nặng trên vai, những chiếc đinh sắt xuyên thủng chân tay, ghim chặt thân xác vào cây gỗ, nỗi xấu hổ vì bị lột trần... Ba mươi ba tuổi - tuổi đời đang tràn đầy nhựa sống mà phải chết! Trong cơn sợ hãi tột cùng của bản tính nhân loại, Người tha thiết xin Cha cất đi chén đắng trước mặt, nhưng vẫn hoàn toàn tùng phục và đón nhận ý định của Cha :
Lạy Cha, nếu Cha muốn,
xin tha cho con khỏi uống chén này.
Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con,
mà xin theo ý Cha. (Lc 22, 42)
Cô đơn, hụt hẫng, sợ hãi, đuối sức... Đức Giêsu lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất. (Lc 22, 44)
Ôi tình yêu nhiệm mầu của Đấng đến gánh thay tội trần gian. Sức nặng của tội lỗi nhân loại giờ đây đè nặng lên tâm hồn Người. Kể từ tội của người đầu tiên cho đến kẻ cuối cùng trong lịch sử loài người. Trong đó, có tội của tôi. Những tội tôi phạm từ những ngày có trí khôn cho đến tội rốt hết trong đời tôi. Tất cả đều góp phần vào sức nặng khủng khiếp kia làm tấm thân Người như oằn xuống, trái tim như bị bóp nghẹt muốn vỡ tung...
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này
nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (Ga 21, 27)
Trải qua nỗi khổ đau với trái tim tan nát, lẻ loi... nhưng Đức Giêsu không mất lòng tin yêu phó thác. Người vẫn nhận ra tình yêu Cha hằng nâng đỡ ủi an Người trong những giờ phút khó khăn nhất:
Này đến giờ - và giờ ấy đã đến rồi -
Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả
Và để Thầy cô độc một mình.
Nhưng Thầy không cô độc đâu,
Vì Chúa Cha ở với Thầy. (Ga 17, 32)
Môn đẹ không hơn Thầy. Tôi tớ không hơn chủ. Cuộc đời mỗi người môn đệ Đức Giêsu cũng sẽ trải qua những phút giây đau buồn và thử thách. Hãy nhớ lại những tháng ngày đen tối nhất tôi đã trải qua trong cuộc đời và cách thức tôi đã sống những giây phút ấy thế nào. Tin vào tình yêu, nỗi đau thương sẽ qua đi và niềm vui sẽ lại đến :
Thật, Thầy bảo thật anh em :
anh em sẽ khóc lóc và than van,
còn thế gian sẽ vui mừng.
Anh em sẽ lo buồn
nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.
(Ga 16, 20)
Cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu đã được Người ví như giờ vượt cạn của người phụ nữ. Những đau đớn phải chịu trở thành có ý nghĩa khi nó trở thành dấu chỉ của một tình yêu, nhờ đó mà một sự sống mới sinh ra trên thế gian. Đau khổ và sự sống thường đi liền với nhau. Đức Giêsu cũng phải trải qua những thống khổ và đau đớn như thế để sinh ra cho Chúa Cha một nhân loại mới được cứu chuộc :
Khi sinh con, người đàn bà lo buồn
vì đến giờ của mình ;
nhưng sinh con rồi, thì không nhớ đến cơn gian nan nữa,
bởi được chan chứa niềm vui
vì một con người đã sinh ra trong thế gian.
(Ga 16, 21)
BÀI 16 CON ĐƯỜNG TÌNH YÊU (Mt 26, 47 - 27, 31)
Vườn Dầu trong đêm khuya thanh vắng bỗng rực sáng với những ánh đuốc của đoàn người lăm lăm gậy gộc, gươm giáo tiến về phía Đức Giêsu. Dẫn đầu là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, người môn đệ phản bội. Đức Giêsu biết giờ của quyền lực tối tăm đã đến, nhưng đó cũng là giờ Người được Chúa Cha tôn vinh. Người sẽ được đưa lên cao khỏi đất để kéo mọi người lên với Người. Như hạt lúa được Chúa Cha gieo vào lòng đất, Đức Giêsu vui lòng chấp nhận cái chết để trổ sinh cho Chúa Cha một mùa lúa mới dồi dào bông hạt :
Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !
Thật, Thầy bảo thật anh em,
Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi,
thì nó vẫn trơ trụi một mình ;
còn nếu chết đi,
nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga 12, 23-24)
Đức Giêsu bắt đầu bước vào con đường thương khó. Con đường từ Vườn Dầu đến Núi Sọ chính là con đường tình yêu mà Người sẽ đi qua. Chúng ta hãy cùng bước theo Đấng lòng mình yêu mến trên con đường đau thương này với tất cả trái tim của mình. Mỗi dấu vết Đức Giêsu để lại trên lối bước của Ngài là mỗi dấu vết tình yêu mà chúng ta được mời gọi để khám phá. Đó là một tình yêu vô cùng lớn lao đối với Chúa Cha và một lòng mến thương vô bờ bến đối với từng người chúng ta.
Hãy cảm nhận nỗi đớn đau trên thân xác Chúa nơi các khổ hình Người gánh chịu. Hãy cảm thấy sự cố gắng trên mỗi bước đi khó nhọc của Người trên đường thánh giá. Hãy cùng Người cảm nghiệm niềm đau sâu xé nơi trái tim sâu kín của Người. Hãy cảm nhận thật sâu xa rằng Người ước muốn chịu tất cả những đau đớn nơi thân xác và trong trái tim Người là vì tôi và cho tôi.
Đức Giêsu đã không đến giữa nhân loại để giải thích về sự đau khổ nhưng Người đón lấy mọi khổ đau vào thân xác của Người. Từ đây, không ai còn có thể than trách rằng : "Ông Trời xuống đây mà coi tui phải chịu khổ biết bao nhiêu !" Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa không còn xa lạ với nỗi đau của kiếp người. Từ đây, Người hiểu và cảm thông với tất vả những ai bị vu khống, những ai chịu oan ức, bị đòn vọt, bị hành hạ, bị đối xử bất công, những ai bị phản bội, bị bỏ rơi, bị sỉ nhục, bị lên án vô cớ, bị giết cách vô tội.
Đức Giêsu không phải là một vị Vua đến an ủi những thần dân đau khổ để thêm cho họ sức mạnh chịu đựng mọi nỗi lầm than của phận người rồi ra đi, trở về với hạnh phúc của riêng mình trong cung vàng điện ngọc. Người đã nhận lấy mọi khổ đau của cuộc sống làm người để làm cho những đau khổ ấy được tràn đầy sự hiện diện của Người, để biến những đau khổ ấy thành ngôn ngữ diễn tả tình yêu, và làm cho những đau khổ ấy sinh hoa kết trái thiêng liêng nơi các tâm hồn.
Chúng ta hãy theo chân Đức Giêsu trên con đường thương đau của Người, để cùng cảm thông, cùng rung cảm với những tâm tình sâu xa đang diễn ra trong trái tim của Người.
Từ Vườn Dầu, Đức Giêsu bị bắt đem về dinh vị thượng tế để tra hỏi và buộc tội trước toàn thể Thượng Hội Đồng ngay ban đêm. Trong khi đó, các môn đệ bỏ Người chạy trốn hết. Phêrô theo Người xa xa. Đức Giêsu bị những người lính trong dinh vị thương tế bịt mắt, khạc nhổ, đánh đấm và tát túi bụi. Lúc đó, Phêrô chối Người ba lần ngay trong sân nhà vị thượng tế.
Đến sáng, Người bị trói lại và bị giải sang dinh Phi-la-tô. Tại đây, dân chúng la ó xin tha Ba-ra-ba và đòi đóng đinh Người vào thập giá. Đức Giêsu chịu đánh đòn, rồi bị những người lính hành hạ. Chúng đội vòng gai lên đầu Người và nhạo báng, mỉa mai, chế giễu, khạc nhổ, lấy cây sậy đập lên đầu Người, mặc cho Người chiếc áo choàng đỏ, rồi lại lột ra, cho Người mặc lại áo của mình. Sau đó, chúng điệu Người đi đóng đinh thập giá.
Từ dinh Phi-la-tô, những người lính điệu Đức Giêsu đi đóng đinh thập giá. Nhiều lần Người ngã gục trên đường lên Núi Sọ vì chẳng còn sức để cất bước. Ông Si-mon người xứ Ky-rê-nê bị bắt vác đỡ thập giá cho Người. Đức Giêsu gượng từng bước chân hướng về đỉnh cao của đồi Gôn-gô-tha, nơi Người sẽ hoàn tất hy lễ hiến tế, dâng mình cho Chúa Cha để đền thay tội lỗi nhân loại.
Bước theo Đức Giêsu trên đường thánh giá, chúng ta hãy cùng chia sẻ và thông hiệp với Đức Giêsu trong những tâm tình đang diễn ra nơi trái tim yêu thương của Người. Người đã từng nói với ông Ni-cô-đê-mô :
Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,
Để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (Ga 3, 14)
Đức Giêsu biết Người sắp được giương cao lên giữa trời và đất để trở thành chiếc thang nối Đất với Trời (x. Ga 1, 51), để đem lại ơn giao hòa giữa con người với Thiên Chúa, để sức mạnh của tội lỗi từ đây sẽ bị hủy diệt vĩnh viễn. Đỉnh cao của Đồi Can-vê là đỉnh cao của tình yêu, nơi Thiên Chúa giãi bày trọn vẹn tình yêu của Người cho nhân loại khi trao ban người Con yêu quý nhất của Người cho chúng ta để chúng ta được sống :
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được biểu lộ thế này :
Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
Tình yêu cốt ở điểm này :
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta
và sai Con của Người
đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. (1Ga 4, 9-10)
Thập giá đã được dựng lên giữa trời và đất. Thân xác của người Con yêu dấu đã được treo lên làm hy lễ nối kết đất với trời. Đức Giêsu vừa là linh mục, vừa là của lễ, vừa là bàn thờ. Trên bàn thờ thập giá, Người là vị linh mục thượng phẩm tiến dâng hy lễ cứu độ là chính thân mình Người lên cho Chúa Cha làm của lễ đền thay tội lỗi của cả nhân loại :
Người đã vào cung thánh
không phải với máu các con dê, con bò,
nhưng với chính máu của mình,
Người chỉ vào một lần thôi,
và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta.
(Dt 9, 12)
Từ đỉnh cao yêu thương của thập giá, giữa muôn nỗi khổ đau, người mục tử nhân lành vẫn đi tìm con chiên lạc. Nhận ra sự vô tội của Người và tội lỗi của chính mình, một trong hai kẻ gian phi giục lòng ăn năn sám hối và cất tiếng kêu xin Người :
Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông,
xin nhớ đến tôi ! (Lc 23, 42)
Lời cầu xin chân thành từ trái tim của kẻ nhận ra sự lầm lạc trong đời mình đã được Đức Giêsu đón nhận. Người nói với anh :
Tôi bảo thật anh, hôm nay,
anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. (Lc 23, 43)
Giữa những đớn đau thân xác, Đức Giêsu còn gánh chịu nỗi thống khổ tinh thần. Dường như Satan đã trở lại trên môi miệng những kẻ qua đường. Khi nhìn thấy Người, họ liền lên tiếng nhục mạ và thách thức :
Mi là kẻ phá được Đền Thờ,
và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!
Nếu mi là Con Thiên Chúa,
thì xuống khỏi thập giá xem nào ! (Mt 27, 39-40)
Các thượng tế, kinh sư chắc hẳn là những kẻ vui thích nhất, hả hê nhất khi thấy kẻ mình không ưa, kẻ đã từng thẳng thắn phê bình, chỉ trích lối sống của họ, giờ đây đang phải chịu muôn nỗi khổ đau. Họ lên tiếng châm chích, chế giễu Người bằng đủ mọi lời lẽ hiểm độc :
Hắn cứu được thiên hạ mà chẳng cứu nổi mình !
Ông Ki-tô vua Ít-ra-en ấy,
cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi,
để chúng ta thấy và tin. (Mc 15, 31)
Đức Giêsu vẫn thinh lặng đón nhận mọi sỉ nhục, mọi lời cười nhạo khinh chê, bị coi như một kẻ điên rồ, ngu dại... Giữa những đau thương ấy, Đức Giêsu hướng về Chúa Cha và cầu nguyện như một vị trạng sư bênh đỡ cho những kẻ có tội :
Lạy Cha, xin tha cho họ,
vì họ không biết việc họ làm ! (Lc 23, 34)
Tha thứ cho kẻ thù, làm ơn cho những kẻ ngược đãi mình, cầu nguyện cho những kẻ bách hại mình, thật khó biết bao đối với bản tính tự nhiên của con người. Nguyên việc cố gắng sống với những người mình không ưa, nhìn nhận những thành công của họ, nhìn nhận họ giỏi giang hơn mình đã là một điều không mấy dễ dàng, phương chi là yêu thương kẻ thù, yêu thương những kẻ đã nhiều lần nói xấu, gièm pha, tìm đủ mọi cách triệt hạ uy tín, xúc phạm đến thanh danh của mình. Thế nhưng, đó là tột đỉnh của tình yêu Kitô giáo, là đặc điểm của người môn đệ Đức Ki-tô.
Thánh Phaolô đã phác họa chân dung của người môn đệ Đức Kitô qua những nét tuyệt vời của lòng yêu mến :
Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không nóng giận, không nuôi hận thù,
không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. (1Cr 13, 4-7)
Nhìn lên Đức Giêsu và chiêm ngắm cách thức Người trải qua cuộc thương khó, tôi có thể nhận ra những lời thánh Phaolô ca tụng đức mến chính là một bức họa thật rõ nét về trái tim yêu thương của Người, một trái tim không hề gợn lên chút nào cay đắng, nhưng là bao dung và tha thứ tất cả.
Sau khi nếm xong chút giấm nơi miếng bọt biển đưa lên ở đầu nhành hương thảo, Đức Giêsu thốt lên lời sau hết :
“Thế là đã hoàn tất !” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí. (Ga 19, 29-30)
Vâng, chén đắng Cha trao cho, Người đã vui lòng uống cạn đến giọt cuối cùng. Thánh ý Cha đã được Người thực hiện vuông tròn đến giờ phút sau hết. Lễ vật toàn thiêu dâng lên Cha giờ đây đã trọn vẹn. Người đã hát lên cung bậc cao nhất của bài ca Tình Yêu. Tình yêu trọn vẹn dành cho Cha, và tình yêu hải hà dành cho nhân loại tội lỗi.
Cùng với Mẹ Maria, với người môn đệ được Đức Giêsu thương mến, với Maria Mác-đa-la, chúng ta hãy đến chiêm ngắm Trái Tim Yêu Thương của một Tình Yêu bị tội lỗi đâm thâu. Trái Tim ấy đang rộng mở để cho giọt nước và giọt máu cuối cùng chảy ra như bảo chứng vĩnh viễn của một tình yêu trao ban đến cùng !
Đức Giêsu đã đón nhận mọi khổ đau nơi thân xác, đã gánh chịu mọi ê chề nhục nhã. Người đã đi đến cùng trong thân phận thương đau của kiếp người. Người đến giữa trần gian để rao giảng tình yêu nhưng lại bị con người từ khước, lên án. Người đến để thiết lập tình huynh đệ trong thế giới loài người, nhưng đã bị con người thẳng tay loại trừ .
Cái chết của Đức Giêsu vừa là một sự kiện lịch sử, vừa là một biến cố của niềm tin. Dưới cái nhìn lịch sử, cái chết thương đau của Đức Giêsu trên thập giá là một hành động tội ác của những người Do Thái và Rôma cách đây hai ngàn năm. Giuđa đã nộp Người. Phêrô đã chối bỏ Người. Phi-la-tô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của mình. Những người Do Thái cuồng tín đã kêu gào đòi đóng đinh Người vào thập giá. Những người lính Rôma đã đánh đập, hành hạ và sỉ nhục Người. Sau cùng, họ đóng đinh treo Người lên thập giá.
Dưới cái nhìn của niềm tin, cái chết của Đức Giêsu là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Thiên Chúa, Đấng vô tội lại phải trải qua một thân phận đớn đau như thế. Mầu nhiệm, vì một cách nào đó, mỗi người chúng ta cũng cảm thấy chính mình đã tham dự thực sự vào việc đóng đinh Đức Giêsu.
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng rằng:
Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi !
Thánh Phêrô cũng nói :
Tội lỗi của chúng ta,
chính Người đã mang vào thân thể
mà đưa lên cây thập giá. (1Pr 2, 24)
Vâng, chính do tội lỗi của chúng ta mà mỗi người chúng ta đã góp phần vào việc đóng đinh Người vào thập giá. Tội lỗi của chúng ta, cho dầu cách xa hai ngàn năm, vẫn là một lời chối bỏ, một tiếng reo hò đòi đóng đinh, một sự lăng nhục, một chiếc gai nhọn, một chiếc đinh sắt cắm sâu vào thân thể Đức Giêsu. Mỗi khi phạm tội là lúc chúng ta đóng đinh Người vào thập giá một lần nữa.
Trước đó nhiều thế kỷ, ngôn sứ Isaia đã loan báo trước ý nghĩa những đau khổ mà người Tôi Trung của Thiên Chúa sẽ gánh chịu :
Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta,
bị tan nát vì sự gian ác chúng ta.
Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an,
và bởi thương tích Người mà chúng ta được chữa lành.
(Is 53, 5)
Cái chết của Đức Giêsu là dấu chỉ của một tình yêu thông hiệp. Người vui lòng nhận mọi khổ đau và thử thách trong phận người để có thể gần gũi và cảm thông với những ai đang gánh chịu mọi nỗi đau trong cuộc sống làm người của mình.
Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em,
để lại một gương mẫu
cho anh em dõi bước theo Người. (1Pr 2, 21)
Chính nhờ cái chết của Chúa Kitô mà thập giá không còn là hình ảnh của sự thất bại. Tình yêu của Đức Kitô đã biến đổi thập giá trở thành dấu hiệu của sự chiến thắng. Từ đây, thập giá không còn là một khí cụ độc ác mà con người đã nghĩ ra để hành hạ người khác. Thập giá đã trở nên biểu tượng của Tình Yêu: tình yêu vâng phục của Đức Giêsu đối với Chúa Cha và tình yêu dâng hiến của Người dành cho nhân loại tội lỗi :
Không có tình thương nào cao cả hơn
tình thương của người đã hy sinh tính mạng
vì bạn hữu của mình. (Ga 15, 13)
Nhờ tình yêu của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên Thánh Giá. Đau khổ và thất bại của Người trở nên con đường dẫn đến nguồn ơn cúu độ cho nhân loại. Nhục nhã, đớn đau của cái chết trần trụi đau thương của Đức Giêsu giờ đây biến thành nơi chiếu tỏa ánh vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa. Thập giá đã trở thành nơi giãi bày sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế, thánh Phaolô nói :
Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì
ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Nhờ thập giá Người,
thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi
và tôi đối với thế gian. (Gl 6, 14)
Khi suy tôn Thánh Giá, người Kitô hữu không suy tôn sự đau khổ nhưng suy tôn mầu nhiệm tình yêu mà Chúa Kitô đã giãi bày cho nhân loại qua những đau khổ ấy. Khi thờ lạy Thánh Giá, người Kitô hữu không thờ lạy một nhục hình của con người nhưng thờ lạy mầu nhiệm cứu chuộc cao cả mà Chúa Kitô đã thực hiện khi hiến thân chịu chết trên thập giá để đền thay tội lỗi chúng ta.
Việc suy tôn và thờ lạy Thánh Giá Chúa Kitô giúp đem lại cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm để đối diện với những nghịch cảnh và thử thách, những đau khổ và nước mắt trong cuộc sống làm người. Nhờ Chúa Kitô, nơi những khổ đau hôm nay, chúng ta đã nhìn thấy loé lên ánh vinh quang rạng ngời của chiến thắng mai sau :
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ :
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng :
"Đức Giê-su Ki-tô là Chúa." (Pl 2, 9-11)
BÀI 17 CHÚA PHỤC SINH Ở CÙNG CHÚNG TA (Lc 24, 13-35)
Đức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết,
mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.
Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết,
thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.
(1Cr 15, 20-21)
Đức Giêsu đã sống lại! Halleluia! Halleluia!
Chúng ta hãy chia sẻ niềm vui mãnh liệt với Chúa Kitô Phục Sinh vì Người đã hoàn toàn đánh bại thần chết và khai đường mở lối cho nhân loại bước vào cuộc sống mới tràn ngập ánh vinh quang:
Tử thần hỡi! Từ đây người đã chết
Lúc Con Người ra khỏi mộ hiên ngang.
Chúa phục sinh khi mở cửa thiên đàng
Đã ra lệnh giam ngươi vào ngục tối.
(Thánh Thi Kinh Chiều Lễ Phục Sinh)
Thánh I-Nhã nhắc chúng ta chú ý hai điều khi chiêm niệm mầu nhiệm Phục Sinh :
1. Trong suốt cuộc thương khó, bản tính Thiên Chúa nơi Đức Giêsu có vẻ như ẩn giấu thì giờ đây tỏ lộ ra cách lạ lùng trong mầu nhiệm Phục Sinh.
2. Đức Kitô Phục Sinh đến với các bạn hữu Người đem lại cho họ niềm an ủi, như cách các người bạn vẫn an ủi nhau.
Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm vị Mục Tử Phục Sinh nhân lành đang rảo bước theo hai con chiên lạc trên đường về Em-mau. Hai người bạn trẻ lê từng bước chân nặng nề đầy buồn phiền hướng về quê cũ. Bầu trời tương lai sụp đổ. Niềm hy vọng tiêu tan. Họ chán nản thất vọng. Họ muốn quay về lối sống cũ trước đây để quên đi một giấc mơ không thành sự. Họ muốn sống như chưa từng biết Người, chưa từng gặp gỡ Người. Lòng họ băn khoăn ray rứt khôn nguôi, tiếc nuối những ngày tháng huy hoàng đã qua. Giờ đây, tất cả không còn nữa. Người mà họ đặt mọi niềm hy vọng giờ đây đã chết. Một cái chết thảm thương ô nhục. Họ không hiểu vì sao Đức Giêsu, Thầy của họ, lại có thể bị người ta lên án và giết chết dễ dàng như thế. Người là một ngôn sứ có uy quyền trong lời nói, việc làm trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Họ đã hy vọng Người sẽ cứu dân tộc, cứu đất nước của họ ra khỏi cảnh bị đô hộ... Thế mà Người đã bị giết chết. Vì sao Người lại bị treo lên cây gỗ như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ như thế ? Tại sao Thiên Chúa không cứu giúp Người ? Lòng họ rối bời. Trái tim họ tan nát. Đầu óc họ đầy tăm tối trước những câu hỏi không có lời giải đáp.
Người bộ hành lạ mặt tiến bước đến bên họ và cất tiếng gợi chuyện khi nhận ra vẻ buồn thảm trên khuôn mặt họ. Chúng ta hãy lắng nghe cuộc trò chuyện của người bộ hành ấy với hai người môn đệ. Hãy chú ý đến cách người bộ hành dẫn dắt họ đi vào vấn đề đang làm cho lòng họ buồn phiền, thất vọng... để từ đó, đem lại cho họ ánh sáng :
- Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?
- Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay...
- Chuyện gì vậy ?
- Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá.Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.
- Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! Nào Đấng Ki-tô chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?
Hãy nhìn xem cách Đức Giêsu Phục Sinh đi vào nỗi lòng chúng ta trong những ngày tĩnh tâm này. Người khơi dậy nơi lòng ta mọi vấn đề đang làm ta đau buồn, lo lắng, thất vọng. Và Người dùng chính lời Người để đem lại ánh sáng khi vén mở cho ta ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ trong đời mình. Đau khổ là nhịp cầu phải qua để đi đến bờ bên kia là vinh quang bất diệt. Đau khổ không phải là chuyện rủi ro, xui xẻo hay do số phận hẩm hiu, đen đủi. Đau khổ luôn có chỗ đứng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Lời Chúa là ánh sáng dịu êm giúp chúng ta thấy rõ ý nghĩa của những thước phim đau thương mà chúng ta đã trải qua trong cuộc đời. Lòng ta như ấm dần lên. Nỗi đau dịu đi. Tình yêu của Đức Kitô mục tử băng bó và chữa lành những vết thương sâu kín nơi lòng ta.
Như hai môn đệ Em-mau xưa, chúng ta muốn Người lưu lại mãi với chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc đời :
"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều,
và ngày sắp tàn."
Bấy giờ, Người mới vào và ở lại với họ.
Khi đồng bàn với họ,
Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng
và bẻ ra trao cho họ.
Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người,
nhưng Người lại biến mất. (Lc 24, 29)
Kinh nghiệm của hai môn đệ Em-mau cũng là kinh nghiệm của chúng ta. Trong những phút giây tăm tối của cuộc đời, lúc ta tưởng Người vắng mặt, thì Người lại ở kề bên để nâng đỡ ủi an và đồng hành với chúng ta. Lúc ta vừa nhận ra Người, thì Người lại biến đi. Thật ra, Người không lìa bỏ chúng ta, nhưng là để hiện diện một cách sâu xa hơn trong chính cuộc đời ta, trong tâm hồn ta.
Hôm nay, Chúa Phục Sinh vẫn đến với ta qua từng biến cố vui buồn của cuộc sống, qua từng con người mà ta tình cờ gặp gỡ trong cuộc đời phục vụ. Vào những lúc chúng ta không ngờ, thì Người đến. Và Người vẫn hiện diện với ta, ngay cả khi ta không còn nhìn thấy Người. Qua đó, Người vẫn nhóm lên trong lòng ta ngọn lửa tin yêu, gợi lên trong tâm hồn những tia sáng tràn đầy hy vọng. Người vẫn đến từng ngày qua từng thánh lễ để đích thân dùng Lời Ngài sưởi ấm lòng ta và bẻ bánh trao cho ta, giúp ta có sức mạnh tiếp tục cuộc hành trình vẫn đang mở ra phía trước.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
Con cần Chúa để nâng đỡ con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
Con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn. (Cha Piô)
ĐỨC KITÔ VINH HIỂN
Đức Kitô muôn trùng vinh hiển
Nguồn sống vô hình của vũ trụ bao la,
Trung tâm rực rỡ của trăm triệu sơn hà,
Điểm hội tụ của muôn tinh vạn thể.
Trán của Ngài, vừng Thái Dương diễm lệ,
Đôi mắt Ngài, suối ngọc chiếu càn khôn,
Từ bước chân, cuồn cuộn ánh trăng vàng,
Tay nắm gọn cả muời phương tinh tú.
Ngực bao la, ẵm ôm toàn vũ trụ,
Nắm muôn loài trong một khối hoàn châu.
Nguồn thác tuôn dòng ánh sáng nhiệm mầu,
Ngài, Đấng tiên thiên và tuyệt cùng tối hậu.
Ngài, Đấng sinh ra, chết khổ đau rồi sống lại,
Để vãn hồi trong Tổng Thể nguy nga,
Mọi vinh quang, trong dòng lệ hải hà,
Suối hoan lạc, niềm thương và nỗi khổ.
Đức Kitô, bến đậu của con thuyền lịch sử,
Điểm dừng chân của sóng gió thời gian,
Dưới chân Ngài, lòng con khao khát reo vang:
Chúa là Thiên Chúa của con,
hôm nay và ngày mai, bất tận.
(Mai Thành - Phỏng dịch từ Le Christ glorieux
của cha Teilhard de Chardin, S.J.)
BÀI 18 RA KHƠI (Ga 21, 1-17)
Sau ngày Đức Giêsu Phục Sinh, các tông đồ không biết mình sẽ phải tiếp tục làm gì nên các ông quay lại nghề cũ: đi đánh cá. Phêrô là người khởi xướng: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông khác đồng thanh tán thành: "Chúng tôi cùng đi với anh." Tất cả bảy người lên chiếc thuyền ra khơi thả lưới đánh cá. Đó là hình ảnh của một cộng đoàn sứ vụ. Mọi người hiệp tâm hiệp lực với nhau để thi hành một sứ mạng chung. Con thuyền do Phêrô lèo lái rời bến mang theo những trái tim được liên kết với nhau trong cùng một lý tưởng phục vụ. Đó cũng là hình ảnh của Giáo Hội đang trên đường thực thi sứ vụ của mình: một cộng đoàn của những con người được sai đi và được liên kết với nhau trong sứ vụ.
Chiếc thuyền tiến ra khơi. Nhưng đêm ấy, họ không bắt được gì cả. Biết bao lần lao nhọc vất vả trong sứ vụ, nhưng chúng ta vẫn trở về trắng tay. Một lý do thật đơn giản: trên con thuyền ấy không có sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. Khi không để cho Chúa hướng dẫn trong sứ vụ, cho dù công việc ta làm có thành công bề ngoài đi nữa, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái thiêng liêng mấy nơi các tâm hồn vì đó không phải là việc Chúa muốn hay cách Chúa muốn chúng ta thực hiện.
Đến sáng, khi nghe theo lời hướng dẫn của một người lạ mặt đứng trên bờ biển và thả lưới phíabên phải thuyền, họ đã bắt được một mẻ lưới thật nhiều cá. Mẻ cá này làm cho người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nhớ lại mẻ cá lạ lùng mà họ đã bắt được ba năm trước đó, khi nghe theo lời Đức Giêsu chỉ dẫn mà thả lưới. Không còn nghi ngờ gì, ngưới môn đệ ấy nói cho Phêrô biết: "Chúa đó!" Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đến với ta ngay giữa những vất vả mệt nhọc của công việc phục vụ. Chỉ cần lắng nghe tiếng Người hướng dẫn, chỉ bảo trong những giây phút cầu nguyện là ta có thể bình an thực hiện công việc theo cách thức Người muốn trong giây phút đó và đem lại kết quả thiêng liêng cho cuộc sống của chính mình và của tha nhân.
Khi Phêrô và các bạn kéo lưới lên bờ, các ông thấy có sẵn cá và than hồng đã được đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu Phục Sinh đã chu đáo dọn bữa cho các ông sau một đêm vất vả lao nhọc. Hãy cảm nhận tình yêu thương chăm sóc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ Người. Chúa Phục Sinh hôm nay vẫn dọn cho ta những bữa ăn như thế để dưỡng nuôi chúng ta như mỗi ngày trên đường sứ vụ. Từ bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, chúng ta đón nhận sức thiêng Người ban để nối kết chúng ta nên một với Người trong tình yêu thương và nên một với nhau trong tình huynh đệ để thực hiện sứ vụ tông đồ chung của cộng đoàn.
Tuy đã có sẵn cá nướng trên than hồng, nhưng Đức Giêsu vẫn bảo các ông đem một ít cá vừa bắt được đến cho Người. Chúng ta có nhận ra rằng những gì mà Chúa xin chúng ta trao lại cho Người, đó chính là những ân huệ mà Người đã ban tặng nhưng không vào tay ta như những con cá mà các tông đồ bắt được nhờ quyền năng của Người. Biết bao thành quả tông đồ mà chúng ta gặt hái được chính là ơn huệ Chúa thực hiện qua con người chúng ta. Chỉ cần một chút góp phần của mình, có khi thật nhỏ bé, Chúa có thể làm cho mọi sự sinh hoa kết trái thật mỹ mãn nhờ quyền năng của Người.
Giờ đây, chúng ta hãy chiêm ngắm cuộc gặp gỡ đặc biệt của Chúa Phục Sinh với Phêrô. Đức Giêsu hỏi Phêrô về mức độ tình yêu mà ông dành cho Người. Ba lần, Phêrô khiêm tốn tuyên xưng tình yêu của mình vào Người là ba lần Chúa Phục Sinh trao cho ông sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Người. Để trao sứ vụ cho ta, Chúa không hỏi bằng cấp, không duyệt xét khả năng chuyên môn nhưng là hỏi xem ta yêu mến và gắn bó với Người tới mức độ nào. "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy!" Chỉ có tình yêu gắn bó với Đức Giêsu mới làm cho người môn đệ dám sống chết với sứ vụ Chúa trao. "Hãy chăm sóc chiên của Thầy."
Vì tình yêu gắn bó với Chúa Phục Sinh mà hôm nay chúng ta tiếp tục được Người tin tưởng sai đi vào giữa lòng thế giới, chia sẻ sứ vụ mục tử với Người để chăm sóc đoàn chiên Người còn đang rải rác khắp nơi.
BÀI 19 TÌNH YÊU CHÚA VÀ LỜI ĐÁP TRẢ
Chúng ta sắp kết thúc cuộc tĩnh tâm. Hành trình thiêng liêng mà chúng ta vừa đi qua sẽ vẫn được tiếp tục trong những ngày tháng phục vụ sắp tới. Chúng ta có thể vẫn trở về với những khung cảnh sống cũ, gặp lại những khuôn mặt cũ, làm lại những công việc cũ, nhưng với một tâm hồn đã được tình yêu Chúa Kitô đổi mới.
Để giữ mãi sức mạnh thiêng liêng cho cuộc hành trình mới trước mắt, chúng ta hãy nhìn lại hành trình thiêng liêng vừa đi qua để nhận ra những hồng ân mà chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa trong những ngày tĩnh tâm này. Đó chính là tình yêu Người dành cho từng người chúng ta. Và chúng ta hãy suy xét cách chúng ta sẽ đáp trả tình yêu ấy trong cuộc sống cụ thể của mình.
Có hai điều thánh I-Nhã lưu ý chúng ta :
1. Tình yêu hệ tại ở hành động hơn là lời nói. Tình yêu được diễn tả qua việc trao ban chính mình cho tha nhân.
2. Tình yêu luôn luôn là một tiến trình trao đổi hai chiều: biết cho đi và biết nhận lãnh. Những người thương yêu nhau trao ban chính mình cho nhau.
Trước hết, chúng ta hãy nhớ lại những hồng ân tình yêu mà chúng ta vừa lãnh nhận trong những ngày tĩnh tâm này. Chúng ta nhận ra những cách thức rất đặc biệt mà Chúa đã dùng để tỏ lộ tình yêu của Người cho mỗi người chúng ta. Chúng ta khám phá ra những nẻo đường Chúa dẫn dắt chúng ta đến với Người. Bao nhiêu ân huệ ta đã nhận lãnh: từ ơn tạo dựng đến ơn cứu chuộc, từ hồng ân đức tin đến ơn tha thứ tội lỗi, từ hồng ân làm con cái Chúa đến ơn được tuyển chọn trong đời thánh hiến. Trên hết, chúng ta đón nhận ân ban lớn nhất là chính Đức Giêsu. Người chính là món quà quý giá nhất mà Chúa Cha ban tặng cho từng người chúng ta. Trong tình bạn hữu thân thiết với Đức Giêsu, chúng ta được Chúa tuyển chọn và được sai đi chia sẻ sứ mạng với Người. Bên cạnh đó là biết bao ơn riêng Chúa ban cho tôi như những nén bạc, những khả năng tự nhiên, khả năng siêu nhiên và muôn điều tốt lành khác Chúa đã làm cho tôi trong suốt cuộc đời đã qua.
Với tình yêu Chúa ban tặng cho tôi như thế, tôi sẽ phải đáp trả thế nào cho cân xứng với tình Người ? Để đáp trả cách trọn vẹn, chúng ta khao khát dâng hiến và phó nộp chính bản thân mình, cuộc đời mình cho tình yêu Người, một sự dâng hiến trọn vẹn để không còn gì nơi con người mình mà lại không thuộc về Chúa. Đó là một sự dâng hiến không chỉ bằng lời nhưng bằng cả cuộc sống yêu thương và phục vụ :
Lạy Chúa, xin nhận lấy cả tự do, trí nhớ, trí hiểu
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con.
Lạy Chúa, con xin dâng lại Chúa hết thảy.
Tất cả là của Chúa.
Xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng Chúa.
Vì được như thế, là đủ cho con. Amen.
Tôi cũng nhìn xem Chúa đang hoạt động trong vũ trụ, nơi tất cả mọi thụ tạo. Từ sự hiện hữu của sỏi đá vô tri vô giác, đến sự sống nơi cỏ cây thảo mộc, đời sống cảm giác nơi muông thú, Chúa vẫn đang hiện hiện và hoạt động nơi tất cả mọi thụ tạo ấy cho tôi vì yêu tôi.
Tôi còn khám phá ra muôn vẻ đẹp của vũ trụ. Như ánh sáng phát xuất từ mặt trời, như nuớc từ suốn nguồn chảy ra, mọi vẻ đẹp của vũ trụ cũng như nơi con người đều từ Thiên Chúa mà đến. Những vẻ đẹp ấy giúp tôi gặp gỡ chính Thiên Chúa. Như vậy, mọi thụ tạo không còn làm tôi xa cách Chúa nữa. Trái lại, đó là những con đường dẫn tôi đến gặp gỡ Người và giúp tôi cảm nghiệm tình yêu Người mỗi ngày một sâu xa hơn.
Với một trái tim đã được tình yêu Thiên Chúa đổi mới trong những ngày tĩnh tâm vừa qua, hãy để Chúa sai tôi đến với thế giới hôm nay để loan báo tình yêu Người cho thế giới, vì chỉ có tình yêu mới làm cho con người được sống, chỉ có tình yêu mới cứu được thế giới. Hãy để cho cuộc đời tôi trở thành những cung bậc của một bài trường ca bất tận ngợi khen tình yêu Người :
Lạy Chúa,
Với biết bao hồng ân
Ngài đã ban tặng cho con
Xin cho con luôn biết yêu mến
Và phụng sự Chúa trong mọi sự. Amen.
LƯỢNG GIÁ KHÓA TĨNH TÂM
Xin Chị vui lòng trả lời vắn tắt các câu hỏi sau đây:
1. Xin Chị cho biết ơn lớn nhất Chúa đã ban cho Chị trong khóa tĩnh tâm này.
2. Bài giảng nào hoặc Lời nào của Chúa đã giúp Chị gặp gỡ Chúa sâu xa nhất trong những ngày qua?
3. Những điều Chị cảm thấy hài lòng về khóa tĩnh tâm này?
4. Những điều Chị thấy chưa hài lòng về khóa tĩnh tâm này?
5. Hướng sống trong những ngày sắp tới của Chị là gì?
6. Chị có góp ý hay đề nghị gì với Cha giảng phòng?
Xin hết lòng cám ơn Chị và kính chúc ơn bình an của Chúa Kitô Phục Sinh luôn đầy tràn tâm hồn Chị trong những ngày tháng sắp tới trong sứ mạng phục vụ Thiên Chúa và Hội Thánh.
Cha giảng phòng