I. AI CẦN ĐẾN THIÊN CHÚA?
Có một số người chủ trương:
- Tại sao tôi cần phải tin vào Thiên Chúa?
- Trăng sao trên bầu trời không đủ để cho tôi phải tìm biết hay sao?
- Trái đất này là Chúa của tôi. Tôi tin vào trái đất.
- Tôi làm chủ cuộc đời của mình.
- Tôi không cần Thiên Chúa.
- Tôi muốn tin vào Thiên Chúa lắm, nhưng tin làm sao được khi trên thế giới này còn xảy ra biết bao thảm trạng đau buồn: chiến tranh, bất công, bệnh tật, đau khổ, tai ương.
- Thật sự có thể biết Thiên Chúa hay không?
-------------------------------------------------
Ngày nay đa số con người tin vào một cái gì hoặc một người nào đó cao cả lớn lao hơn họ. Nhiều người tin vào Thiên Chúa nhưng họ cảm thấy niềm tin đó thật khó khăn, lúng túng. Họ thấy hình như Thiên Chúa xa vời, không mấy quan tâm lưu ý đến những vấn đề trong cuộc sống của họ.
Tuy nhiên, từ 2000 năm nay, những ngưòi Kitô hữu quả quyết rằng họ có thể nhận biết Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô và có thể tin tưởng ở Ngài ngay trong cuộc sống này cũng như sau này, trong cuộc sống vĩnh cửu.
Nhưng đức tin nghĩa là gì? Thiên Chúa là ai? Ngài đợi chờ gì nơi chúng ta? Đức Giêsu là ai? Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Đây là một số câu hỏi tiêu biểu chúng ta sẽ lần lượt suy xét để khám phá ra ý nghĩa niềm tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
II. TIN LÀ GÌ ?
- Tôi cũng muốn tin như bạn.
- Nhưng làm thế nào để có được niềm tin?
------------------------------------------------------
Trong cuộc sống thường ngày, một cách nào đó chúng ta tỏ cho người khác thấy niềm tin tưởng của mình.
Mỗi lần đi máy bay hay tàu lửa, chúng ta mặc nhiên phó thác niềm tin của chúng ta vào người phi công hay hoa tiêu lái tàu, cũng như tin vào những kỹ sư và nhân công đã chế tạo ra chúng. Không có người nào trước khi lên tàu hay máy bay lại đòi hỏi viên phi công hay hoa tiêu phải chứng tỏ khả năng điều khiển. Chúng ta mặc nhiên tin vào khả năng của họ không cần tìm hiểu tai sao lại tin như thế. Cũng vậy, đa số chúng ta không biết nhiều về điện, nhưng mỗi khi bật đèn, chúng ta tin đèn sẽ sáng lên. Hoặc mỗi lần mở chìa khóa xe hơi, chúng ta tin là máy xe sẽ nổ mặc dù không biết gì về xe cộ.
Thật ra, chúng ta tỏ lộ niềm tin của mình vào người khác trong mỗi giây phút của cuộc sống mặc dầu rất ít khi chúng ta ý thức. Và nếu không có niềm tin tưởng này, cuộc sống không thể tồn tại được vì không ai dám làm điều gì cả. Cũng vậy, chúng ta không mấy khi ý thức mình đang được người khác giúp đỡ: thực phẩm hằng ngày, tiền bạc, các dịch vụ công ích, tiện nghi... Tất cả đều do người khác.
Người Kitô hữu thật sự là người ý thức mình đang tin vào Thiên Chúa. Họ tin chắc Ngài luôn hiện diện và là Đấng đáng tin cậy hoàn toàn. Người ta phỏng vấn một bà lớn tuổi có niềm tin vào Chúa rất mạnh: "Đâu là bí quyết niềm tin của bà?" Bà ta trả lời: "So với Thiên Chúa cao cả, niềm tin của tôi thật quá nhỏ bé!" Điều này muốn nói chỉ cần ý thức sự cao cả tuyệt đối của Thiên Chúa, con người sẽ có được niềm tin.
Tin có Thiên Chúa, biết Ngài hiện diện là một chuyện; nhưng phó thác hoàn toàn cho Ngài lại là một chuyện khác. Và đó mới thật sự là tin. Cũng như một người muốn đi xa, biết rõ hành trình, giờ giấc của chuyến tàu, nhưng chẳng chịu bước lên tàu, anh ta chẳng bao giờ đến được nơi anh định đến.
III. TẠI SAO TIN THIÊN CHÚA ?
- Thiên Chúa của người Kitô hữu là Đấng nào?
- Ngài chờ đợi gì nơi họ?
- Tin vào Thiên Chúa thật sự có nghĩa gì?
-----------------------------------------------------------
Thiên Chúa là danh từ được dùng để gọi Đấng làm nên sự sống. Hoặc chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo, hoặc chấp nhận tất cả đều xảy ra cách ngẫu nhiên. Thật ra, không dễ gì với lý luận thuần túy, con ngưòi có thể chứng minh cách rõ ràng về Thiên Chúa. Khoa biện luận này chỉ có thể dẫn đến kết luận có Thiên Chúa. Điều này cũng tương tự như việc chứng minh tình yêu: tình yêu vẫn có đó, nhưng khó có thể cắt nghĩa được.
Cách vận hành kỳ diệu của vũ trụ, của hệ thống thái dương hệ trong đó chúng ta đang sinh sống, đòi hỏi phải có một chuyên viên biệt tài sắp xếp; người đó phải cùng lúc vừa là kỹ sư, kiến trúc sư và đồng thời cũng là người nghệ sĩ nữa. Đấng cao cả biệt tài này, chúng ta gọi là Thiên Chúa.
Chúng ta đang sống trong thời gian, vì thế chúng ta biết rõ mỗi người đều có một khởi đầu và sẽ có một chung cuộc. Định luật bất di dịch này khiến chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa cũng phải có một khởi đầu và chung cuộc như chúng ta. Thế nhưng, Kinh Thánh nói cho chúng ta biết Thiên Chúa không có khởi đầu và cũng không có cùng tận. Ngài không lệ thuộc vào thời gian như chúng ta.
Chúng ta thường chỉ hiểu được cái gì chúng ta thấy và biết, và chúng ta nghĩ chỉ có những cái đó hiện hữu. Nhưng Thiên Chúa thì cao cả hơn những gì chúng ta có thể hiểu được. Ngài luôn hiện hữu, không bao giờ đổi thay, không bao giờ tàn úa như chúng ta. Nói cách khác, Thiên Chúa là thực thể duy nhất không bao giờ đổi thay trong vũ trụ hay thay đổi này.
Thiên Chúa đã tạo dựng một thế giới thật đẹp đẽ và trật tự. Toàn thể cấu trúc của vũ trụ cho thấy cách tỏ tường dấu vết của một thiên tài qua các định luật thiên nhiên. Nhìn cây thủy tiên, cây quỳnh nở hoa, chúng ta ngạc nhiên thích thú. Đặc biệt nơi con người, khi trứng thụ tinh trong cơ thể người phụ nữ, đứa bé bắt đầu phát triển với đầy đủ các cơ quan: tai, mắt, tim, trí óc... Nhưng không cha mẹ nào có thể cho đứa bé sự sống. Chính Thiên Chúa thông ban sự sống.
Chúng ta không thể thấy Thiên Chúa, nhưng tất cả những gì chung quanh chúng ta nói lên Ngài đang hiện diện cách sinh động. Thật ra, trong cuộc sống hằng ngày, có những cái chúng ta không thể thấy được như gió, điện, không khí, làn sóng... nhưng vẫn chắc chúng có đó. Chúng ta cũng không thấy tình yêu, nhưng biết chắc tình yêu đang sinh động nơi những người quan tâm lo lắng cho chúng ta. Chúng ta không thể thấy Thiên Chúa với con mắt thường, nhưng trong thâm tâm chúng ta biết chắc Ngài thật sự hiện hữu.
Thiên Chúa không có một cơ thể như chúng ta. Nhưng không vì thế mà Ngài không có nhân tính. Thiên Chúa cũng có thể suy nghĩ, yêu thương, dự tính và sáng tạo như con người. Ngài có đủ mọi yếu tố của một con người ngoại trừ nơi Ngài không có khuyết điểm nào cả.
Chúa Giêsu nói: "Thiên Chúa thiêng liêng". Nghĩa là Ngài đầy tràn sự sống và sức mạnh; Ngài không bị không gian và thời gian giới hạn. Cũng thế, chúng ta có một linh hồn thiêng liêng. Linh hồn chính là nguồn cội của tất cả những gì chúng ta suy nghĩ, hy vọng hay ước tưởng. Thiên Chúa cũng có tất cả những sinh hoạt này nhưng ở một mức độ tuyệt hảo. Vì thế không ngạc nhiên khi Chúa Giêsu quả quyết Thiên Chúa là Đấng cao cả, sáng tạo, nguồn gốc của tất cả mọi sự, Đấng chúng ta phải tôn thờ trong tinh thần và sự thật.
IV. LÀM THẾ NÀO BIẾT ĐƯỢC THIÊN CHÚA ?
- Những kẻ đang tìm kiếm Thiên Chúa có thể gặp được Ngài không?
- Nơi nào tôi có thể tìm gặp được Ngài?
-------------------------------------------------------------
Đây có phải là một ý tưởng mới mẻ không? Thật ra điều này đã được nói đến gần 3000 năm nay. Mỗi dân tộc, sắc dân đã biết khởi sự tìm kiếm Thiên Chúa ngay từ đầu. Dù ý thức hay không, tự trong thâm tâm vẫn có một cái gì thôi thúc con ngưòi đi tìm kiếm Thiên Chúa. Tất cả mọi tôn giáo lớn trên thế giới đều đã có lúc trãi qua cuộc tìm kiếm này.
Thật ra, chúng ta không thể tự mình đi tìm kiếm Thiên Chúa ngay cả lúc xem ra đây là một cố gắng riêng tư. Chính Thiên Chúa đi bước đầu tiên. Ngài tự mạc khải mình cách rõ rệt trong chính vũ trụ do Ngài sáng tạo nên.
Trong quá khứ, Thiên Chúa cho biết ý định của Ngài qua những người thánh thiện sống gần gũi với Ngài. Ngài ban cho ông Môsê 10 Điều Luật, không phải cho riêng người Do Thái, nhưng cho tất cả mọi dân tộc ở mọi thời. Và nếu con người biết tôn trọng, gìn giữ những giới luật này, chắc chắn thế giới ngày nay đã an bình và hạnh phúc hơn.
Tuy nhiên, mạc khải toàn vẹn của Thiên Chúa chỉ được tỏ hiện cho con người qua Đức Giêsu. So sánh với Ngài, tất cả những nhân vật đã được Thiên Chúa sai đến trong lịch sử cũng như những điều họ nói ra chỉ là bóng mờ. Chính nơi con người của Đức Giêsu chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa. Một môn đệ của Chúa Giêsu nói với Ngài: "Xin Thầy chỉ cho chúng con Chúa Cha. Điều đó đủ cho chúng con". Ngài trả lời: "Ai thấy ta là đã thấy Chúa Cha".
Khi tường thuật về cuộc đời của Chúa Giêsu, thánh Gioan chủ tâm không nói đến việc Chúa Giêsu xuất thân từ Bêlem - đó chỉ là cách Ngài chọn để nhập thế - vì thật ra Chúa Giêsu luôn hiện diện trong thời gian.
Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Nhờ Ngài, mọi vật được tạo thành - Ngài là nguồn sự sống. Ngài trở thành người phàm và ở giữa chúng ta, và chúng ta nhận thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Ngài, là Con Một đầy Ân Sủng và Sự Thật. (Gn 1,1-18)
V. TẠI SAO TIN CHÚA GIÊSU KITÔ ?
- Đức Giêsu là ai? Ngài chỉ là một con người ?
- Hay chính Ngài là Thiên Chúa?
----------------------------------------------------------------------
Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn đến Thiên Chúa. Ngài vừa là con người vừa là thần linh cách trọn vẹn: một con người hoàn toàn và đồng thời một Thiên Chúa hoàn hảo.
Là con người trọn vẹn, Ngài được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria trong một gia đình bình thường. Trong những năm đầu của cuộc sống, Ngài làm lụng bằng nghề thợ mộc ở một làng nhỏ xứ Galilêa, có tên là Nagiarét. Vào năm 30 tuổi, Ngài từ giã gia đình; và trong khoảng 3 năm Ngài đi khắp nơi trong nước Do Thái để rao giảng, chữa bệnh cho dân chúng và giúp đỡ những ai cần đến Ngài. Đặc biệt, Ngài đã làm cho một vài người chết được sống lại, và đuổi thần ô uế ra khỏi những người bị nhập, chữa cho họ được hoàn toàn khỏe mạnh, quân bình.
Giáo huấn của Ngài về Nước trời thật độc đáo, tuyệt vời - từ trước đến giờ chưa có vị thầy nào nói như Ngài - nhằm giúp con người hướng đến một cuộc sống hoàn hảo, không tì vết, không tội lỗi, không ích kỷ. Ngài thân thiện với mọi người, chấp nhận và kính trọng họ, bất kể người đó là ai hoặc đang làm gì.
Ngài cũng đã kinh qua thế nào là đói khát, thế nào là mệt mỏi đến nỗi Ngài vẫn ngủ yên trên thuyền giữa cơn bão lớn. Ngài kinh nghiệm thế nào là đau khổ cô đơn khi bị bạn bè bỏ rơi. Hơn nữa, chính Ngài cũng kinh nghiệm cái đau khổ trong thân xác khi bị đánh đập và bị treo trên cây thập giá - một cái chết đau đớn nhất mà thế giới ngày trước có thể nghĩ ra - mặc dầu viên tổng trấn Roma thời đó thú nhận không tìm thấy Ngài phạm lỗi lầm gì.
Vì thế, Ngài thật sự là một con người trọn vẹn dù được nhìn dưới bất cứ góc cạnh nào.
Bên cạnh cuộc sống hoàn hảo và lời giảng dạy tụyêt vời, Chúa Giêsu còn quả quyết nhiều điều gây kinh ngạc cho người nghe. Ngài nói:
- "Cha Ta và Ta là một" : Ngài muốn khẳng định Ngài ngang hàng với Thiên Chúa.
- Quyền tha tội: Ngài có quyền như Thiên Chúa.
- Ngài là con đường độc nhất dẫn đến Thiên Chúa: "Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà lại không qua Ta".
- Ngài trao ban bình an cho những ai phó thác vào Ngài: "Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại cho".
- Ngài có quyền ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài: "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời. Và không ai có thể tách chúng ra khỏi Ta".
* Biết Ngài là biết Thiên Chúa
* Tin Ngài là tin Thiên Chúa
* Làm vinh danh Ngài là làm vinh danh Thiên Chúa.
Như thế, Chúa Giêsu hoặc là kẻ đại bịp, hoặc bị người nghe hiểu sai, hoặc bị bệnh tâm thần, hoặc Ngài thật sự giống như điều Ngài xác quyết. Điều sau cùng này đã được một trong số mười hai môn đệ của Ngài là Tôma tự mình khám phá. Khi được các môn đệ khác cho hay là Chúa Giêsu đã sống lại và hiện ra với các ông, Tôma hoàn toàn không tin. Chỉ khi tự mình gặp thấy Chúa Giêsu diện đối diện, ông mới thật sự tin. Và với tất cả lòng yêu mến, tôn thờ, Tôma đã sụp lạy dưới chân Chúa và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi".
VI. TẠI SAO CHÚA GIÊSU CHỊU CHẾT ?
- Khi Chúa Giêsu chết trên cây thánh giá, chuyện gì đã xảy ra?
- Có thể nào cái chết của một người khác lại có thể ảnh hưởng đến tôi ngày hôm nay không?
---------------------------------------------------------------------
Đức Giêsu đến để chỉ cho chúng ta biết khuôn mặt thật của Thiên Chúa qua chính cuộc sống và lời Ngài rao giảng. Ngài nói cho biết về tình yêu, chân lý, và sự công thẳng của Thiên Chúa bằng những hình ảnh, câu chuyện thường ngày để mọi người có thể hiểu được. Nhưng lý do chính yếu của việc Ngài nhập thế là để giải quyết vấn đề tận căn của con người: tính kiêu căng và ích kỷ. Đây là cái lỗi lầm lớn nhất trong thế giới và là nguyên nhân gây nên những tranh cãi làm đổ vỡ mối liên hệ giữa con người với nhau và giữa các quốc gia... "cái tôi trên hết". Một cách đơn giản, Kinh Thánh gọi đó là tội.
Vì thế, tội không đơn giản chỉ là giết người, trộm cướp, làm điều gian ác. Tội nằm ngay tận gốc trong tâm tưởng của con người. Khốn thay, chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, đau khổ, chối từ và đầy công phẫn này.
Điều kẻ khác làm hoặc nói đều ảnh hưởng đến chúng ta, gây đau khổ và làm tổn thương chúng ta. Chẳng hạn, những lạm dụng hay bạo lực với trẻ nhỏ một cách tâm lý, thể lý hay tình dục, đều gây tai hại cho người đó khi đến tuổi trưởng thành, khiến cho người đó có mặc cảm tự ti, thấy mình không quan trọng gì cả.
Lòng ích kỷ của một Hitler hay Stalin, hay của những người mua bán ma túy ngày nay gây đau khổ tận cùng cho thật nhiều người. Tội lỗi làm đổ vỡ mối liên hệ hỗ tương giữa con người với nhau và với chính Thiên Chúa. Từ đó, Thiên Chúa xem ra xa lạ với cuộc sống của con người.
Tự mình, chúng ta không thể trở về với Thiên Chúa. Chúng ta thật sự không đủ khả năng để làm chuyện đó. Tình trạng này chỉ có thể thay đổi nếu có một người hoàn toàn vô tội, tuyệt đối hoàn hảo đến, đương đầu và chiến thắng tội lỗi, để đưa chúng ta về lại với Thiên Chúa.
Thiên Chúa không chỉ là tình yêu tuyệt hảo, Ngài còn là Đấng công thẳng vô cùng. Sự công thẳng này đòi hỏi tất cả tội lỗi và điều ác phải bị xử phạt cân xứng. Chính chúng ta cũng đồng ý rằng vị thẩm phán phải tôn trọng các luật lệ, bằng không xã hội sẽ trở nên hỗn độn, vô trật tự. Đàng khác, tình yêu tuyệt hảo của Thiên Chúa cũng được tỏ bày qua việc Chúa Giêsu nhập thế để gánh lấy tất cả tội lỗi của con người. Ngoài cách này ra, Thiên Chúa không thấy có một phương thức nào khác.
Vì thế, việc Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá xứng hợp với tội lỗi mà con người đáng bị xử phạt. Và khi gánh lấy mọi hậu quả của tội như thế, Ngài cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ rơi: "Lạy Chúa! Lạy Chúa! Sao Chúa nỡ bỏ con!"
Trên thập giá, Chúa Giêsu gánh chịu mọi hậu quả của tội lỗi con người: Ngài cảm thấy cô đơn, bị ruồng bỏ, chịu đau khổ, chối từ và giận dữ của toàn thể nhân loại. Ngay trước khi lìa đời, Chúa Giêsu thì thào: "Mọi sự đã hoàn tất". Công cuộc cứu rỗi con người khỏi tội lỗi, khỏi sự chết và án phạt đời đời đã hoàn thành tốt đẹp. Lời nói này của Ngài còn có nghĩa món nợ đã được thanh toán. Một món nợ khổng lồ do tội lỗi con người gây nên đã được trả một lần thay cho tất cả. Qua đó, việc trở về với Thiên Chúa và được hoàn toàn tha thứ được thực hiện. Chiếc cầu nối liền giữa Thiên Chúa và con người được tái lập. Và tình bạn hữu thân thiết với Thiên Chúa trở thành hiện thực cho những ai đến với Đức Giêsu trong tin yêu.
Thánh Phêrô, một trong những nhân chứng tại pháp trường thập giá, sau này đã viết lại:
- Chúa Giêsu Kitô đã mang lấy tất cả tội lỗi chúng ta trên cây thập giá.
- Chúa Giêsu Kitô chết vì tội lỗi chúng ta, một lần thay cho tất cả; Ngài chính là người bầu cử cho kẻ tội lỗi và dẫn đưa con người về với Thiên Chúa.
Bài thơ sau đây nói lên ân phúc thập giá của Chúa Giêsu với một giọng văn đơn sơ, rõ ràng:
Chúa dịu hiền giờ chết trên thập giá
Chính thập giá Ngài ban sự sống cho con người
Ôi lạy Đấng Cứu Chuộc, chúng con khẩn cầu Ngài:
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con!
VII. TẠI SAO TIN CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI ?
- Chuyện gì đã xảy ra sau khi Chúa Giêsu chết?
- Ngài có thật sự sống lại không?
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Thật không còn gì nghi ngờ nữa: Chúa Giêsu đã chết. Ngài hoàn toàn bất động trên cây thập giá. Những người lính Roma xác quyết điều đó. Và việc Ngài được chôn cất cũng đã quá rõ ràng: Giuse A-ri-ma-ti-a đã lấy xác Chúa Giêsu và đặt Ngài vào trong mộ đá, nơi ông định dành làm phần mộ cho chính mình. Một tấm đá khổng lồ được lăn đến chận cửa mồ lại và quanh đó có vài lính gác canh giữ.
Ngay đến tất cả bạn hữu của Chúa Giêsu cũng biết chắc Ngài đã chết. Không còn gì phải nghi ngờ: chính mắt họ trông thấy Ngài tắt thở. Và tất cả niềm hy vọng của họ cũng chôn theo nấm mồ của Ngài.
Nhưng trong ngày lễ Vượt Qua, khi các phụ nữ đến mồ để xức dầu cho xác của Chúa Giêsu theo phong tục người Do Thái, họ phát hiện tảng đá đậy cửa mồ đã bị lăn đi, xác Chúa không còn đó nữa; mồ trống trơn, chỉ còn tấm khăn liệm. Những miếng băng vải quấn xác Ngài vẫn còn cuốn lại như thể xác của Ngài vừa mới vuột đi. Thế thì ai đã lăn tảng đá đậy cửa mồ, và xác của Ngài đã xảy ra chuyện gì ?
Chắc chắn những người Do Thái và người Roma không lấy xác Ngài để làm gì, bằng không họ đã đưa xác đó ra làm chứng khi các tông đồ cứ quả quyết Ngài đã sống lại. Các bạn hữu của Chúa Giêsu chắc cũng không làm chuyện đó được vì lính gác canh mồ quá kỹ càng và chính họ cũng đang hoang mang bối rối, sợ bị vạ lây. Mà nếu thật có như vậy, thì chẳng ai dại gì tin theo các tông đồ để loan báo một chuyện mà họ biết là láo khoét, nhưng lại nguy hiểm cho tính mạng của họ.
Không thể có lời giải thích nào khác ngoài sự kiện này: Chúa Giêsu đã sống lại thật sau khi chết được ba ngày. Đây là một sự kiện lịch sử được minh chứng cách rõ rệt nhất. Nếu không thật sự sống lại, không ai có thể giải thích được tại sao mồ trống và những lần Chúa Giêsu hiện ra: khi thì với một người, khi thì với hai người trên đường đi; có lúc chỉ hiện ra cho nhóm môn đệ, lúc lại cho cả đám đông; hoặc có khi trong phòng kín, khi ngoài bãi biển, khi trên đồi giữa ban ngày.
Chúa Giêsu đã gặp gỡ họ, chuyện trò với họ, và chính họ đã sờ đụng đến Ngài. Ngài chính thật là Chúa Giêsu, Thầy của họ trước khi chết, nhưng với một cách thế khác. Bây giờ, Ngài không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian nữa. Chúng ta biết được điều này qua Tin Mừng Thánh Luca chương 24 và Thánh Gioan chương 20 và 21.
Cũng không thể nào giải thích được tại sao các môn đệ của Ngài lại thay đổi tận căn đến như thế. Sau khi Chúa Giêsu chết, các ông chỉ là một nhóm nhỏ khiếp sợ, chỉ dám gặp nhau trong phòng đóng kín. Thế nhưng, giờ đây họ trở thành những con người đầy phấn khởi và can đảm. Các ông hiên ngang ra ngoài phố chợ, đến chỗ đông người để loan báo việc Chúa Giêsu đã sống lại không chút sợ hãi. Đến bây giờ, họ biết chắc Chúa Giêsu thật khác xa một người bình thường. Ngài chính là Thiên Chúa.
"Đức Giêsu là Thiên Chúa": đó là sứ điệp các Tông Đồ rao giảng. Ngài là Thiên Chúa của trời đất vũ trụ, Thiên Chúa của mọi dân tộc, mọi quốc gia. Ngài là Thiên Chúa của thời gian và vĩnh cửu, Thiên Chúa của chính sự sống của chúng ta và của mọi loài.
Vì thế, Thánh Phaolô nói: "Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa để tôn vinh Thiên Chúa Cha.
VIII. TẠI SAO TIN CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI ?
- Bây giờ Chúa Giêsu ở đâu?
- Đâu là quyền hành của Ngài trên thế giới này?
------------------------------------------------------------------
Khi còn ở thế gian, Chúa Giêsu chỉ hoạt động trong một khu vực không gian giới hạn. Vì thế, Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần đến với các tín hữu trên khắp thế giới để nhờ Chúa Thánh Thần, công việc Ngài đã khởi sự vẫn tiếp tục tiến hành qua cuộc sống của những người tin vào Ngài, mặc dầu Ngài không còn hiện diện cách thể lý.
Biến cố Thăng Thiên (Lên Trời), khi Chúa Giêsu về lại với Thiên Chúa Cha, chung cuộc làm chứng Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Biến cố này cũng cho thấy cách tỏ tường hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá vì tội lỗi chúng ta thật là một lễ tế hoàn hảo, một lần là đủ, không cần phải tái diễn. Ở trên trời, Chúa giêsu tiếp tục sứ mạng cứu rỗi của Ngài. Chính Ngài đã nói đến điều này trước khi giã từ các môn đệ: "Ta ban cho các con mọi quyền hành trên trời và dưới đất".
Kinh Tin Kính tuyên xưng Chúa Giêsu "ngự bên hữu Đức Chúa Cha". Đây là một hình ảnh nói lên uy quyền của Ngài trên mọi loài thụ tạo. Vũ trụ thế giới đều lệ thuộc vào sự điều khiển của Ngài và ý định của Ngài trên toàn thể tạo vật được hiện thực dần dần. Thật ra, không phải lúc nào chúng ta cũng nhận ra được chương trình hay ý định của Thiên Chúa. Nhiều khi chúng ta tự hỏi tại sao những việc như thế (tai ương, chiến tranh, bất công...) lại có thể xảy ra. Nhưng chung cuộc, không gì có thể ngăn cản chương trình hoạt động của Ngài trong lịch sử thế giới theo cách thức và thời điểm của chính Ngài.
Ở trên trời, khi ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu còn bảo chứng chúng ta thật là con cái của Thiên Chúa, được thuộc về Nước Trời và sẽ được ở với Ngài luôn mãi. Là con người thật, Chúa Giêsu thông hiểu trọn vẹn kinh nghiệm sống của chúng ta. Là Thiên Chúa thật, Ngài có đủ mọi quyền năng và lòng nhân lành để cứu giúp chúng ta.
Ý thức Đức Giêsu là Thiên Chúa của tất cả mọi loài sẽ mang lại bình an cho tâm hồn và đồng thời giúp tăng triển đức tin. Chúng ta biết rằng Ngài có đủ mọi quyền hành, không phải chỉ trên thế giới vũ trụ, nhưng ngay cả trên cuộc sống của chúng ta. Không gì có thể tách chúng ta ra khỏi Ngài: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
Lời hứa này ngay từ đầu đã giúp các tín hữu an tâm và kiên vững làm chứng nhân cho Chúa Giêsu vì họ được Ngài bảo đảm khả năng tường thuật lại những gì họ biết về Ngài. Chúa Giêsu cũng hứa ban cho chúng ta được ở với Ngài sau cuộc sống này. Đó là niềm hy vọng chắc chắn cho mỗi người chúng ta.
"Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ. Ta ra đi và sửa soạn để các con cũng được ở với Ta".
IX. BÍ TÍCH RỬA TỘI LÀ GÌ ?
- Tại sao người ta chịu Bí Tích Rửa Tội?
- Có phải qua BT Rửa Tội chúng ta trở thành Kitô hữu không?
----------------------------------------------------------------
Danh từ "Battesimo" (Rửa) phát xuất từ ngôn ngữ Hy Lạp có nghĩa là dìm mình, ngụp lặn hoặc rửa sạch bằng nước. Danh từ này trước hết được dùng để nói đến những người mắc nợ lút đầu, những người đau khổ quá mức, hoặc thuyền đắm dưới đáy biển hay ngâm quần áo trong nước.
Vào khoảng 100 năm trước khi Chúa Giêsu sinh ra, dân Do Thái cũng có một phép rửa dành cho những nguời ngoại muốn trở thành tín hữu đạo Do Thái. Vào thời Gioan Tiền Hô, ông mời gọi người Do Thái hãy từ bỏ con đường ích kỷ để được Thiên Chúa thứ tha. Gioan Tiền Hô kêu gọi họ đến thanh tẩy trong sông Gio-đan để làm chứng lòng thống hối thực tâm.
Chính Chúa Giêsu cũng đến chịu phép rửa với Gioan. Ngài muốn công khai tỏ cho thấy Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Đối với Ngài, phép rửa là một cử chỉ dấn thân và từ bỏ trọn vẹn.
Các môn đệ của Chúa Giêsu rửa tội cho những người vừa thực tâm thống hối tội lỗi vừa chấp nhận đức tin và vâng phục Chúa Giêsu. Bí Tích Rửa Tội là dấu chỉ, biểu tượng nhập vào đức tin Kitô giáo. Người nào muốn trở thành Kitô hữu đều phải chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu để chỉ sự thông hiệp với Ngài.
Để có thể hiểu được ý nghĩa thâm sâu của Phép Rửa, chúng ta cần phải trở về với Cựu Ước, qua câu chuyện Abraham. Thiên Chúa rảo quanh tìm kiếm một người có thể yêu mến Ngài thật sự và giữ các luật lệ Ngài ban. Cuối cùng Ngài gặp được Abraham. Thiên Chúa hứa chúc phúc cho ông và sẽ ban cho một dòng dõi đông đúc. Để đóng ấn việc thỏa thuận này, Thiên Chúa ra lệnh bắt Abraham chịu cắt bì. Và từ đó, cắt bì trở thành dấu chỉ thuộc về dân Thiên Chúa.
Từ thời Chúa Giêsu, dấu chỉ thuộc về dân Thiên Chúa không còn dành riêng cho dân Do Thái, nhưng được mang đến cho mọi dân tộc, mọi quốc gia. Và dấu chỉ đó cũng không còn là phép cắt bì, nhưng chính là Bí Tích Rửa Tội.
Dù rửa tội cho người lớn hay trẻ con, ý nghĩa của dấu chỉ đó vẫn là một. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta nhiều hình ảnh rất hữu ích nói về ý nghĩa này. Dìm mình trong nước rửa tội là giống như chết đi cho lối sống xưa cũ, được đánh dấu bởi cái "tôi trên hết", đồng thời cương quyết sống cho Chúa Giêsu.
Trên một hòn đảo ở Hy Lạp, người ta khám phá ra một giếng rửa tội đặc biệt có hình thánh giá thật lớn nằm ở trong một nguyện đường. Khám phá này làm chứng về cách thức rửa tội trong những thế kỷ đầu tiên. Sáng ngày lễ Phục Sinh, những người sắp lãnh nhận BT Rửa Tội được sắp xếp đứng ở một đầu giếng đã được đổ đầy nước. Sau khi tuyên xưng vào Chúa Giêsu, họ được dìm mình vào trong giếng nước có hình thánh giá. Bằng hình thức này, họ công khai bày tỏ ý muốn thông hiệp với cái chết của Chúa Giêsu. Kế đó, họ lại được dìm mình lần thứ hai, không phải ở chỗ cũ, nhưng ở một cánh khác của giếng rửa tội, để nói lên giờ đây họ được sống lại với Chúa Kitô, được đời sống mới.
Nước được dùng trong BT Rửa Tội để diễn tả sự thanh tẩy tội lỗi. Giống như nước rửa sạch thân xác, BT Rửa Tội thanh tẩy tâm hồn con người khỏi tì tích của tội lỗi. Bí Tích Rửa Tội còn giúp đưa người tân tòng trở nên thành viên của đại gia đình Dân Chúa, của Giáo Hội và của cộng đồng Kitô hữu. Nếu một trẻ thơ sinh ra đã là một biến cố quan trọng trong gia đình, ngày được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội lại càng quan trọng hơn.
Chúng ta không phải tự nhiên trở thành dân của Chúa ngay khi mới sinh ra. Mỗi người cần phải được tái sinh cách thiêng liêng. Và việc tái sinh này được thực hiện không do những việc làm hay nghi thức bên ngoài, dù đó là việc tốt lành hay mang tính chất tôn giáo đi nữa. Chính nhờ Thiên Chúa, nhờ lòng thương xót của Ngài mà chúng ta được dẫn đưavào gia đình Thiên Chúa qua niềm tin vào Chúa Giêsu. Bí Tích Rửa Tội là dấu chỉ của việc tái sinh này. Nó đánh dấu việc khởi đầu của một cuộc sống mới.
Dưới một khía cạnh nào đó, BT Rửa Tội là chuyện riêng tư của cá nhân: chính tôi quyết tâm từ bỏ lối sống ích kỷ để tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nhưng thật ra, qua Bí Tích này tất cả chúng ta trở thành một với Chúa Giêsu và Giáo Hội của Ngài. Thánh Phaolô, trong một đoạn thư tuyệt vời, đã trình bày Giáo Hội như là thân thể của Chúa Kitô và mỗi người Kitô hữu như là một thành phần sống động của thân thể đó. Ngài viết: "Cùng một cách thức, tất cả chúng ta được thanh tẩy trong cùng một thân thể nhờ Chúa Thánh Thần". Vì thế, BT Rửa Tội trở thành biến cố của tất cả cộng đồng.
Bí Tích Rửa Tội còn biến chúng ta trở thành đạo binh của Chúa Kitô, sẵn sàng xông pha trận chiến. Nhiều Giáo Hội địa phương còn giữ nghi thức sau đây: người mới được rửa tội, tay cầm Thánh Giá, đứng trước mặt cộng đoàn, và mọi người đọc to những lời này: "Bạn hãy chiến đấu dũng cảm dưới ngọn cờ của Chúa Kitô để chống lại tội lỗi, thế gian và sự dữ. Hãy luôn luôn là chiến sĩ trung thành và là người phục vụ Chúa Kitô cho đến hơi thở cuối cùng".
Đời sống Kitô hữu không phải như chiếc du thuyền chỉ ra khơi khi biển lặng trời êm, nhưng như một chiến thuyền phải chống chọi với quân thù bao vây tứ phía giữa biển động sóng gào. Chúng ta phải can đảm và sẵn sàng luôn.
Như vậy, những hình ảnh diễn tả BT Rửa Tội thật sống động và đầy khích lệ. Tất cả những hình ảnh này nói cho chúng ta về cuộc sống mới, về việc thanh tẩy, và việc trở nên thành viên của một đạo quân vinh thắng cho Chúa Giêsu Kitô.
X. TẠI SAO TIN CHÚA THÁNH THẦN ?
- Chúa Thánh Thần là ai?
- Ngài biến đổi đời sống chúng ta như thế nào?
----------------------------------------------------------------
Mỗi người chúng ta đều gồm có ba thành phần: thể xác, trí khôn và tinh thần, nhưng tất cả lại là một, duy nhất. Thiên Chúa cũng cho chúng ta biết Ngài có ba Ngôi. Một Thiên Chúa duy nhất nhưng lại có ba ngôi vị: Cha, Con, và Thánh Thần. Tất cả ba đều ngang hàng nhau.
Chúa Thánh Thần không phải là một cái gì mơ hồ, cũng không phải là một thụ tạo theo kiểu bóng ma. Ngài là một bản thể trọn vẹn, nhưng không có thân xác như chúng ta. Ngài cũng có tâm trí, ước muốn; cũng biết yêu thương, hướng dẫn, giúp đỡ người khác. Ngài có đủ mọi quyền năng của Thiên Chúa bởi vì Ngài thật sự là Thiên Chúa như Chúa Cha và Chúa Con. Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là Đấng Toàn Năng và hiện diện khắp nơi.
Nhiệm vụ đặc biệt của Chúa Thánh Thần là giúp con người tin vào Chúa Giêsu. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta cảm thấy cần đến Chúa Giêsu và mong được Ngài tha thứ. Chúa Thánh Thần hiện diện giữa chúng ta mỗi khi chúng ta mở lòng trí đón nhận Chúa Giêsu. Cũng chính Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống chúng ta, giúp chúng ta mỗi ngày tiến gần đến Chúa Giêsu hơn. Ngài cũng làm trổ sinh những thành quả tốt đẹp trong đời sống chúng ta mà thông thường chúng ta không ý thức đến.
"Chúa Thánh Thần phát sinh tình yêu, vui mừng, bình an, kiên nhẫn, tế nhị, tốt lành, trung tín, khiêm hạ và tự chủ".
Chúa Thánh Thần giúp chúng ta vượt qua những cám dỗ và tật xấu. Nhưng nếu chúng ta cố chấp giữ bản tính xưa cũ, chúng ta sẽ chết vì Ngài luôn tôn trọng tự do của chúng ta. Sự hiện diện của Ngài không những chỉ giúp chúng ta chống lại khuynh hướng xấu đang lôi kéo chúng ta nhưng đồng thời còn tăng trưởng đức tin của chúng ta nữa.
Nói tóm lại, chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể biến đổi bản chất con người từ ích kỷ, nhỏ nhen trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Chỉ mình Ngài có thể biến đổi thù ghét thành yêu thương tha thứ và chấp nhận lẫn nhau. Cũng chính Ngài giúp chúng ta cầu nguyện và thấu hiểu Kinh Thánh. Ngài hiện diện để hướng dẫn chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn và đưa dẫn chúng ta tìm được ý Chúa. Và cuối cùng, Ngài ban cho chúng ta năng lực phát triển những tài năng Chúa ban để phụng sự nhân loại.
Tóm lại, Chúa Thánh Thần là món quà Chúa Giêsu ban cho mỗi người tín hữu để chuẩn bị cho họ gặp Chúa Giêsu diện đối diện. Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu thành Roma xác quyết:
"Thiên Chúa đặt để trọn vẹn tình yêu của Ngài trong tâm hồn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Ngài là món quà Thiên Chúa ban cho chúng ta".
XI. TẠI SAO TIN GIÁO HỘI ?
- Giáo Hội có thật sự quan trọng không?
- Sống đời tín hữu cộng đoàn và riêng tư, cách nào dễ hơn?
----------------------------------------------------------------
Kitô hữu là những người tin vào Chúa Kitô. Họ được tái sinh trong gia đình Thiên Chúa. Giống như mỗi người đều được sinh ra trong một gia đình, nhờ tác động Chúa Thánh Thần một người được tái sinh trong gia đình Thiên Chúa. Dấu chỉ cho thấy một người được hội nhập vào gia đình Thiên Chúa chính là Bí Tích Rửa Tội. Và danh hiệu để gọi gia đình này là Giáo Hội.
Giáo Hội không phải được tạo thành bởi gạch đá, xi-măng và kính màu. Đây chỉ là những vật liệu xây dựng các đền đài, nhà cửa. Trên hết, Giáo Hội gồm những người thuộc về Chúa Kitô: một đại gia đình trong đó tất cả được liên kết với nhau không phải do xác thịt hay máu huyết nhưng bởi Chúa Thánh Thần. Họ trở thành anh chị em của nhau và cùng ngang hàng trước mặt Thiên Chúa dù mỗi người có khả năng hoặc phận vụ khác biệt.
Giáo Hội là một toàn thể bao gồm tất cả mọi hạng người thuộc đủ mọi màu da, chủng tộc hay lứa tuổi cùng tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Kinh Thánh trình bày Giáo Hội như là một Thân Thể - thân thể Chúa Kitô - mà Ngài là đầu. Và mỗi tín hữu là một thành phần của thân thể đó, và như vậy, mỗi người được kêu gọi đóng góp cho lợi ích của toàn thân. Thánh Phaolô đã diễn tả điều này cách rõ ràng trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô: "Thiên Chúa muốn tất cả mọi người trong Giáo Hội xử dụng tài năng được ban trong tinh thần yêu thương và phục vụ để xây dựng toàn thân" (1Cor 12,12).
Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, bao gồm mọi công dân của nước trời đã được kêu gọi từ bỏ con đường tối tăm, bất tín để đi đến nguồn chân lý ánh sáng của Chúa Kitô.
Bổn phận của Giáo Hội là thờ phượng Thiên Chúa, giúp mọi người nhận ra tình thương của Ngài dành cho họ và huấn luyện họ trở thành những tông đồ, để làm chứng nhân của Ngài ở trong thế giới.
Đức Giêsu là Thiên Chúa. Giáo Hội yêu mến, thờ phượng và vâng phục Ngài. Trong đời sống người Kitô hữu, không có gì quan trọng bằng việc hội họp nhau mỗi ngày Chúa Nhật để cử hành Bí Tích Thánh Thể. Đó không phải chỉ là một bổn phận. Mỗi người tín hữu phải cảm thấy thích thú khi được gặp gỡ nhau trong ngày đặc biệt dành riêng này.
Qua cuộc gặp gỡ này, chúng ta biểu lộ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và với những người chúng ta tiếp xúc. Càng lắng nghe Thánh Kinh, chúng ta càng được lớn lên trong đức tin, và nhờ đó chúng ta có thể trở thành môn đệ thật của Chúa Giêsu.
Dưới một khía cạnh nào đó, Giáo Hội giống như một đạo binh - đạo binh của Chúa - đang xông pha chiến trận chống lại tội lỗi và sự dữ đang thống trị thế giới. Chính Chúa Giêsu bảo đảm cửa hỏa ngục không thể nào lay chuyển được Giáo Hội. Đây là một cuộc chiến đòi hỏi mỗi người chúng ta phải trang bị bằng lời cầu nguyện và sự chân thật, bằng sự thanh sạch và tình yêu thương.
Thực tế, Giáo Hội xem ra yếu kém so với oai lực hùng hậu của sự dữ. Nhưng chúng ta đang sống trong chính thế giới do Thiên Chúa dựng nên và có Đức Giêsu là Thiên Chúa của chúng ta. Vì thế, chiến thắng cuối cùng chắc chắn thuộc về Giáo Hội của Ngài.
XII. TẠI SAO TIN PHÉP THÁNH THỂ ?
- Điều gì xảy ra trong khi cử hành Tiệc Thánh?
- Phép Thánh Thể trợ giúp đức tin của chúng ta như thế nào?
--------------------------------------------------------------------------
Một cách tổng quát, chúng ta gọi bữa tiệc của Chúa Giêsu là Tiệc Thánh Thể. Danh từ "Eucaristia" do tiếng Hy Lạp có nghĩa "Tạ ơn". Như thế, khi cử hành Tiệc Thánh Thể, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban, nhất là ơn cứu độ nhờ cái chết của Chúa Giêsu, đồng thời chúng ta cũng tưởng niệm biến cố Tiệc Ly, khi Ngài cầm bánh và rượu dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn.
Có thể gọi bữa Tiệc Thánh Thể là "sự kết hiệp thánh" để làm nổi bật sự liên kết của chúng ta với Chúa Giêsu và với những Kitô hữu khác. Bữa tiệc này còn được gọi là "Messa", nghĩa là "Thánh Lễ". Danh từ này phát xuất từ tiếng La-tinh "Missio", có nghĩa là sứ vụ. Ngày xưa, danh từ này được linh mục chủ tế dùng để chào giải tán các tín hữu tham dự thánh lễ. Điều này nhắc nhở họ về sứ mạng được sai đi làm chứng nhân trong thế giới. Cũng có thể gọi đây là "việc bẻ bánh" để nhắc lại hành động bẻ bánh của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly.
Thông thường bữa tiệc này được gọi là "Sacramento": Bí Tích, do một danh từ La-tinh có nghĩa là "lời thề" hay "trách vụ", để chỉ lời cam kết của người lính Roma khi tham gia quân đội của triều đình. Trong Thánh Lễ, bánh và rượu trở nên dấu chỉ của lời cam kết: Thiên Chúa hứa ban cho dân Ngài ơn cứu độ bên trong, còn chúng ta bày tỏ lòng vâng phục và yêu mến Ngài. Như vậy, mỗi một danh xưng trên đây đều nói với chúng ta về một khía cạnh tuyệt vời của Thánh Thể, món quà chính Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta.
Tất cả đã được khởi sự từ nước Ai Cập khoảng 3000 năm trước. Dân Do Thái sống trong cảnh nô lệ trong suốt nhiều thế kỷ trước khi Thiên Chúa sai Mô-sê đến giải phóng họ. Không gì có thể thuyết phục được Pha-ra-on cho dân Do Thái ra đi cho đến khi Thiên Chúa ra oai giáng họa kinh hoàng trên toàn dân Ai Cập. Tất cả con đầu lòng Ai Cập đều bị thiên thần của Chúa đi qua tiêu diệt. Nhưng con đầu lòng Do Thái lại không hề hấn gì vì cửa ngõ nhà họ được đánh dấu bằng máu chiên hiến tế. Khi thấy dấu hiệu này, các thiên thần "vượt qua" không sát hại họ.
Để kỷ niệm biến cố này, hàng năm dân Do Thái tiếp tục mừng việc giải phóng kỳ diệu này với bữa tiệc vượt qua. Cũng trong dịp lễ này, Chúa Giêsu đã cùng với các môn đệ tổ chức tiệc mừng trong tối thứ năm cuối cùng của đời Ngài. Chính trong dịp này, Ngài mang lại cho bữa tiệc vượt qua một ý nghĩa mới. Giờ đây, dân Ngài được giải phóng không phải để khỏi phải sống trong cảnh nô lệ thể lý, nhưng khỏi tội lỗi và sự chết vĩnh cửu. Ngài chính thật là chiên hiến tế. Thân xác Ngài đã bị hành hạ và máu Ngài đã đổ ra làm lễ vật hy sinh. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra và nói: "Này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con". Đoạn, cầm lấy chén rượu Ngài nói: "Này là Máu Ta, sẽ đổ ra cho các con".
Đối với người Kitô hữu ở mọi thời, đây vẫn luôn là việc cử hành thờ phượng quý giá nhất. Mỗi khi hội họp quanh bàn Tiệc Thánh, nhìn linh mục cầm bánh và rượu, chúng ta nhớ lại cái chết hy tế của Chúa Giêsu. Cũng trong bàn tiệc này, linh mục cầm lấy bánh và đọc lại những lời Chúa Giêsu đã nói trong bữa tiệc ly, rồi phân phát cho dân chúng. Thánh Phaolô Tông Đồ dạy chúng ta phải tiếp tục cử hành mầu nhiệm này cho đến khi Chúa Giêsu lại đến, lúc đó không cần thiết phải hiến dâng hy lễ này nữa.
Bằng phương cách mầu nhiệm này, Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với dân Ngài. Và mỗi khi chúng ta nhận lãnh bánh và rượu, đức tin cho chúng ta biết rằng đó chính thật là Mình và Máu Chúa Giêsu. Chính Ngài hứa sẽ luôn hiện diện giữa đoàn dân của Ngài. Nhờ việc lãnh nhận này, chúng ta trở nên thân xác của Ngài, thành phần của đại gia đình dân Thiên Chúa, và trở thành con cái của Ngài.
Việc vử hành này rất quan trọng đến nỗi Thánh Phaolô dạy chúng ta phải chuẩn bị kỹ càng trước khi tham dự. Phải mở cửa tâm hồn cho Thiên Chúa, nhận chân Ngài biết rõ mọi sự và khiêm tốn nhận lãnh "Bánh Hằng Sống" Ngài ban. Vì thế, trước tiên chúng ta khấn xin Ngài tha thứ những tội lỗi, sai trái chúng ta đã mắc phạm trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những việc thiếu sót do tính bất cẩn, lơ là hoặc ích kỷ của chúng ta.
Chúng ta tin chắc Ngài sẵn sàng chấp nhận chúng ta; sẵn sàng tha thứ, thanh luyện và tăng sức cho chúng ta, để nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mỗi ngày chúng ta đều sống trọn vẹn cho Chúa.
XIII. TẠI SAO TIN KINH THÁNH ?
- Kinh Thánh là loại sách nào?
- Mạc khải nghĩa là gì?
-----------------------------------------------------------------
Kinh Thánh là một bộ sách gồm nhiều cuốn góp lại với nhau. Danh từ "Bibbia" do tiếng Hy Lạp cổ có nghĩa là "Tập Sách". Kinh Thánh gồm 73 cuốn sách được chia làm 2 phần: phần đầu gọi là Cựu Ước, thuật lại lịch sử dân tộc Do Thái trước khi Chúa Giêsu sinh ra; phần sau gọi là Tân Ước, tường thuật về cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, từ đó phát sinh Giáo Hội. Trong đó cũng có nhiều lá thư gửi cho các giáo hội địa phương thuở ban đầu nhằm chỉ dẫn cụ thể cách thức sống đạo.
Kinh Thánh được hoàn tất trong khoảng 1500 năm, vì thế phần lớn các tác giả không biết nhau và trong nhiều trường hợp một tác giả không biết những người trước đã viết những gì. Điều lạ lùng là tất cả các tác giả đều xoay quanh cùng một chủ đề: Thiên Chúa tự mạc khải cho con người. Ngài làm cho những ai sống gần gũi với Ngài hiểu được ý muốn của Ngài. Và cùng với Chúa Thánh Thần, Ngài hướng dẫn họ bằng chính lời của Ngài và qua các huấn lệnh Ngài ban. Chính vì thế mà Kinh Thánh thường được gọi là "Lời của Chúa".
Chúng ta có thể nhận ra tính khác biệt của các thánh ký dựa vào cách nhìn và thời điểm các ngài truyền giảng chân lý của Thiên Chúa. Tuy nhiên, sứ điệp Thiên Chúa muốn mạc khải luôn được gìn giữ trọn vẹn. Thánh Phêrô nói: "Những người thánh thiện và được Thiên Chúa chúc phúc nói như là những phát ngôn viên của Chúa Thánh Thần". Và Thánh Phaolô quả quyết: "Tất cả Kinh Thánh đều được Thiên Chúa mạc khải".
Chúa Giêsu bảo đảm với các tông đồ, Chúa Thánh Thần sẽ nhắc lại tất cả những gì Ngài đã nói và làm khi còn ở trần thế: "Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho chúng con về tất cả những gì Thầy đã truyền dạy".
Kinh Thánh có một tầm quan trọng đặc biệt đối với người Kitô hữu, vì Kinh Thánh tường thuật một cách độc đáo cho chúng ta biết được Thiên Chúa như thế nào. Không có Kinh Thánh, chúng ta chỉ có thể biết được Thiên Chúa cách lờ mờ. Kinh Thánh nói một cách rõ ràng và đầy uy thế về cuộc sống, về sự chết và đời sống vĩnh cửu. Quả thật đây là cuốn sách cần thiết giúp hướng dẫn mỗi người chúng ta trên cuộc hành trình về quê trời.
Kinh Thánh có nhắc đến rất nhiều biến cố lịch sử, nhưng Kinh Thánh không phải là một sách sử ký thuần túy. Kinh Thánh còn chứa đựng một cái gì hơn thế nữa. Kinh Thánh cũng kể lại nhiều chuyện ly kỳ, nhiều bài thơ phú tuyệt vời, nhưng Kinh Thánh vẫn còn một cái gì hơn hẳn là một sách văn chương đơn thuần. Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết về nhân sinh và vũ trụ quan, nhưng Kinh Thánh vẫn hơn hẳn là một sách triết lý.
Mục tiêu chính của Kinh Thánh là hướng dẫn chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô. Toàn bộ Kinh Thánh đều quy chiếu vào Ngài. Sách Cựu Ước chuẩn bị con đường cho Ngài đến và Tân Ước đặt trọng tâm vào chính cuộc sống của Ngài. Mục sư Martin Luthero, một người tìm hiểu Kinh Thánh có nói như sau: "Giống như chúng ta phải đến tận nơi sinh để có thể thấy được trẻ mới sinh, cũng vậy, để gặp được Chúa Giêsu, chúng ta phải kề cận với Kinh Thánh".
Nếu chưa bao giờ đọc Kinh Thánh, bạn không thể khởi sự ngay từ đầu cuốn sách một cách say mê được. Hãy bắt đầu bằng Tin Mừng Mat-thê-ô, Mat-cô, Lu-ca rồi Gioan. Sau đó hãy đọc Công Vụ Tông Đồ và thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Phi-lip-phê. Gặp đoạn nào khó hiểu, bạn hãy xin cha xứ của bạn giúp đỡ, giải thích. Bạn hãy đọc với tâm tình khiêm tốn vì đó là Lời của Chúa. Đọc Kinh Thánh, bạn sẽ được nghe tiếng Chúa từ trong thâm tâm nói với bạn về cuộc sống. Và trong lúc đọc Kinh Thánh, bạn cũng phải cầu nguyện nữa, Chúa Thánh Thần sẽ mở lòng trí bạn để bạn hiểu được lời bạn đọc và giúp bạn can đảm áp dụng Lời Ngài vào trong cuộc sống hằng ngày.
Thật vậy, cách thế đứng đắn để kiểm nghiệm hiệu lực của Lời Chúa là hãy đọc và làm theo những hướng dẫn của Thánh Kinh. Thánh Phaolô viết cho Ti-mô-thê-ô như sau:
Con hãy nhớ ngay từ thiếu thời con đã học biết Kinh Thánh: sách có thể dạy con nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những gì viết trong Kinh Thánh đều do Thiên Chúa mạc khải và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy người của Thiên Chúa nên thập toàn và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành (2Tim 3,15-17).
XIV. TẠI SAO TIN LỜI CẦU NGUYỆN ?
- Chúng ta có thể cầu nguyện như thế nào?
- Thiên Chúa có nghe lời cầu nguyện của chúng ta không?
-------------------------------------------------------------------
Cầu nguyện là nói chuyện và lắng nghe. Một tình bạn chân thật luôn cần có hai yếu tố này. Và sự liên hệ giữa Thiên Chúa với người Kitô hữu được xem là một tương quan bạn hữu. Như thế, cầu nguyện là cách thế thích hợp để tăng triển mối tình đó.
Đối với người Kitô hữu, cầu nguyện cần thiết như không khí cho buồng phổi và tự nhiên như hơi thở của con người. Chúng ta có thể nói với Chúa bất cứ điều gì và lúc nào cũng được. Cầu nguyện liên kết chúng ta với Ngài một cách trực tiếp.
Cầu nguyện không phải chỉ là xin ơn, nhưng trước hết đó là ý thức sự hiện diện của Chúa và chân thành chia sẻ với Ngài tất cả những gì xảy ra trong đời sống của mình. Lời cầu nguyện có thể nói ra hoặc âm thầm bên trong. Thiên Chúa toàn năng biết rõ mọi sự. Cũng giống như cha mẹ thích nghe con cái mình tâm sự, Thiên Chúa cũng muốn nghe biết tất cả những vui mừng và hy vọng, những sợ hãi và lo âu của chúng ta.
Khi còn ở trần gian, chính Chúa Giêsu cũng đã cầu nguyện. Nếu Ngài còn cảm thấy cầu nguyện cần thiết, thì đối với chúng ta, môn đệ của Ngài, lại càng phải cảm thấy cầu nguyện cần đến như thế nào! Với Ngài, cầu nguyện không chỉ là một bổn phận nhưng còn là một thích thú, người Kitô hữu cũng phải có tâm tình đó khi cầu nguyện.
Cầu nguyện giúp khai mở sự thông hiệp giữa Thiên Chúa và đối tượng mà lời cầu của chúng ta nhắm đến. Chúng ta không cần phải dài dòng. Chỉ đơn sơ phó thác cho Ngài người chúng ta muốn cầu nguyện với những vấn đề cá biệt của người đó.
Một trong những hình ảnh thật đẹp về lời cầu nguyện là câu chuyện Tân Ước kể lại về bốn người bạn muốn đưa người bất toại đến xin Chúa Giêsu chữa lành. Họ không thể đến gần Ngài được vì đám đông chen lấn. Vì thế, họ leo lên mái nhà. Trổ một lỗ hổng để thòng dây thả người bạn xuống trước mặt Chúa Giêsu. Họ không cần nói Chúa Giêsu phải làm gì, chỉ đơn giản đem bạn mình đến và hoàn toàn phó thác nơi Ngài.
Thiên Chúa luôn lắng nghe và đáp ứng lời ta kêu cầu theo cách thức và thời điểm riêng của Ngài. Có lúc Ngài mau mắn đáp ứng lời ta cầu, có lúc lại không, và cũng có lúc Ngài đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi. Như vậy chúng ta phải cầu nguyện như thế nào?
Sau đây là một vài hướng dẫn giúp bạn cầu nguyện, nhưng không phải là những công thức tiền chế cứng nhắc. Bạn có thể tùy nghi thay đổi.
- Giây phút thinh lặng
Ý thức mình đang hiện diện với Chúa. Bạn có thể dùng một đoạn Kinh Thánh nào đó để giúp suy niệm: chẳng hạn Thánh Vịnh 95 hoặc 100. Bạn hãy thuởng thức sự an bình trong giây phút thinh lặng này và phó thác vào tình yêu Ngài dành cho bạn.
- Xin tha thứ
Mỗi người chúng ta cần được Thiên Chúa thứ tha thường xuyên. Vì thế, trước khi cầu nguyện chúng ta xin Chúa tha thứ những gì chúng ta đã nói hay hành động gây đau khổ hoặc lo âu cho người khác hoặc trực tiếp xúc phạm đến Chúa.
- Tạ ơn
Dành đôi phút để nhớ lại những ơn Thiên Chúa ban cho ta. Chúng ta luôn luôn có lý do để tạ ơn Ngài.
- Cầu cho người khác
Nên có một danh sách của những người cần được chúng ta cầu xin: gia đình, bạn bè, Giáo Hội, lãnh tụ quốc gia... Bạn hãy cầu nguyện khi xem thấy những tin tức đặc biệt trên TV hoặc báo chí.
- Cầu cho chính mình
Bạn hãy để ý đến mọi khía cạnh của cuộc sống. Hãy mở cửa tâm hồn và chia sẻ với Chúa những lo âu, hy vọng hay dự tính của bạn.
- Cầu cho các tín hữu khác
Thật vui mừng nếu bạn cùng chia sẻ cầu nguyện với những Kitô hữu khác. Chúa Giêsu hứa hiện diện khi có hai hay ba người họp lại vì danh Ngài. Hãy cầu nguyện liên lỉ không ngừng. Bạn không cần phải nhắm mắt mới có thể cầu nguyện được. Hãy cầu nguyện trong mọi lúc. Bạn hãy sống đời cầu nguyện để được liên tục kết hiệp với Thiên Chúa, là Chúa và là nguời bạn chân thành của bạn.
XV. TẠI SAO TIN CÓ SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ?
- Chuyện gì xảy ra sau khi chết?
- Có sự sống đời sau không?
--------------------------------------------------------------------------
Sự chết xem ra là một biến cố chung cuộc. Thân xác đã một thời sinh động, tươi tốt nay trở thành xám xịt, cứng nhắc. Có cần phải đợi đến khi chúng ta thấy được chuyện gì xảy ra dưới nấm mồ, chúng ta mới tin thật sự có cuộc sống đời sau không?
Con người luôn luôn tin có một cái gì đó sau khi chết. Ngay từ thời xa xưa, người ta đã có thói quen đặt trong mộ người chết những dụng cụ làm việc và cả thức ăn vì tin rằng người chết có thể cần đến những vật dụng này trên hành trình đi về cuộc sống mới. Tuy nhiên, niềm sợ hãi vẫn còn đó. Cuộc sống dưới nấm mồ xem ra vẫn là một ý tưởng mơ hồ không gì bảo đảm. Chúng ta thường than thở: "Phải chi có ai đó từ cõi chết trở về nói cho chúng ta biết về cuộc sống bên kia!"
Chung cuộc, "một ai đó" đã thật sự trở về từ cõi chết: đó là Chúa Giêsu Kitô. Thật ra, chỉ mình Ngài mới có thể nói một cách có uy thế về cuộc sống bên kia, vì Ngài đã từ trời xuống thế làm người, đã kinh qua tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống con người, và đã chết thật sự. Nhưng sự chết không thể giữ mãi được Ngài. Ngài đã đánh bại sự chết và vinh thắng khải hoàn. Ngài biết rõ ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có một thế giới vĩnh cửu. Vì thế, Ngài có thể nói đến thế giới vĩnh cửu này bằng kinh nghiệm chắc chắn. Đó là Thiên Đàng và Hỏa Ngục.
Hỏa Ngục là nơi không có Thiên Chúa và tình yêu của Ngài hiện diện. Chúa Giêsu diễn tả Hỏa Ngục như là nơi tối tăm, khóc lóc, đau khổ. Thiên Chúa không xô đẩy ai vào Hỏa Ngục cả, nhưng mỗi người tùy sự chọn lựa của mình - từ chối ơn tha thứ - mà tự kết thúc đời mình ở nơi đó. Bác sĩ khám bệnh, cho toa thuốc để cứu chữa, nhưng nếu bệnh nhân từ chối, không nghe theo lời bác sĩ, chắc chắn người bác sĩ đó không có lỗi nếu bệnh nhân từ trần. Cũng vậy, Thiên Chúa ban cho mọi người chúng ta phương thuốc cứu chữa, nhưng nếu chúng ta quay mặt chối từ, chúng ta sẽ gặp nguy hiểm. Và chúng ta phải chịu trách nhiệm về quyết định đó của chúng ta. "Ơn cứu độ chúng ta đến từ một mình Ngài. Trong vũ trụ này không có ai khác được Thiên Chúa sai đến có thể cứu được chúng ta".
Chúa Giêsu nói về Thiên Đàng như là một căn nhà, nhà của toàn dân Thiên Chúa. Cuộc sống trần gian quá ngắn ngủi. Thời gian qua mau. Kinh Thánh cho biết chúng ta không thuộc về thế giới này, nhưng chỉ là những người lữ hành tạm bợ. Đối với người Kitô hữu, căn nhà và quê hương thật ở trên trời.
Kinh Thánh cũng trình bày Thiên Đàng bằng hình ảnh một nơi đầy yêu thương, vui mừng và bình an, không thể dùng lời để nói hết được. Cuộc sống mới sẽ không còn chết chóc, không còn sự dữ, bạo lực, không còn tội ác, lo âu, đau khổ.
Chúa Giêsu hứa cho chúng ta sống lại và ban cho chúng ta một thân xác mới, như lời Thánh Phaolô quả quyết trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô đoạn 15. Giống như loài chim có thân xác đặc biệt để bay trên vòm trời, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta một thân xác thích hợp để sống với Ngài ở trên trời. Cũng sẽ có một liên hệ nào đó giữa thân xác chúng ta hiện nay và thân xác mới sau này giống như nụ hoa và cây hoa sinh ra nó. Bông hoa này đẹp hơn bông hoa kia. Thánh Phaolô kết thúc đoạn thư này như sau: "Chúng ta sẽ được biến đổi. Cái thân xác phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt. Tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng".
Những ai yêu mến Chúa Giêsu và tin ở Ngài đều không sợ chết. Khi thân xác chúng ta chết - điều này chắc chắn xảy đến - con người thật của chúng ta, tức là thần khí, linh hồn, sẽ đi thẳng đến gặp Chúa Giêsu. Mọi việc xảy ra giống như sau giấc ngủ, chúng ta tỉnh dậy thấy Ngài trước mặt và từ đó được sống với Ngài luôn mãi.
"Không mắt nào được thấy, tai nào được nghe những gì Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai Ngài yêu thương".
"Chúng ta là công dân của nước trời và chúng ta đợi chờ Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đến từ trời cao. Ngài sẽ biến đổi thân xác hay hư nát của chúng ta thành thân xác vinh quang như Ngài".
XVI. TẠI SAO TIN CHÚA GIÊSU SẼ TRỞ LẠI ?
- Lịch sử nhân loại sẽ kết thúc như thế nào?
----------------------------------------------------------------
"Đức Giêsu, Đấng lìa bỏ thế gian và được rước lên trời, cũng sẽ trở lại y như các ông đã thấy Ngài lên trời". Những lời này được thiên thần nói với các tông đồ ngay khi Chúa Giêsu vừa lên trời.
Chúa Giêsu đến trần gian lần thứ nhất trong khiêm hạ và chỉ có một số ít người đến chào mừng Ngài. Ngài đến để cứu chữa những người lầm lạc và cuối cùng Ngài chịu đau khổ và chết trên thập giá... Nhưng ngoài những điều này, chúng ta còn nghe lập lại nhiều lần việc Ngài sẽ trở lại trong uy quyền và vinh quang.
Việc Chúa Giêsu đến lần thứ hai sẽ đánh dấu ngày tận cùng của thế giới này. Nếu lần thứ nhất Ngài đến như người phục vụ và là Đấng Cứu Chuộc, lần thứ hai Ngài sẽ trở lại như một Thiên Chúa toàn năng.
Ngài sẽ trở lại như thế nào ?
Chúa Giêsu cho chúng ta biết Ngài sẽ trở lại như kẻ trộm ban đêm, lúc chúng ta không thể ngờ được và thế gian không kịp chuẩn bị. Nhưng cuộc trở lại này sẽ có tính cách công khai và tỏ tường, được tỏ bày cho toàn thể tạo vật . Đó sẽ là một cuộc trở lại đầy vinh quang. Ngài sẽ đến từ trời trong uy quyền và ngày đó đánh dấu ngày tận cùng của thế giới. Trái đất này sẽ bị tiêu hủy. Rồi sẽ có một trời mới và đất mới. Thánh Phê-rô diễn tả ngày này cách sống động như sau:
Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị tiêu hủy. Nhưng chúng ta đợi chờ điều mà Thiên Chúa đã hứa với chúng ta, đó là trời mới và đất mới, nơi công lý sẽ ngự trị (2 Phê rô 3,10-13).
Đức Giêsu, Đấng sẽ đến, cũng chính là Đấng đã đến trần gian lần thứ nhất, nhưng đó sẽ là ngày phán xét. Những ai nhận biết và yêu mến Ngài sẽ được tách ra khỏi những kẻ chối bỏ Ngài.
Bạn hãy hình dung một cảnh xử ở phiên tòa. Bị cáo là người có tội. Vị quan tòa mặc dù không ghét bỏ gì bị cáo - và có thể ông rất thương người đó, muốn tha bổng luôn - nhưng ông phải tôn trọng luật lệ nên đành phải tuyên án.
Trong ngày đó, Chúa Giêsu sẽ là vị quan tòa và phán quyết của Ngài sẽ tuyệt đối công minh. Ngài sẽ xem xét thật kỹ những gì mỗi người đã làm trong cuộc sống. Và bất kỳ quyết định nào của Ngài cũng có tính cách chung cuộc không thể đổi thay. Như chúng ta đã biết, cuộc sống này sẽ qua đi, nhưng còn có một cuộc sống khác, đầy hạnh phúc vinh quang, đang đợi chờ con cái của Thiên Chúa. Những người này không phải trả hình phạt nào nữa vì Chúa Giêsu đã xóa bỏ án phạt đó với cái chết của Ngài.
Khi nào Chúa Giêsu sẽ trở lại ?
Câu trả lời thật đơn giản: chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được ngày đó. Bằng một ngôn ngữ "huyền bí", Chúa Giêsu cho chúng ta biết những dấu chỉ báo hiệu ngày Ngài trở lại:
Sẽ có nhiều tai ương trong trời đất, động đất, đói kém, chiến tranh, bạo quyền và áp bức; nhiều Kitô hữu sẽ bị bắt hại. Dân này sẽ nổi lên chống lại dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện tự xưng là Thiên Chúa hoặc nói về Ngài. Nhưng Tin mừng của Chúa Giêsu phải được loan báo trên khắp thế giới.
Thật ra, những sự việc đó vẫn tiếp tục xảy ra cho đến bây giờ và càng ngày càng thấy nhiều hơn. Tuy nhiên, chúng ta không thể biết chắc ngày giờ nào Chúa Giêsu sẽ trở lại. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở chúng ta hãy sẵn sàng bất cứ lúc nào để chuẩn bị cho cái chết chắc chắn sẽ đến của mỗi người chúng ta, đồng thời đón chờ ngày trở lại của Chúa Giêsu.
"Hãy sẵn sàng vì anh em không biết lúc nào Chúa Giêsu sẽ trở lại".
"Hãy ở lại trong Đức Kitô, như thế khi Ngài xuất hiện, chúng ta đủ can đảm và không phải xấu hổ ra trước mặt Ngài".
Nguyên tác: Why Believe ?
của Norman Warren, Lion Publishing, Oxford, 1992.
Chuyển ý: Hi Hiền