Ngày 22 tháng 7 năm 2013
Thánh nữ Maria Magdala
Thánh nữ Maria Magdala và Đức Ki-tô
(Ga 20, 1-2.11-18)
Sự hiện diện của các phụ nữ đi theo Đức Giê-su không được nhắc tới nhiều trong giai đoạn rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu ; chỉ có mỗi một lần, các bà được nhắc đến một cách long trọng trong Tin Mừng theo thánh Luca: “Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa” (Lc 8, 1-3). Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu tiên của biến cố Phục Sinh, sự hiện của các bà được đặc biệt nhấn mạnh, không phải bởi một Tin Mừng, nhưng bởi cả bốn TM. Thật vậy, các TM đều nói về các bà và nói theo những cách khác nhau, như Giáo Hội sẽ cho chúng ta nghe lại trong Mùa Phục Sinh (Mt 28, 1-10; Mc 16, 1-8; Lc 24, 1-7 và Ga 20, 1-2. 11-18).
Thánh nữ Maria Magdala
Thánh nữ Maria Magdala và Đức Ki-tô
(Ga 20, 1-2.11-18)
Sự hiện diện của các phụ nữ đi theo Đức Giê-su không được nhắc tới nhiều trong giai đoạn rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu ; chỉ có mỗi một lần, các bà được nhắc đến một cách long trọng trong Tin Mừng theo thánh Luca: “Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa” (Lc 8, 1-3). Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu tiên của biến cố Phục Sinh, sự hiện của các bà được đặc biệt nhấn mạnh, không phải bởi một Tin Mừng, nhưng bởi cả bốn TM. Thật vậy, các TM đều nói về các bà và nói theo những cách khác nhau, như Giáo Hội sẽ cho chúng ta nghe lại trong Mùa Phục Sinh (Mt 28, 1-10; Mc 16, 1-8; Lc 24, 1-7 và Ga 20, 1-2. 11-18).
Như thế, hình ảnh người phụ nữ được đưa lên hàng đầu trong thời điểm trọng đại : khởi đầu mới của Đức Ki-tô, của các môn đệ và Giáo Hội, của toàn lịch sử và nhân loại. Vai trò của các phụ nữ được ưu tiên trong giai đoạn mới của lịch sử cứu độ. Nhưng đây không phải là lần đầu, hay là điều bất thường, nhưng là sự ưu ái xuyên suốt của Thiên Chúa dành cho các phụ nữ, trong sáng tạo và lịch sử: bà Eva, bà Sara, bốn người phụ nữ được nêu danh trong chính gia phả của ĐGS (Tama, Ra-kháp, Rút và Batseva), theo TM Mát-thêu (Mt 1, 1-17), và nhất là Đức Maria. Đặc biệt, lời hứa chiến thắng Sự Dữ được ban cho bà E-và và bà được ban cho danh hiệu cao quí : « Mẹ của mọi chúng sinh » (St 3, 15.20), cho dù đã vi phạm lệnh truyền !
1. Thánh nữ Maria Magdala
Trong số các bà, Maria Magdala là nổi bật nhất. Bà được cả bốn Tin Mừng nêu đích danh trong các trình thuật phục sinh : Mt 28, 1 ; Mc 16, 1 ; Lc 24, 10. Hãy nhìn ngắm bà Maria : cùng với Đức Mẹ, có mặt dưới chân thập giá (Ga 19, 25). Vậy bà là ai ? Bà là người phụ nữ được Đức Giêsu trừ khỏi 7 quỉ (Lc 8, 1-3). khỏi bảy 7 quỉ nghĩa là khỏi hết mọi loại quỉ (nhưng thứ ma quỉ giả dạng thiên thần chuyên gợi ra ở bên trong tâm trí chúng ta những ý tưởng, những hình ảnh, những cách hiểu và giải thích, những hướng đi lệch lạc ; thứ quỉ này mới nguy hiểm, như thánh I-nhã mô tả trong sách Linh Thao; ma quỉ phá phách bên ngoài chỉ làm cho chúng ta tin cậy vào Chúa hơn mà thôi) ; khỏi 7 quỉ còn có nghĩa là bà được chữa lành khỏi mưu chước của ma quỉ, nghĩa là của con rắn theo St 3[1], một cách triệt để. Điều này làm cho chúng ta hiểu tại sao bà gắn bó với Đức Giêsu đến như vậy ; bà gắn bó với Thầy của mình trong những lúc thử thách nhất, bi đát nhất và đen tối nhất ; bà gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì hơn là một thân xác nát tan. Đặc biệt, Tin Mừng Gioan kể về bà một cách rất ưu ái :
Ø Bà ra thăm mộ một mình thật sớm, lúc trời còn tối, không sợ hãi. Điều gì đã làm cho bà không sợ hãi ? Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, đó là một nhóm các bà ; ở đây, thánh Gioan mời gọi tập trung cái nhìn của chúng ta nơi một mình bà Maria Magdala, đại diện cho mọi người phụ nữ được chữa lành và vì thế, hết lòng gắn bó với Đức Ki-tô.
Ø Bà là « cầu nối » giữa Đức Ki-tô chết và phục sinh với các môn đệ. Thật vậy, bà đi ra mộ ; rồi bà chạy về báo cho các tông đồ Phêrô và Gioan (c. 2) ; bà lại chạy ra cùng với hai ông (c. 11) ; hai ông trở về nhà ; còn các ông khác thì một số sợ hãi ẩn mình, một số khác chán nản bỏ cuộc ; chỉ có một mình Maria « đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc và cúi nhìn vào trong mộ ». Và sau khi được ĐKT Phục Sinh cho nhận biết Người, bà được trao sứ mạng trở về loan báo Tin Mừng cho các môn đệ (c. 18).
Ø Chưa hết, bà được hai thiên thần hiện ra hỏi thăm : « Này bà, sao bà khóc » ; và rồi chính Đức Ki-tô đến bên bà hỏi thăm : « Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ? » Bà vẫn gắn bó với thân hình bất động và tan nát của Ngài, khiến Chúa chạnh lòng thương.
2. Maria và các dấu chỉ Phục Sinh
Chúng ta hãy quan sát các nhân vật và diễn biến của sự kiện, đừng quên khung cảnh thiên nhiên : « Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối » ; đó là khởi đầu của một ngày mới, khởi đầu của một tuần mới, của một giai đoạn mới, khởi đầu của một sự sống mới : nơi đó, ánh sáng đánh tan bóng tối, sự sống chiến thắng sự chết.
Chúng ta hãy nhìn ngắm Maria thật chăm chú và hãy cảm nhận những chuyển động nội tâm của bà, khi bà chợt thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Hình như bà chạy về ngay mà không cần đi vào mộ để xác minh cho chính xác chuyện gì đã xẩy. Có lẽ bà hơi vội vàng, nhưng đó cũng là linh tính và linh tính này làm bà nói với Phêrô và Gioan với sự chắc chắn : « Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ » ; và thực tế cho thấy linh tính của bà thật chính xác, vì hai vị tông đồ sau đó chạy ra và thấy y như vậy ! Nhưng dù sao giả định tự phát : « người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu » cũng đáng cho chúng ta để ý, bởi vì biến cố phục sinh vượt xa mọi dự đoán và niềm tin của con người : « Xin để lúc khác hãy nói », người Hi-Lạp nói với thánh Phao-lô như thế, khi Ngài công bố Đức Ki-tô phục sinh từ cõi chết.
Chúng ta hãy cảm nhận sự lo âu và hốt hoảng trong lời nói của Maria, và hãy cảm nếm tình yêu của bà đối với thân xác bất động của Thầy Giêsu. Hai vị tông đồ bỏ về, nhưng Maria vẫn ở lại, đứng ở ngoài, gần bên mộ mà khóc. Hãy nghe tiếng khóc và tiếng lòng của bà. Bà gắn bó Thầy biết bao, khi mà Thầy chẳng còn là gì. Bà gắn bó với thân xác của Thầy đến độ hỏi thăm cả các thiên thần; và còn muốn đem xác Ngài về. Trong khi toàn bộ khung cảnh, toàn bộ thế giới nhỏ bé bao quanh bà là dấu chỉ của Sự Sống Mới.
Ø Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần : nghĩa là vào lúc ánh sáng đẩy lui bóng tối của đêm đen. Hình ảnh thiên nhiên này diễn tả sự chiến thắng trên sự chết của ĐKT phục sinh. “Ngày thứ nhất trong tuần » : ngày thứ nhất trong tuần là ngày của ánh sáng theo St 1, 3. Và Đức Ki-tô phục sinh chính là Ngôi Lời ánh sáng, theo Ga 1, 9. Những dấu chỉ thiên nhiên này loan báo tuần mới và sáng tạo mới, đã bắt đầu rồi. Và những dấu chỉ này vẫn được ban cho chúng ta mỗi ngày.
Ø Ngôi mộ trống. Có lẽ, gọi là « ngôi mộ mở » thì hay hơn. Vì mộ phần, tượng trưng cho sự chết, không giam hãm được Đức Ki-tô. Trong khi hình ảnh « ngôi mộ trống » nghiêng về ý nghĩa tiêu cực nhiều hơn, vì « trống » có nghĩa là người chết bị lấy đi hay biến mất tiêu, như bà Maria nói với các Tông Đồ : « Người ta đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu » ! Bà nhìn thấy « ngôi mộ mở », nhưng lại hiểu rằng, đó là « ngôi mộ trống ».
Ø Ngoài ra, bên trong mộ vẫn còn những băng vải được để một nơi và khăn che đầu được cuộn lại và xếp riêng ra một nơi. Biến cố Đức Kitô sống lại không ai được chứng kiến, nhưng Ngài để lại các dấu chỉ ; vì khi ăn trộm xác, không ai lại cẩn thận như thế. Chúa thích chúng ta « đoán ra » Ngài hơn là buộc ngài phải tỏ mình ra (x. Ga 20, 29), và hôm nay Chúa vẫn thích như thế ; đoán ra Ngài qua các dấu chỉ Ngài để lại cho chúng ta, nhất là dấu chỉ Sách Thánh và dấu chỉ Bẻ Bánh, cũng như những dấu chỉ của thiên nhiên, của cuộc sống, của cuộc đời mỗi người.
Ø Cuối cùng, hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân ; đó là biểu tượng của sự sống hoàn toàn mới phát sinh ngay giữa lòng sự chết và xâm nhập vào cõi chết.
3. Hành trình nhận biết Đức Kitô Phục sinh
Đức Ki-tô phục sinh không tỏ mình ra ngay, như ở đây và trong các trường hợp khác, nhất là đối với hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24, 13-35). Chúng ta có thể tự hỏi tại sao? Bởi vì Người đã đi vào trong sự sống mới, phi không gian và thời gian, sự sống vĩnh cửu; do đó, Người muốn giúp chúng ta nhận ra Người ngang qua các dấu chỉ, dấu chỉ Kinh Thánh, dấu chỉ bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể; và dưới ánh sáng của các dấu chỉ Kinh Thánh và Bẻ Bánh, chúng ta nhận ra Người nơi các dấu chỉ trong cuộc sống.
Và Người tỏ mình ra cho mỗi người mỗi cách, mỗi nhóm mỗi cách. Xin cho chúng ta, khi chiêm ngắm cách thức Đức Ki-tô tỏ mình ra cho bà Maria, nhận ra cách thức ĐKT phục sinh tỏ mình ra cho chúng ta, một cách thiết thân và riêng biệt. Chúng ta cùng nhìn lại từ đầu:
Ø Trước hết chúng ta cần lưu ý đến các dấu chỉ thiên nhiên; tiếp theo là dấu chỉ “ngôi mộ mở”, cùng với các băng vải được xếp gọn gàng.
Ø Bà hoàn toàn hướng về bên trong mộ với nước mắt, với con tim thổn thức: bà quay ra, rồi lại quay vô; và cuối cùng thì quay ra hoàn toàn để gặp gỡ và chiêm ngắm ĐKT sống động ở bên ngoài mộ phần. Nhưng, cũng chính tại nơi bà hướng đến, nghĩa là mộ phần, cũng đã có dấu chỉ của sự sống thần linh: đó là sự hiện diện của hai thiên thần, hiện diện chính xác tại nơi đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân.
Ø Chúng ta hãy lắng nghe lời đối thoại. Trước khi mở lối và ban ơn nhận biết sự hiện diện thần linh vượt không gian và thời gian, Đấng Phục Sinh và các sứ thần đã quan đến những nỗi khổ và cùng đồng hành với bà Maria: “Này bà, sao bà khóc?”. Tương tư như trường hợp hai môn đệ Emmau: “các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17).
Ø Bà Maria trả lời thiên thần, hiện diện ngay trong ngôi mộ: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại, nghĩa là quay ra phía ngoài. Tại sao đang hướng về bên trong ngôi mộ, bà là quay ra, để có thể thấy Đức Ki-tô đứng đó, nhưng bà không nhận ra? Rõ rằng, sự hiện hiện của Chúa vượt qua bình diện thể lí: Ngài vẫn là Đấng đã bị đóng đinh, nhưng đã chiến thắng sự chết, đã đi vào sự sống mới và không bao giờ chết nữa.
Ø ĐKT hỏi bà cùng một câu hỏi của các thiên thần, nhưng thêm: “Bà tìm ai?” Người muốn giúp bà hướng tới Đấng đã chết, nhưng đã vượt qua sự chết. Nhưng bà tưởng là người làm vườn. Tại sao là người làm vườn? Dáng hình của ĐKT phục sinh như thế nào, để bà nhìn ra người làm vườn, chứ không phải một nhân vật xa cách, hay như cuộc “thần hiện” gây sợ hãi hay mặc cảm bất xứng?
Ø Bà lên tiếng: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” Tại sao bỗng nhiên, gặp nhiều người như vậy trong khu vườn vào lúc sáng sớm, mà bà vẫn không hoảng hốt? Câu trả lời nằm ngay trong lời của bà: bà chỉ quan tâm đến Thầy của bà mà thôi. Nói xong, bà lại quay trở lại bên trong mộ.
Ø Cuối cùng Đức Ki-tô phục sinh gọi tên của bà: “Maria”; và lần này, bà hướng hẳn ra ngoài và đáp lại: “Rabuni”. Bà hết lòng đi tìm Đức Giê-su đã chết, những lại được ơn nhận ra Người, khi Người gọi tên mình. Bởi lẽ, những người sống mới có thể gọi tên nhau. Hai người gọi tên nhau, khi nhận ra nhau.
Như thế, chính lúc bà Maria đi tìm Thầy đã chết, lại là lúc bà nghe được một tiếng nói sống động gọi tên của mình : « Maria » ; và khi nghe được tiếng gọi, đó cũng chính là lúc nhận ra sự hiện diện. Cũng tương tự như kinh nghiệm nghe được tiếng nói sống động của Đức Kitô ngỏ với chúng ta một cách đích thân khi chúng ta đọc và cầu nguyện với Lời Chúa. Hãy dừng lại thật lâu để chiêm ngắm cuộc gặp gỡ hoàn toàn và tuyệt đối bất ngờ này. Hãy xin để được cùng chung vui với niềm vui lớn lao của cuộc tái gặp gỡ này. Maria đi tìm thân xác đã chết của Chúa, nhưng bà lại được gặp thân xác Phục Sinh rạng ngời của Ngài. Đức Giêsu đã từng nói rằng khi từ bỏ để dấn thân, anh chị em sẽ được gấp trăm, rằng khi liều mất mạng sống sẽ được ban lại sự sống ; với kinh nghiệm gặp gỡ bất ngờ tuyệt đối này, chúng ta mới hiểu được những lời « kì cục » đó của Thày Giêsu. Hãy nhìn ngắm Maria chìm ngập trong niềm vui, trong ơn an ủi khôn tả và chia vui với bà: chắc chắn bà đã lao đến ôm chân Đức Kitô (x. Mt 28, 9), vì sau đó Ngài nói: “Thôi đừng giữ Thầy lại”. Và cũng chắc rằng Ngài đã cứ để như thế một lúc thật lâu. Thật là thân thương! Xin Đức Kitô hôm nay tỏ mình ra và cho chúng ta nhận ra Ngài, theo cách thức mà Ngài muốn, như Ngài đã thực hiện đối với Maria, đối với thánh Phaolô. Đó là dấu chỉ hiển nhiên và vững chắc của đức tin và ơn gọi.
* * *
Vẫn chưa hết, chính Maria là người đầu tiên được Đức Kitô trao sứ mạng loan báo Tin Mừng, không phải cho muôn dân ngay tức thì, nhưng trước hết cho chính các anh em của Ngài, nghĩa là cho các tông đồ và các môn đệ (toàn là « các đấng các bậc » !). Vì thế, Truyền Thống GH tặng cho thánh nữ danh hiệu « Tông Đồ của các Tông Đồ ». Sứ mạng này vẫn còn được Đức Kitô phục sinh trao cho các phụ nữ hôm nay, trong đó một cách rất đặc biệt cho các nữ tu !
Nội dung lời loan báo là : « Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em ». Tin Mừng này chất chứa lòng ước ao bừng cháy của Thầy Giêsu : thông truyền cho anh chị em của Ngài tất cả những gì Ngài là : « Cha của Thầy cũng là Cha của anh chị em, Thiên Chúa của thầy cũng là Thiên Chúa của anh chị em. » Như thế, trong và qua Đức Kitô Phục Sinh, một tương quan mới được khai mở cho chúng ta:
· Đó là tương quan đích thân “Maria” – “Thầy Giêsu”; nhưng tương quan này không còn lệ thuộc vào hiện diện thể lý, vì Đức Kitô Phục Sinh nói : “Đừng giữ Thầy lại”.
· Chúng ta trở nên « anh chị em của Thầy”, bởi vì “Cha của Thầy cũng là Cha của anh chị em”, Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh chị em ». Chúng ta được mời gọi lựa chọn đời tu, trong đó có lựa chọn đời độc thân, chính là để sống triệt để và làm chứng cho những tương quan hoàn toàn mới này: mọi người là môn đệ của Đức Giêsu và là con cái của Cha, vì vậy mọi người là anh chị em của nhau, vượt qua vô hạn tương quan huyết thống.
Đó chính là hoa trái mà sức sống mới của Đức Kitô Phục Sinh ước ao thông tuyền cho chúng ta. Trình thuật về cách Maria thi hành sứ mạng Đức Kitô uỷ thác thật ngắn, nhưng lại nói lên tất cả : đi gặp gỡ người khác, chia sẻ kinh nghiệm đích thân : « tôi đã thấy Chúa » ; và bà truyền đạt lại điều Chúa đã nói với bà.
Hành trình đi theo Chúa của Maria là một hành trình thật đẹp và đáng ước ao. Hành trình này cần được tái hiện lại trong hành trình theo Đức Giêsu-Kitô của mỗi người chúng ta.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ
[1] Trong St 3, con rắn đã dựa vào lệnh truyền của Thiên Chúa để làm cho Evà và Adam quên đi ơn huệ, từ đó dẫn đến sự nghi ngờ Thiên Chúa và lòng ham muốn đối tượng của lệnh cấm. Nên đọc St 3, 1-7 dưới ánh sáng của Rm 7, 7-13.
1. Thánh nữ Maria Magdala
Trong số các bà, Maria Magdala là nổi bật nhất. Bà được cả bốn Tin Mừng nêu đích danh trong các trình thuật phục sinh : Mt 28, 1 ; Mc 16, 1 ; Lc 24, 10. Hãy nhìn ngắm bà Maria : cùng với Đức Mẹ, có mặt dưới chân thập giá (Ga 19, 25). Vậy bà là ai ? Bà là người phụ nữ được Đức Giêsu trừ khỏi 7 quỉ (Lc 8, 1-3). khỏi bảy 7 quỉ nghĩa là khỏi hết mọi loại quỉ (nhưng thứ ma quỉ giả dạng thiên thần chuyên gợi ra ở bên trong tâm trí chúng ta những ý tưởng, những hình ảnh, những cách hiểu và giải thích, những hướng đi lệch lạc ; thứ quỉ này mới nguy hiểm, như thánh I-nhã mô tả trong sách Linh Thao; ma quỉ phá phách bên ngoài chỉ làm cho chúng ta tin cậy vào Chúa hơn mà thôi) ; khỏi 7 quỉ còn có nghĩa là bà được chữa lành khỏi mưu chước của ma quỉ, nghĩa là của con rắn theo St 3[1], một cách triệt để. Điều này làm cho chúng ta hiểu tại sao bà gắn bó với Đức Giêsu đến như vậy ; bà gắn bó với Thầy của mình trong những lúc thử thách nhất, bi đát nhất và đen tối nhất ; bà gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì hơn là một thân xác nát tan. Đặc biệt, Tin Mừng Gioan kể về bà một cách rất ưu ái :
Ø Bà ra thăm mộ một mình thật sớm, lúc trời còn tối, không sợ hãi. Điều gì đã làm cho bà không sợ hãi ? Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, đó là một nhóm các bà ; ở đây, thánh Gioan mời gọi tập trung cái nhìn của chúng ta nơi một mình bà Maria Magdala, đại diện cho mọi người phụ nữ được chữa lành và vì thế, hết lòng gắn bó với Đức Ki-tô.
Ø Bà là « cầu nối » giữa Đức Ki-tô chết và phục sinh với các môn đệ. Thật vậy, bà đi ra mộ ; rồi bà chạy về báo cho các tông đồ Phêrô và Gioan (c. 2) ; bà lại chạy ra cùng với hai ông (c. 11) ; hai ông trở về nhà ; còn các ông khác thì một số sợ hãi ẩn mình, một số khác chán nản bỏ cuộc ; chỉ có một mình Maria « đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc và cúi nhìn vào trong mộ ». Và sau khi được ĐKT Phục Sinh cho nhận biết Người, bà được trao sứ mạng trở về loan báo Tin Mừng cho các môn đệ (c. 18).
Ø Chưa hết, bà được hai thiên thần hiện ra hỏi thăm : « Này bà, sao bà khóc » ; và rồi chính Đức Ki-tô đến bên bà hỏi thăm : « Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ? » Bà vẫn gắn bó với thân hình bất động và tan nát của Ngài, khiến Chúa chạnh lòng thương.
2. Maria và các dấu chỉ Phục Sinh
Chúng ta hãy quan sát các nhân vật và diễn biến của sự kiện, đừng quên khung cảnh thiên nhiên : « Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối » ; đó là khởi đầu của một ngày mới, khởi đầu của một tuần mới, của một giai đoạn mới, khởi đầu của một sự sống mới : nơi đó, ánh sáng đánh tan bóng tối, sự sống chiến thắng sự chết.
Chúng ta hãy nhìn ngắm Maria thật chăm chú và hãy cảm nhận những chuyển động nội tâm của bà, khi bà chợt thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Hình như bà chạy về ngay mà không cần đi vào mộ để xác minh cho chính xác chuyện gì đã xẩy. Có lẽ bà hơi vội vàng, nhưng đó cũng là linh tính và linh tính này làm bà nói với Phêrô và Gioan với sự chắc chắn : « Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ » ; và thực tế cho thấy linh tính của bà thật chính xác, vì hai vị tông đồ sau đó chạy ra và thấy y như vậy ! Nhưng dù sao giả định tự phát : « người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu » cũng đáng cho chúng ta để ý, bởi vì biến cố phục sinh vượt xa mọi dự đoán và niềm tin của con người : « Xin để lúc khác hãy nói », người Hi-Lạp nói với thánh Phao-lô như thế, khi Ngài công bố Đức Ki-tô phục sinh từ cõi chết.
Chúng ta hãy cảm nhận sự lo âu và hốt hoảng trong lời nói của Maria, và hãy cảm nếm tình yêu của bà đối với thân xác bất động của Thầy Giêsu. Hai vị tông đồ bỏ về, nhưng Maria vẫn ở lại, đứng ở ngoài, gần bên mộ mà khóc. Hãy nghe tiếng khóc và tiếng lòng của bà. Bà gắn bó Thầy biết bao, khi mà Thầy chẳng còn là gì. Bà gắn bó với thân xác của Thầy đến độ hỏi thăm cả các thiên thần; và còn muốn đem xác Ngài về. Trong khi toàn bộ khung cảnh, toàn bộ thế giới nhỏ bé bao quanh bà là dấu chỉ của Sự Sống Mới.
Ø Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần : nghĩa là vào lúc ánh sáng đẩy lui bóng tối của đêm đen. Hình ảnh thiên nhiên này diễn tả sự chiến thắng trên sự chết của ĐKT phục sinh. “Ngày thứ nhất trong tuần » : ngày thứ nhất trong tuần là ngày của ánh sáng theo St 1, 3. Và Đức Ki-tô phục sinh chính là Ngôi Lời ánh sáng, theo Ga 1, 9. Những dấu chỉ thiên nhiên này loan báo tuần mới và sáng tạo mới, đã bắt đầu rồi. Và những dấu chỉ này vẫn được ban cho chúng ta mỗi ngày.
Ø Ngôi mộ trống. Có lẽ, gọi là « ngôi mộ mở » thì hay hơn. Vì mộ phần, tượng trưng cho sự chết, không giam hãm được Đức Ki-tô. Trong khi hình ảnh « ngôi mộ trống » nghiêng về ý nghĩa tiêu cực nhiều hơn, vì « trống » có nghĩa là người chết bị lấy đi hay biến mất tiêu, như bà Maria nói với các Tông Đồ : « Người ta đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu » ! Bà nhìn thấy « ngôi mộ mở », nhưng lại hiểu rằng, đó là « ngôi mộ trống ».
Ø Ngoài ra, bên trong mộ vẫn còn những băng vải được để một nơi và khăn che đầu được cuộn lại và xếp riêng ra một nơi. Biến cố Đức Kitô sống lại không ai được chứng kiến, nhưng Ngài để lại các dấu chỉ ; vì khi ăn trộm xác, không ai lại cẩn thận như thế. Chúa thích chúng ta « đoán ra » Ngài hơn là buộc ngài phải tỏ mình ra (x. Ga 20, 29), và hôm nay Chúa vẫn thích như thế ; đoán ra Ngài qua các dấu chỉ Ngài để lại cho chúng ta, nhất là dấu chỉ Sách Thánh và dấu chỉ Bẻ Bánh, cũng như những dấu chỉ của thiên nhiên, của cuộc sống, của cuộc đời mỗi người.
Ø Cuối cùng, hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân ; đó là biểu tượng của sự sống hoàn toàn mới phát sinh ngay giữa lòng sự chết và xâm nhập vào cõi chết.
3. Hành trình nhận biết Đức Kitô Phục sinh
Đức Ki-tô phục sinh không tỏ mình ra ngay, như ở đây và trong các trường hợp khác, nhất là đối với hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24, 13-35). Chúng ta có thể tự hỏi tại sao? Bởi vì Người đã đi vào trong sự sống mới, phi không gian và thời gian, sự sống vĩnh cửu; do đó, Người muốn giúp chúng ta nhận ra Người ngang qua các dấu chỉ, dấu chỉ Kinh Thánh, dấu chỉ bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể; và dưới ánh sáng của các dấu chỉ Kinh Thánh và Bẻ Bánh, chúng ta nhận ra Người nơi các dấu chỉ trong cuộc sống.
Và Người tỏ mình ra cho mỗi người mỗi cách, mỗi nhóm mỗi cách. Xin cho chúng ta, khi chiêm ngắm cách thức Đức Ki-tô tỏ mình ra cho bà Maria, nhận ra cách thức ĐKT phục sinh tỏ mình ra cho chúng ta, một cách thiết thân và riêng biệt. Chúng ta cùng nhìn lại từ đầu:
Ø Trước hết chúng ta cần lưu ý đến các dấu chỉ thiên nhiên; tiếp theo là dấu chỉ “ngôi mộ mở”, cùng với các băng vải được xếp gọn gàng.
Ø Bà hoàn toàn hướng về bên trong mộ với nước mắt, với con tim thổn thức: bà quay ra, rồi lại quay vô; và cuối cùng thì quay ra hoàn toàn để gặp gỡ và chiêm ngắm ĐKT sống động ở bên ngoài mộ phần. Nhưng, cũng chính tại nơi bà hướng đến, nghĩa là mộ phần, cũng đã có dấu chỉ của sự sống thần linh: đó là sự hiện diện của hai thiên thần, hiện diện chính xác tại nơi đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân.
Ø Chúng ta hãy lắng nghe lời đối thoại. Trước khi mở lối và ban ơn nhận biết sự hiện diện thần linh vượt không gian và thời gian, Đấng Phục Sinh và các sứ thần đã quan đến những nỗi khổ và cùng đồng hành với bà Maria: “Này bà, sao bà khóc?”. Tương tư như trường hợp hai môn đệ Emmau: “các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17).
Ø Bà Maria trả lời thiên thần, hiện diện ngay trong ngôi mộ: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại, nghĩa là quay ra phía ngoài. Tại sao đang hướng về bên trong ngôi mộ, bà là quay ra, để có thể thấy Đức Ki-tô đứng đó, nhưng bà không nhận ra? Rõ rằng, sự hiện hiện của Chúa vượt qua bình diện thể lí: Ngài vẫn là Đấng đã bị đóng đinh, nhưng đã chiến thắng sự chết, đã đi vào sự sống mới và không bao giờ chết nữa.
Ø ĐKT hỏi bà cùng một câu hỏi của các thiên thần, nhưng thêm: “Bà tìm ai?” Người muốn giúp bà hướng tới Đấng đã chết, nhưng đã vượt qua sự chết. Nhưng bà tưởng là người làm vườn. Tại sao là người làm vườn? Dáng hình của ĐKT phục sinh như thế nào, để bà nhìn ra người làm vườn, chứ không phải một nhân vật xa cách, hay như cuộc “thần hiện” gây sợ hãi hay mặc cảm bất xứng?
Ø Bà lên tiếng: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” Tại sao bỗng nhiên, gặp nhiều người như vậy trong khu vườn vào lúc sáng sớm, mà bà vẫn không hoảng hốt? Câu trả lời nằm ngay trong lời của bà: bà chỉ quan tâm đến Thầy của bà mà thôi. Nói xong, bà lại quay trở lại bên trong mộ.
Ø Cuối cùng Đức Ki-tô phục sinh gọi tên của bà: “Maria”; và lần này, bà hướng hẳn ra ngoài và đáp lại: “Rabuni”. Bà hết lòng đi tìm Đức Giê-su đã chết, những lại được ơn nhận ra Người, khi Người gọi tên mình. Bởi lẽ, những người sống mới có thể gọi tên nhau. Hai người gọi tên nhau, khi nhận ra nhau.
Như thế, chính lúc bà Maria đi tìm Thầy đã chết, lại là lúc bà nghe được một tiếng nói sống động gọi tên của mình : « Maria » ; và khi nghe được tiếng gọi, đó cũng chính là lúc nhận ra sự hiện diện. Cũng tương tự như kinh nghiệm nghe được tiếng nói sống động của Đức Kitô ngỏ với chúng ta một cách đích thân khi chúng ta đọc và cầu nguyện với Lời Chúa. Hãy dừng lại thật lâu để chiêm ngắm cuộc gặp gỡ hoàn toàn và tuyệt đối bất ngờ này. Hãy xin để được cùng chung vui với niềm vui lớn lao của cuộc tái gặp gỡ này. Maria đi tìm thân xác đã chết của Chúa, nhưng bà lại được gặp thân xác Phục Sinh rạng ngời của Ngài. Đức Giêsu đã từng nói rằng khi từ bỏ để dấn thân, anh chị em sẽ được gấp trăm, rằng khi liều mất mạng sống sẽ được ban lại sự sống ; với kinh nghiệm gặp gỡ bất ngờ tuyệt đối này, chúng ta mới hiểu được những lời « kì cục » đó của Thày Giêsu. Hãy nhìn ngắm Maria chìm ngập trong niềm vui, trong ơn an ủi khôn tả và chia vui với bà: chắc chắn bà đã lao đến ôm chân Đức Kitô (x. Mt 28, 9), vì sau đó Ngài nói: “Thôi đừng giữ Thầy lại”. Và cũng chắc rằng Ngài đã cứ để như thế một lúc thật lâu. Thật là thân thương! Xin Đức Kitô hôm nay tỏ mình ra và cho chúng ta nhận ra Ngài, theo cách thức mà Ngài muốn, như Ngài đã thực hiện đối với Maria, đối với thánh Phaolô. Đó là dấu chỉ hiển nhiên và vững chắc của đức tin và ơn gọi.
* * *
Vẫn chưa hết, chính Maria là người đầu tiên được Đức Kitô trao sứ mạng loan báo Tin Mừng, không phải cho muôn dân ngay tức thì, nhưng trước hết cho chính các anh em của Ngài, nghĩa là cho các tông đồ và các môn đệ (toàn là « các đấng các bậc » !). Vì thế, Truyền Thống GH tặng cho thánh nữ danh hiệu « Tông Đồ của các Tông Đồ ». Sứ mạng này vẫn còn được Đức Kitô phục sinh trao cho các phụ nữ hôm nay, trong đó một cách rất đặc biệt cho các nữ tu !
Nội dung lời loan báo là : « Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em ». Tin Mừng này chất chứa lòng ước ao bừng cháy của Thầy Giêsu : thông truyền cho anh chị em của Ngài tất cả những gì Ngài là : « Cha của Thầy cũng là Cha của anh chị em, Thiên Chúa của thầy cũng là Thiên Chúa của anh chị em. » Như thế, trong và qua Đức Kitô Phục Sinh, một tương quan mới được khai mở cho chúng ta:
· Đó là tương quan đích thân “Maria” – “Thầy Giêsu”; nhưng tương quan này không còn lệ thuộc vào hiện diện thể lý, vì Đức Kitô Phục Sinh nói : “Đừng giữ Thầy lại”.
· Chúng ta trở nên « anh chị em của Thầy”, bởi vì “Cha của Thầy cũng là Cha của anh chị em”, Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh chị em ». Chúng ta được mời gọi lựa chọn đời tu, trong đó có lựa chọn đời độc thân, chính là để sống triệt để và làm chứng cho những tương quan hoàn toàn mới này: mọi người là môn đệ của Đức Giêsu và là con cái của Cha, vì vậy mọi người là anh chị em của nhau, vượt qua vô hạn tương quan huyết thống.
Đó chính là hoa trái mà sức sống mới của Đức Kitô Phục Sinh ước ao thông tuyền cho chúng ta. Trình thuật về cách Maria thi hành sứ mạng Đức Kitô uỷ thác thật ngắn, nhưng lại nói lên tất cả : đi gặp gỡ người khác, chia sẻ kinh nghiệm đích thân : « tôi đã thấy Chúa » ; và bà truyền đạt lại điều Chúa đã nói với bà.
Hành trình đi theo Chúa của Maria là một hành trình thật đẹp và đáng ước ao. Hành trình này cần được tái hiện lại trong hành trình theo Đức Giêsu-Kitô của mỗi người chúng ta.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ
[1] Trong St 3, con rắn đã dựa vào lệnh truyền của Thiên Chúa để làm cho Evà và Adam quên đi ơn huệ, từ đó dẫn đến sự nghi ngờ Thiên Chúa và lòng ham muốn đối tượng của lệnh cấm. Nên đọc St 3, 1-7 dưới ánh sáng của Rm 7, 7-13.