Trong những ngày gần đây, Ki-tô hữu khắp nơi đang chứng kiến những bước khởi đầu của một cuộc canh tân mà Đức Giáo Hoàng Phanxico đã vạch ra từ khi Ngài được chọn làm Giáo Hoàng. Đây không phải là một điều gì mới mẽ mà là sự tiếp nối công trình của công đồng Vat II.
Gợi hứng từ lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng, chúng tôi mạn phép đề cập đến một trong những vấn đề đã và đang được bàn thảo: “canh tân tinh thần hay cơ chế?”. Vấn đề này có tầm mức quá rộng so với chủ đích của tập san. Chúng tôi chỉ nêu lên một vài suy nghĩ chứ không nhằm phê bình, được gói gọn trong phạm vi đời sống thánh hiến, đặc biệt là đời sống chiêm niệm. Theo hướng đi này, xin mạn phép trình bày bốn vấn đề:
- Canh tân tinh thần hay cơ chế?
- Tinh thần nào?
- Canh tân để làm gì?
- Vài suy tư về việc canh tân trong đời sống đan tu Việt Nam hôm nay.
I. Canh tân tinh thần hay cơ chế?
Ngay từ Giáo Hội sơ khai, khi Ki-tô giáo bắt đầu những bước chập chững sống tinh thần Tin Mừng Chúa Ki-tô thì cả hình thức suy tư, cũng như cách thức thể hiện đã chịu ảnh hưởng Do-thái giáo rất nhiều. Tính chất “Do thái-Ki-tô giáo” là điều cần thiết cho bước khởi đầu của một tinh thần mới và đó là điều hết sức tự nhiên. Bởi lẽ những tín hữu tiên khởi là những người gốc Do thái. Họ đã sống, đã suy tư và đã thực hành những nghi lễ của Do thái giáo, nên không thể một sớm một chiều họ có thể thay đổi để thực hành và theo một một cơ chế mới mà không tổn thương việc sống đức tin của họ.
Tuy nhiên, theo thời gian tính chất “Do thái-Ki-tô giáo” nơi các tín hữu tiên khởi phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Một trong những giải quyết đầu tiên là vấn đề cắt bì đã được bàn thảo tại công đồng Giêrusalem. Đến thế kỷ thứ II, tính chất “Do thái-Ki-tô giáo” càng trở nên trầm trọng hơn đến nỗi có thể làm lu mờ tính Ki-tô trong đời sống của các cộng đoàn và cản trở việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc như thánh Phao-lô đã cảnh báo. Điều này càng thúc bách một cuộc giải phóng để có một hướng đi hoàn toàn mới hầu nuôi dưỡng và tăng trưởng đức tin nơi các tín hữu. Chính vì thế, Giáo Hội vào thế kỷ thứ II đã nhất quyết đi theo lựa chọn mà thánh Phao-lô đã cổ võ, không chấp nhận u lì trong chiếc nôi ban đầu: “Do thái-Ki-tô giáo”, nhưng là hướng đến sự khai mở với các nền văn hoá khác để thực hiện tính phổ quát của Tin Mừng Chúa Ki-tô.
Cùng với dòng chảy của thời gian, Giáo Hội đã trải qua biết bao cuộc canh tân, trong đó phải kể đến công cuộc canh tân của công đồng Vaticano II. Công cuộc canh tân này đã mang lại một làn gió mới và dẫn đưa Giáo Hội từng bước vượt qua những cuộc khủng hoảng của thời đại. Dầu theo khuynh hướng nào đi nữa, người ta cũng phải chấp nhận rằng: công đồng đã có một cuộc đổi mới toàn diện xét về suy tư thần học, cơ cấu và việc trở về nguồn cội Tin Mừng. Về suy tư thần học, một trong những điểm nổi bật đó là suy tư Giáo Hội dưới ánh sáng của Tin Mừng. Thay vì nhìn Giáo Hội như là một kim tự tháp, công đồng đã trình bày Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, là thân mình của Đức Ki-tô; từ đó, việc tổ chức và điều hành Giáo Hội mang tính chất phân quyền và liên đới, đề cao tính tông đồ đoàn. Các triều đại Giáo Hoàng kế tiếp vẫn tiếp tục công trình canh tân này, mà đặc biệt Đức đương kim đang cỗ xuý cho việc đổi mới các cơ cấu vốn đã lỗi thời. Đổi mới để làm gì nếu không phải là để mở ra đón nhận làn gió mới của Thánh Thần trong thời đại mới.
Lịch sử của đời sống thánh hiến cũng đã trải qua nhiều biến đổi, mà việc biến đổi mang tính chất quyết liệt nhất là công cuộc canh tân của công đồng Vaticano II. Theo các nghị phụ việc canh tân đời sống tu trì của công đồng lệ thuộc phần lớn vào việc canh tân quyền bính. Quyền bính được suy tư và thực thi theo ánh sáng và tinh thần Tin Mừng hơn. Theo đó, công đồng đề nghị một mô thức mới cho đời tu: mô thức vâng phục tự do hay là mô thức đối thoại để thay thế cho mô thức truyền thống: bề trên-bề dưới. Việc thay thế này không phải vì nó sai trái, nhưng vì mô thức cũ không còn hợp thời, không thích ứng với tâm thức hiện đại và lời mời gọi của Chúa Thánh Thần.
Như vậy, lịch sử Giáo Hội và lịch sử đời sống thánh hiến là một minh chứng: “rượu mới phải đặt vào bầu da mới”. Rượu mới là tinh thần của Đấng sáng lập được diễn tả theo phương thức mới, và cần phải có một “cơ chế” mới phù hợp với nó. Tuy nhiên, “những cải cách về cơ cấu và tổ chức là chuyện phụ thuộc. Cuộc cải cách đầu tiên phải là cải tổ về cách hiện hữu, cách sống, về lối sống”[2]. Thế mà, cách hiện hữu, cách sống và lối sống chính là “mới trong nhiệt thành, mới trong phương pháp, mới trong lối diễn tả”[3].
II. Tinh thần nào?
Sắc lệnh “Đức ái hoàn hảo” mời gọi các tu sĩ phải trung thành với tinh thần và tri ý của Đấng sáng lập, vì đây là căn tính và nền tảng cho ơn gọi sống đời sống thánh hiến. Là căn tính và nền tảng, vì tinh thần và mục đích của Đấng sáng lập không phải là một sáng kiến cá nhân, cũng không phải phát xuất từ nhục thể, nhưng là tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội, vì Giáo Hội, cho Giáo Hội và thuộc về sự thánh thiện của Giáo Hội. Như vậy, theo kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI, đây là một đặc sủng. Đặc sủng được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội và vì lợi ích Giáo Hội, đồng thời cũng là hoa trái của Thần Khí đang hoạt động trong Giáo Hội[4]. Các tu sĩ đón nhận qua Vị sáng lập và phải có bổn phận giữ gìn ơn huệ này. Đây là một đặc ân, nhưng cũng là một bổn phận. Bởi thế, trung thành với tinh thần Đấng sáng lập giúp các tu sĩ phục vụ Giáo Hội đắc lực nhất và làm phong phú ơn ban của Thiên Chúa. Đức Gioan Phao-lô II trong bài nói chuyện với các bề trên tổng quyền nam vào ngày 24.11.1978 tái khẳng định sự hiện diện của các đặc sủng khác nhau tại chính nguồn gốc của mỗi Hội dòng. Theo Ngài “Mỗi đấng sáng lập, dưới sự linh hứng của Thần khí mà Chúa Kitô đã hứa ban cho Giáo hội, đã nhận được một ân huệ đặc biệt. Đấng sáng lập là một dụng cụ đặc biệt của Chúa Kitô cho công cuộc cứu độ của Ngài, nó sống mãi trong lịch sử nhân loại. Giáo hội đã dần dần nhận ra những đặc sủng này, xem xét chúng và khi Giáo hội thấy chúng xác thực, đã dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và gìn giữ chúng trong đời sống cộng đoàn để cho chúng luôn đơm bông kết trái.”
Trung thành với tinh thần và tri ý của Đấng sáng lập không có nghĩa là rập khuôn lối sống. Thực tế cho hay các Hội dòng đã thực hiện những cập nhật để thích nghi với thời đại, đáp ứng nhu cầu hiện tại của Giáo Hội. Việc làm này không có gì mâu thuẫn trong việc trung thành với tinh thần và tri ý của Đấng sáng lập. Không mâu thuẫn, vì đặc sủng được ban cho Đấng sáng lập có hai mục đích là bước theo Chúa Ki-tô để nên đồng hình đồng dạng với Ngài; và đặc biệt là đáp ứng lại nhu cầu hiện tại cấp bách của Giáo Hội. Như vậy, đặc sủng của Đấng sáng lập luôn có tính ngôn sứ. Các Ngài là ngôn sứ được sai đến để nói về tình thương của Thiên Chúa cho thế giới. Tiếng nói của ngôn sứ luôn luôn là hiện tại. Tiếng nói ấy giúp con người nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ vào lúc này và ở đây. Do đó, tiếng nói ngôn sứ không bao giờ là tiếng nói của quá khứ. Theo nghĩa này mà Đức Pio XII đã nhắn nhủ các tu sĩ là “phải làm những gì mà Đấng sáng lập, nếu còn sống, sẽ làm. Chắc chắn trong một số trường hợp họ sẽ lập lại những gì mà Đấng sáng lập của họ đã làm; nhưng cũng chắc chắn rằng một số sáng kiến mà Đấng sáng lập đã chọn trong thời của họ, họ sẽ không chọn chúng đối với bối cảnh hiện nay”[5].
Theo tinh thần đó, các tu sĩ phải là những người chú giải đặc sủng Đấng sáng lập trong thời đại của mình. Thế nhưng chú giải không phải là kể lại nguyên văn, nhưng là làm cho người khác thấu hiểu. Nghĩa là nhà chú giải phải chuyển sứ điệp của bản văn theo ngôn ngữ và trình độ của người nghe. Do đó, việc chú giải đòi hỏi, tu sĩ phải có hai khả năng:
- Biết cách để đọc ra những dấu chỉ của thời đại, nghĩa là nhận ra được hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thời hiện tại.
- Tìm ra phương cách để đáp lại những nhu cầu của Giáo Hội và xã hội trong thế giới hiện tại.
Như vậy, tinh thần mà chúng ta phải sống và thực hiện trong hiện tại gồm hai tiêu chuẩn: đặc sủng của Đấng sáng lập và thích ứng với nhu cầu của Giáo Hội trong thời hiện tại. Tuy nhiên, việc chú giải để nhận ra tinh thần mới mà Chúa Thánh Thần đang thúc đẩy trong hoàn cảnh hiện tại là một điều khó. Khó vì chính sự biện phân của chúng ta và khó vì chúng ta không nhận ra được dấu chỉ thời đại mà Chúa Thánh Thần đang tác động trong thế giới này. Vì thế, để có một chú giải đúng, tu sĩ phải dựa trên huấn quyền của Giáo Hội và quy chiếu về Tin Mừng để xem việc chú giải của chúng ta có dẫn đưa đến đức ái hay không và có phục vụ cho sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội không?
III. Canh tân để làm gì?
1. Canh tân để tồn tại
Bước vào ngàn năm thứ 3, theo thống kê trên toàn cầu hiện nay Hội Thánh Công Giáo có 801.185 nữ tu, 55.057 tu huynh không thụ phong linh mục, và 139.397 linh mục dòng. Số liệu không bao gồm 30.687 phó tế vĩnh viễn thuộc các hội dòng hoặc tu hội đời. Con số nam nữ tu sĩ đã giảm 18,7%, từ 1 triệu 225.056 xuống còn 995.639 trong khoảng thời gian từ năm 1978 đến năm 2000. Mức giảm sút đáng kinh ngạc xảy ra trong hàng ngũ các tu huynh không thụ phong linh mục: từ 75.802 xuống còn 55.057, tức 27%, trong cùng thời gian trên. Nữ tu giảm 19,1%, linh mục dòng giảm 12%. Con số các tu sĩ được phân bổ như sau: 16,4% sống ở Châu Á, tăng so với 9% của năm 1978; Châu Phi 7%, tăng so với tỉ lệ 4,25% hồi năm 1978; Châu Mỹ 29,6%, hầu như không thay đổi; Châu Âu đang đi xuống nay còn 45%, đảo ngược với tỉ lệ 54% của năm 1978[6]. Đứng trước sự sút giảm trầm trọng này, Thánh Bộ Các Tu Hội Ðời Sống Thánh Hiến Và Hội Ðoàn Ðời Sống Tông Đồ đã mở một cuộc họp khoáng đại để tìm ra phương cách canh tân đời sống tu trì. Kết quả cuộc họp này là một tài liệu dày 60 trang, với tiêu đề: “Tái Khởi Hành Từ Chúa Ki-tô: Một Cuộc Dấn Thân Ðược Canh Tân Cho Ðời Sống Thánh Hiến Trong Thiên Niên Kỷ Thứ Ba”. Với tài liệu này, Toà thánh muốn thực hiện một cuộc canh tân triệt để nhằm giảm thiểu tối đa số tu sĩ lìa bỏ đời tu và cổ võ các thanh niên nam nữ thiện chí dấn thân trong ơn gọi tu trì.
2. Canh tân để tăng trưởng
Đời sống tu trì không thuộc phẩm trật, nhưng thuộc về sự thánh thiện của Giáo Hội. Cũng như Giáo Hội vừa hữu hình và vừa vô hình, đời sống thánh hiến được mời gọi theo sát Đức Ki-tô và nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng cũng mặc lấy một cơ cấu nhất định nào đó. Các cơ cấu chịu chi phối của tâm thức thời đại và hoàn cảnh xã hội, nên nó cũng sẽ tuân theo quy luật tự nhiên: đào thải để tăng trưởng. Bởi thế, mới đây trong một bài nói chuyện về canh tân, Đức Phanxicô đã nhắc lại quy luật này: “Trong đời sống người Công Giáo cũng như đời sống của Giáo Hội, có những cấu trúc cổ xưa, những cơ cấu già nua: điều cần thiết là phải đổi mới! Và Giáo Hội luôn chú trọng điều này, là luôn cởi mở đối thọai với tất cả mọi nền văn hóa”. “Giáo Hội luôn tự do: Chúa Thánh Thần đưa Giáo Hội tiến tới. Tin Mừng dạy cho chúng ta điều đó: tự do để tìm kiếm những điều mới mẽ trong Phúc Âm, trong đời sống của chúng ta, cũng như trong các cơ cấu tổ chức”.
3. Canh tân để thực thi sứ mệnh
Điều cốt yếu nhất của việc canh tân trong đời sống thánh hiến hệ tại ở việc canh tân để sống và thực thi sứ mệnh tốt hơn. Thế mà, đặc sủng nơi Đấng sáng lập luôn luôn đi kèm với một sứ mệnh[7]. Sứ mệnh đó nhằm công ích và thiện ích của Giáo Hội, đồng thời đáp lại nhu cầu của thời đại. Huấn thị “Xuất phát lại từ Đức Ki-tô” đã chỉ rõ đó là sứ mệnh truyền giáo[8]. Sứ mệnh này không thể tách rời khỏi đặc sủng; trái lại quyện vào nhau như thành một thực thể bất phân chia đến nỗi nếu tách khỏi mục đích này thì đặc sủng không còn ý nghĩa nữa. Vì thế, Đức Gioan Phao-lô II trong tông huấn “Đời sống thánh hiến” đã trình bày ơn gọi đời sống thánh hiến như là một cuộc xuống núi với Chúa Giêsu và xem đó là ưu tiên số một của ơn gọi tu trì[9]. Để xuống núi và đồng hành với sứ mệnh của Giáo Hội, tu sĩ phải nhận ra dấu chỉ của thời đại và tiếng nói của Chúa Thánh Linh để đáp ứng những nhu cầu của thời hiện đại. Công việc này đòi hỏi đời sống tu phải canh tân cho phù hợp với thời đại như thánh Phao-lô đã sống và đã trải nghiệm: “Đối với Do thái, tôi trở nên giống như người Do thái để chinh phục người Do thái” (I Cr 9, 20).
IV. Vài suy tư về một cuộc canh tân trong đời sống đan tu Việt Nam hôm nay
Chủ đích mà cha Tổ Phụ nhắm đến khi lập Dòng Đức Bà Việt Nam là truyền giáo. Đây là thành quả của kinh nghiệm và việc nhận ra dấu chỉ của Chúa Thánh Thần. Trải qua hơn 90 năm, Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam đã có vai trò nào và đóng góp được gì cho sứ mệnh truyền giáo? Có lẽ không thể chỉ ra con số hay thống kê những thành quả mà không có thiếu sót, nhưng có một điều chúng ta cần phải nhìn lại: Hội Dòng đã thể hiện như thế nào trong việc sống sứ mệnh của mình?
Theo bảng thống kê, số tín hữu Việt Nam kể từ năm 1960 đến 2010 chỉ tăng 1%. Vào thời điểm hiện tại, tỉ lệ người công giáo là 7, 11% dân số (năm 2011). Trong khi đó, số tín hữu Tin Lành từ con số 400.000 năm 1999 và đến nay họ đã tăng trên dưới 800.000 tín hữu. Con số tăng gần như gấp đôi. Mặt khác, Giáo Hội tại Á Châu qua mấy trăm năm truyền giáo chỉ gần 130 triệu tín hữu; trái lại, phái Ngũ Tuần từ con số một vài người cách đây 100 năm, nay đã đạt tới dấu mốc 165 triệu tại Á Châu. Nếu nhìn vào thực tế, Giáo Hội Công giáo có một tổ chức bài bản, vững mạnh và cơ sở vật chất khá vững chắc. Điều gì làm cho người ta không cảm nhận được Thiên Chúa trong Giáo Hội Công Giáo?
Nhìn lại lịch sử và qua thượng hội đồng giám mục tại Á Châu năm 1999, nhất là tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu” của Đức Gioan Phao-lô II (6.11.1999) đã chỉ ra rằng: Giáo Hội qua các thời kỳ chú trọng quá nhiều đến việc tổ chức, xây dựng, công tác mục vụ, lo đối phó với những học thuyết sai lạc và về khía cạnh đạo đức, người ta hướng về việc noi gương các thánh hơn là noi gương Chúa Giêsu; quá chú trọng các lễ nghi, nhưng không đặt trọng tâm vào việc nuôi dưỡng và làm cho đời sống thiêng liêng tăng trưởng. Nếu diễn tả theo cách nói của Đức Gioan Phao-lô II, có thể nói: chúng ta đã bỏ quên Chúa Giêsu hay ít ra là trình bày một Chúa Giêsu quá xa lạ và trừu tượng. Chính vì vậy, Đức thánh cha mời gọi cần phải phát xuất lại từ Chúa Ki-tô, vì Ngài là quà tặng của Thiên Chúa cho Á Châu (x. Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu”, số 10).
Phát xuất lại từ Đức Ki-tô cũng là điểm nhấn trong huấn thị của bộ đời sống thánh hiến và hiệp hội tông đồ năm 2002. Theo huấn thị, các tu sĩ hãy trở về với nguồn sống là Chúa Ki-tô hơn là tập trung vào vị Sáng lập dòng. Có nghĩa là phải để cho đời sống Chúa Ki-tô diễn tả trong tất cả mọi hoạt động của đời sống thánh hiến và điều này thích hợp cho những con người tại Á Châu, hướng về chữ “Tâm” hơn là chữ “Lý”. Ghi nhận đặc tính này mà ban tổ chức đại hội truyền giáo tại Á Châu tổ chức tại Chiang Mai, Thái Lan đã sử dụng cụm từ “Kể lại câu chuyện Giêsu” làm đề tài cho đại hội. Chúa Giêsu chỉ là Ngài thật khi được kể lại, được mô tả lại bằng chính cuộc sống của các môn sinh. Mô tả là ngôn ngữ của kinh nghiệm sống mà con người ngày nay đang cần đến như Đ. Gioan Phao-lô II đã nói: “Con người ngày nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy”.
Với thực tế trên, thiết nghĩ cũng là chất liệu để cho Hội Dòng chúng ta suy tư về việc canh tân hầu có thể sống sứ mệnh truyền giáo theo tri ý của Cha Tổ Phụ. Canh tân không phải để sống dễ dãi, không phải để có một cộng đoàn theo mô hình dân chủ, thay cho mô hình quân chủ, nhưng là để cho cộng đoàn sống và diễn lại cuộc sống của Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô sẽ làm gì, sẽ nói gì trong cuộc sống hiện tại? Chúa Giêsu muốn gì nơi chúng ta? Cha Tổ Phụ đã trả lời rất là đơn sơ: “Hãy nhìn Chúa Giêsu xem Ngài sống thế nào, Ngài ăn uống thế nào....”
Kết luận
Có 9 điều mà Đức Phanxicô ưu tư khi thực hiện cuộc cải tổ Giáo Hội trong triều đại giáo hoàng của ngài. Trong đó, điều quan trọng nhất mà ngài thường nhắc đi nhắc lại trong các bài giảng và bài nói chuyện là: chấm dứt lối sống giáo sĩ trị và lối sống đạo đức giả đang ăn sâu trong não trạng và cung cách của các giáo sĩ, tu sĩ, cũng như trong cách điều hành của Giáo Hội. Vì cung cách này tạo nên một lối sống gia trưởng, trưởng giả và bao cấp[10]. Nó cản trở chúng ta “đi ra khỏi mình” để đến với tha nhân, đến với thế giới và đồng thời nó đẩy người ta xa cách Giáo Hội, xa cách Chúa Ki-tô. Cung cách này tôn mình như là khuôn mẫu để người khác phải theo. Ai không thuận với khuôn khổ của chúng ta đều bị loại trừ. Chính vì cung cách đó mà đã 50 năm sau cuộc cải tổ của công đồng Vaticano II, đời sống Giáo Hội chưa được biến đổi bao nhiêu.
Ưu tư của Đức Giáo Hoàng cũng là điều mà chúng ta cần phải suy tư lại để có thể thực hiện đặc sủng nơi Cha Tổ Phụ một cách kiến hiệu nhất. Và đó cũng là một lời mời gọi đầy thách đố với Hội Dòng chúng ta trước nhu cầu canh tân tinh thần và cơ chế.
[1] http://giuseanbinh.net/home/tin-giao-hoi/giao-hoi-hoan-vu/2569-c-thanh-cha-hay-cu-xin-an-sng--ng-s-canh-tan-phuc-am-thay-i-cac-c-cu-li-thi.html
[2] Trích trong bài phỏng vấn của tạp chí văn hoá Dòng Tên, ngày 19.9.2013
[3] Đức Gioan Phao-lô II tại hội nghị các Giám Mục Mỹ Châu La-tinh, ngày 9.3.1983
[4] Văn kiện của bộ tu sĩ và giám mục, số 11
[5] /www.conggiaovietnam.net/index.php, Lm, GB Trần hữu Hạnh, fsf, Đặc sủng của Đấng sáng lập
[6] www.catholic.org.tw/vntaiwan/02news/tin374.htm
[7] Văn kiện “Những yếu tố cốt yếu của đời tu”, số 23
[8] Huấn thị “Xuất phát lại từ Đức Ki-tô” số 9
[9] VC số 19; 25; 72
[10] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, bài giảng ngày 20.11.2013