1 THÁNG BA
Một Hình Bóng Của Đất Hứa
Trong Mùa Chay, chúng ta được mời gọi một cách đặc biệt bước vào thực tại vượt qua. Thực tại này được tìm thấy nơi Đức Kitô. Đồng thời, thực tại này cũng dành cho chúng ta. Nó phải bao trùm lấy chúng ta, như đám mây đã bao trùm Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an trên núi Hiển Dung (Lc 9,34).
Một Hình Bóng Của Đất Hứa
Trong Mùa Chay, chúng ta được mời gọi một cách đặc biệt bước vào thực tại vượt qua. Thực tại này được tìm thấy nơi Đức Kitô. Đồng thời, thực tại này cũng dành cho chúng ta. Nó phải bao trùm lấy chúng ta, như đám mây đã bao trùm Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an trên núi Hiển Dung (Lc 9,34).
Lời hứa của giao ước mới được hoàn thành xuyên qua mầu nhiệm vượt qua – một mầu nhiệm chạm đến con người. Trong mầu nhiệm đó, chúng ta nhận thấy lời cam kết của Thiên Chúa được hoàn thành trọn vẹn: lời cam kết đưa dẫn Abraham và con cháu ông vào miền Đất Hứa. Trong nhiều thế hệ, miền đất này đã trở thành It-ra-en của Giao Uớc Cũ. Tuy nhiên, đó chỉ là một bóng hình báo trước miền đất mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta trong Đức Kitô.
Vì Thiên Chúa của Giao Ước Mới không hạn định lời hứa của Ngài nơi bất cứ một đất nước riêng rẽ nào hay bất cứ một nơi chốn chất thể nào. Không một nơi chốn nào trên trần gian có thể chứa đựng được hoạt động cứu độ của Thiên Chúa đối với những ai qui tụ lại trong Đức Kitô. Về mầu nhiệm này, Thánh Phao-lô viết: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
2 THÁNG BA
Thiên Chúa Gọi Đích Danh Chúng Ta
Cũng như Mô-sê được gọi trong khi ông đang chăn giữ đoàn vật trong hoang địa, Thiên Chúa gọi chúng ta trong hoang địa. Ngài gọi đích danh chúng ta, như Ngài đã gọi Mô-sê: “Mô-sê! Mô-sê!” (Xh 3,4).
Thiên Chúa truyền lệnh cho chúng ta cũng như Ngài đã truyền lệnh cho Mô-sê: “Hãy cởi giày ra khỏi chân ngươi, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh” (Xh 3,5).
Hãy cởi bỏ sự cứng cỏi ra khỏi lòng bạn! Hãy nhổ rễ sự kiêu căng ra khỏi tâm trí và ý chí bạn. Thời gian Mùa Chay là một thời gian thánh của Giáo Hội. Đó là một thời gian đầy sức mạnh. Đó là một thời gian mà Thiên Chúa hiện diện với chúng ta một cách đặc biệt.
Mùa Chay truyền lệnh cho con tim và lương tri chúng ta quay về với Thiên Chúa – Đấng đã tỏ hiện cho Mô-sê trong hoang địa. Ngài là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của I-sa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của uy phong khôn sánh, và cũng là Vị Thiên Chúa tìm kiếm con người để thiết lập một giao ước với con người.
Hãy lưu ý điều này: Thiên Chúa đã tự biểu lộ chính Ngài trong hình thức một bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi (Xh 3,2). Vị Thiên Chúa tình yêu toàn năng tự tỏ hiện chính Ngài trước mắt của Mô-sê trong hình thức của một bụi gai bốc cháy.
Đấy là Thiên Chúa, là Đấng siêu việt. Người ta không thể nhìn thấy Ngài bằng mắt trần khi còn đang sống trên mặt đất này. Mô-sê giấu mặt đi, bởi vì ông sợ không dám nhìn Thiên Chúa (Xh 3,6). Rồi, ông nghe tiếng Thiên Chúa phán: “Đừng bước tới gần thêm!” (Xh 3,5). Mô-sê vừa sợ hãi vừa bị hấp lực bởi Đấng đang phán bảo ông từ trong bụi gai. Sự hiện diện của Thiên Chúa bao trùm lấy ông. Ông chìm đắm trong sự thánh thiện của Thiên Chúa và được biến đổi một cách thâm sâu bởi cuộc gặp gỡ này.
3 THÁNG BA
Gặp Gỡ Đấng Thánh
Tại chính trung tâm của phụng vụ Mùa Chay, mầu nhiệm về sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa được công bố cho chúng ta. Mô-sê đã trở thành một chứng nhân đặc biệt của sự thánh thiện ấy. Mầu nhiệm này phải đồng hành với chúng ta mỗi ngày trong cả Mùa Chay cho đến khi sự thánh thiện và tình yêu của Thiên Chúa được công bố qua Thập Giá và Cuộc Phục Sinh của Đức Kitô.
Tuy nhiên, để cho mầu nhiệm vượt qua phát sinh hoa trái dồi dào trong cõi lòng và lương tâm chúng ta, chúng ta phải kinh nghiệm một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa như cuộc gặp gỡ mà Mô-sê đã trải qua tại chân núi Hô-rép.
Vị Thiên Chúa lên tiếng nói với con người tại chân núi ấy là ai vậy? Mô-sê đã hỏi tên Ngài và ông đã nghe câu trả lời: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Theo Thánh Tô-ma A-qui-nô, câu trả lời ấy của Thiên Chúa có thể được diễn dịch thành: “Ta là Đấng mà bản chất của mình là hiện hữu.”
Thiên Chúa nói danh tánh của chính Ngài cho con người. Điều đó cho thấy sự mật thiết của giao ước mà Ngài thiết lập với Abraham và con cháu ông. Thật vậy, Ngài nói với Mô-sê: “Ta là Đấng sẽ giải phóng và cứu vớt dân Ta.”
Thiên Chúa tỏ cho Mô-sê thấy mối quan tâm của Ngài đối với mọi người – và đối với dân Ngài xét như một toàn thể: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập … “ (Xh 3,7-8). Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu, là Đấng Giải Phóng. Ngài là Đấng Sáng Tạo, là Thiên Chúa của giao ước, là Thiên Chúa cứu độ.
4 THÁNG BA
Đến Gần Thiên Chúa,
Chúng Ta Sẽ Được Biến Đổi
Hằng năm, qua phụng vụ, Mùa Chay nhắc lại cuộc gặp gỡ của Mô-sê với Thiên Chúa hằng sống. Tại gốc rễ kinh nghiệm đức tin của chúng ta, chúng ta phải thấy bật ra sự cao cả khôn dò của Thiên Chúa. Thiên Chúa vượt quá các cảm quan và vượt quá trí hiểu của chúng ta; thế nhưng, Ngài lại hiện diện với chúng ta. Cũng như Ngài đã tự tỏ hiện cho Mô-sê, Ngài cũng tự tỏ hiện cho chúng ta.
Sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa được đổ tràn xuống trên Mô-sê, và cuộc đời ông đã được biến đổi. Ông có được sức mạnh và quyền lực mới. Vâng, Mô-sê vốn cảm nhận sâu sắc tình cảnh bị áp bức của dân mình tại Ai-cập và vốn khát vọng giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ. Nhưng ông đã không có đủ sức để thực hiện điều ấy… Ông đã phải trốn thoát qua đất Midian sau khi hạ sát một người Ai-cập.
Bấy giờ, Thiên Chúa gọi đích danh ông và tỏ cho ông biết danh tánh Ngài. Qua Danh này, quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Mô-sê, một quyền năng sẽ thực hiện bao sự việc lạ lùng. Mô-sê trở lại Ai-cập, đứng trước mặt Pha-ra-on, và với quyền năng Thiên Chúa, ông thuyết phục được nhà vua. Cũng chính nhờ quyền năng Thiên Chúa, ông đã vượt qua được sự yếu đuối và nhút nhát của đồng bào mình. Ông giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai-cập. Vì thế, Mô-sê trở thành công cụ của cuộc Xuất hành – tức cuộc Vượt Qua của giao ước cũ. Trong cuộc Xuất hành này, Thiên Chúa tự biểu lộ chính Ngài như “Đấng Giải Phóng”. “Ta là Đức Chúa, là Thiên Chúa của các ngươi; Ta đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20,2).
5 THÁNG BA
Xu Hướng Về
Một Thứ Tự Do Vô Giới Hạn
Cuộc Vượt Qua của giao ước cũ là hình ảnh báo trước cuộc Vượt Qua mới của Đức Kitô. Trong biến cố dân It-ra-en trốn thoát ra khỏi Ai-cập, Thiên Chúa tự thể hiện chính Ngài như Đấng giải phóng họ khỏi tình cảnh nô lệ. Giờ đây, Ngài tự biểu lộ như Đấng cứu độ tất cả những ai tin vào Ngài xuyên qua sức mạnh của Thập Giá và Phục Sinh.
Ta là Đức Chúa, là Thiên Chúa của các ngươi. Nhờ hy tế Thập Giá của Đức Kitô, Ta có thể đưa các ngươi ra khỏi tình cảnh nô lệ. Tội lỗi là ách nô lệ tai ác nhất. Nó dẫn tới sự chết. Khi các ngươi lạm dụng tự do, chính là các ngươi đang ở trong tình cảnh nô lệ. Và hậu quả của điều đó chỉ có thể là sự chết. Khi cố bám lấy một thứ tự do vô giới hạn, phải chăng chúng ta, những con người hiện đại, đã lựa chọn sự câu thúc và đã tự dối gạt chính mình?
Để vãn hồi sự tự do khỏi tội lỗi, cần phải có một hành động quyết liệt của Thiên Chúa. Mọi tội lỗi phải được vạch mặt đích danh. Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải được trao ban lại cho đời sống chúng ta.
Điều chúng ta cần có chính là ánh sáng giúp ta nhận thức về tội lỗi mình, ánh sáng đến từ sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống. Aùnh sáng ấy giúp mỗi người chúng ta có thể đi vào ngả đường tự do đích thực trong Đức Kitô.
6 THÁNG BA
Cha Mừng Đón Tội Nhân Về Nhà
Muợn lời Thánh Phao-lô trong Thư 2 Cô-rinh-tô, Giáo Hội nói với chúng ta: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Ngài, và trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải” (2Cr 5,17-18).
Trong ánh sáng của những lời đó, chúng ta nhận hiểu sứ điệp của dụ ngôn Người Con Đi Hoang. Thiên Chúa, Đấng hòa giải chúng ta với chính Ngài trong Đức Kitô, tự biểu hiện qua dụ ngôn này trong hình ảnh người cha. Ngài niềm nở tiếp đón con mình khi anh ta trở về nhà và kêu lên: “Con đã lỗi phạm … Con không đáng được gọi là con của cha nữa” (Lc 15,21).
7 THÁNG BA
Tình Yêu Thiên Chúa
Là Tình Yêu Vô Giới Hạn
Tất cả chúng ta đều rất quen thuộc với dụ ngôn Người Con Đi Hoang. Dụ ngôn này nói lên sự thật về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một câu chuyện không thể nào quên – một câu chuyện đánh động chúng ta hết sức sâu sắc.
Trong Thông Điệp Dives in misericordia, cũng như trong Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia, dụ ngôn này trở thành một điểm qui chiếu nòng cốt của các giáo huấn cho Giáo Hội hôm nay. Những giáo huấn ấy nêu bật một điểm luôn luôn có tầm hết sức quan trọng trong toàn bộ sứ điệp Tin Mừng: việc con người hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Theo Thánh Phao-lô, trở về có nghĩa là trở nên một tạo vật mới trong Đức Kitô. Thiên Chúa, giống như người cha trong dụ ngôn, niềm nở tiếp đón tất cả những con trai con gái đi hoang của Ngài. Vì thế, khi một người được sinh lại trong Đức Kitô, người ấy trở thành một con người mới.
Chúa Cha đã trao ban cho chúng ta Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Kitô, để mỗi người trong chúng ta – dù đi hoang đàng – đều có khả năng trở thành một con người mới trong Đức Kitô. Được đổi mới một cách thâm sâu trong hữu thể mình, chúng ta có thể tìm thấy con đường về nhà Cha. Con đường ấy chính là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với chúng ta.
8 THÁNG BA
Chúng Ta Được Năng Lực Biến Đổi
Của Thiên Chúa Chạm Đến
Chúng ta đọc thấy trong Thông Điệp Dives in misericordia: “Dụ ngôn Người Con Đi Hoang diễn tả một cách đơn giản nhưng rất thâm sâu về thực tại hoán cải. Dụ ngôn này là mô tả cụ thể nhất của tình yêu và lòng thương xót.” Qua dụ ngôn, chúng ta thấy được cách mà tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa phục hồi và thăng tiến những gì tốt đẹp. Tình yêu và lòng thương xót này thậm chí có thể rút ra được điều tốt từ bất cứ hình thức sự dữ nào trong thế giới chúng ta.
Tình yêu và lòng thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa chính là nền tảng sứ điệp cứu độ của Đức Kitô. Xuất phát từ tình yêu và lòng thương xót ấy, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài trong Đức Kitô. Chúng ta nhận ra rằng Đức Giêsu cũng dạy các môn đệ Người phải biết yêu thương và nhân hậu. Sứ điệp ấy không bao giờ ngừng thôi thúc con tim và hành động của các môn đệ Đức Kitô. Nơi họ, tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với nhau không bao giờ bị chao đảo bởi sự dữ ; trái lại, tình yêu ấy vượt thắng mọi sự dữ (Rm 12,21).
Như vậy, dụ ngôn Người Con Đi Hoang cho chúng ta thấy cách mà tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa biến đổi đời sống của tội nhân, cách mà con người cũ bị đẩy lùi và vượt qua. Ngay cả những tội lỗi đã bén rễ và những thói xấu trầm kha cũng bị nhổ rễ bởi ơn hoán cải. Đức Kitô đã đem lại sự sống mới này cho con người “bằng Máu Người đổ ra trên Thập Giá” (Cl 1,20). Trong Đức Kitô, tội nhân trở thành “một tạo vật mới”. Trong Đức Kitô, tội nhân được hòa giải với Thiên Chúa là Cha.
9 THÁNG BA
Trở Về Với Vòng Tay Từ Ái Của Cha
Thánh Phao-lô nói: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài, Ngài không chấp những lỗi lầm của chúng ta” (2Cr 5,19).
Cuộc giao hòa xảy ra giữa Người Con Đi Hoang và cha mình đã được hoàn tất nhờ công cuộc của Đức Kitô. Thiên Chúa của giao ước vĩnh cửu tự thể hiện chính Ngài nơi Đức Kitô như là Vị Thiên Chúa của giao hòa. Chân lý này có tầm thật nền tảng trong Kitô giáo. Con người được mời gọi giao hòa với Thiên Chúa Cha trong Đức Kitô.
Trong Thư 2 Cô-rinh-tô, Thánh Phao-lô cho biết Thiên Chúa không chỉ “giao hòa chúng ta với chính Ngài trong Đức Kitô” mà còn thêm rằng “Ngài trao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2Cr 5,18). Rồi Thánh Phao-lô tiếp: “Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2Cr 5,20).
Sứ vụ hòa giải – một hoa trái của cuộc giao hòa giữa Thiên Chúa với con người trong Đức Kitô – là một phần căn bản thuộc sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Sứ mạng này trao cho Giáo Hội quyền hòa giải con người với Thiên Chúa xuyên qua việc tha thứ các tội lỗi của họ.
Nhưng, hơn thế nữa, như Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia (ch.11, số 7) cho thấy, “Thánh Phao-lô thậm chí cho phép chúng ta mở rộng cái nhìn của mình về công cuộc của Đức Kitô đến những chiều kích vũ trụ khi ngài viết rằng nơi Đức Kitô Thiên Chúa đã giao hòa chính Ngài với tất cả mọi loài, trên trời cũng như dưới đất” (Cl 1,20).
10 THÁNG BA
Cái Giá Của Ơn Giao Hòa
Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc, đã trả giá cân xứng cho tội lỗi chúng ta. “Người là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Người là sự giao hòa của chúng ta.
Đó là lý do tại sao cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô – được biểu trưng một cách bí tích trong Thánh Lễ – thường được gọi là phụng vụ “hy lễ hòa giải”. Đây là lời của Kinh Nguyện Thánh Thể III: “Xin Cha nhìn đến Đấng mà cuộc tử nạn của Người đã giao hòa chúng con với chính Cha”. Giao hòa với Thiên Chúa và với anh chị em, đó là việc thiết yếu. Chính Đức Giêsu đã dạy rằng trước khi dâng của lễ, cần phải giao hòa với anh em trước đã (Mt 5,23).
Thánh Phao-lô viết: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2Cr 5,20). Giáo Hội tha thiết lặp lại lời kêu gọi ấy của Thánh Tông Đồ. Giáo Hội kêu gọi tất cả chúng ta tiến tới sự thánh thiện đích thực trong Đức Kitô. Thánh Phao-lô tiếp tục: “Vì chúng ta, nên Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi – để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2Cr 5,21).
Tiếng gọi mời con người hòa giải với Thiên Chúa không đơn thuần chỉ là một sứ điệp hay thậm chí một tiếng kêu van. Sứ điệp ấy mạnh mẽ không kém so với sứ điệp của Gio-an Tẩy Giả trên bờ sông Gio-đan, hay so với sứ điệp của các ngôn sứ trong Cựu Ước. Song nó không chỉ là một sứ điệp. Đó là một hành động đầy năng lực. Đó là một hành động phát xuất từ tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Đó là một hy tế, một sự trả giá lớn lao. Chúng ta đã được chuộc về với một giá đắt. Chúng ta hãy tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa vì lòng thương xót của Ngài (1Cr 6,20; 7,23)
11 THÁNG BA
Nước Hằng Sống Phát Xuất
Từ Trái Tim Đức Kitô
“Nguơi hãy gõ vào tảng đá, và nước sẽ chảy ra từ đó” (Xhh 17,6). Thiên Chúa Gia- vê đã bảo Mô-sê trong sa mạc như thế. Từ tảng đá ấy, con cái It-ra-en nhận được nguồn nước giúp họ sống trong suốt hành trình tiến về Đất Hứa. Cũng vậy, từ trái tim của Đức Kitô, Đấng chết khát trên Thập Giá, chúng ta nhận được nguồn nước hằng sống nuôi dưỡng chúng ta trên hành trình đức tin.
Và cũng như trong thời Xuất Hành, con người hôm nay khao khát nguồn nước cứu độ đến từ Đức Kitô. Giáo Hội loan báo chân lý này cho những ai lắng nghe. Giáo Hội hiện diện trong thế giới để giúp người ta tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, để nhờ đức tin, người ta nhận được sự sống nhân danh Người. Những ai lắng nghe Giáo Hội, Giáo Hội hướng dẫn họ sống trong sự sống này và, qua đó, xây dựng Thân Mình Chúa Kitô. Giáo Hội sẽ không ngừng nỗ lực hết sức mình cho mục tiêu cao nhất này: làm cho mọi người nhận biết Đức Kitô – một sự nhận biết có sức cứu độ.
12 THÁNG BA
Đánh Thức Một
Nỗi Khát Thâm Sâu Hơn
Bên bờ giếng ở Xy-kha, Đức Giê-su đã đề xuất trao ban nước hằng sống cho người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô. Mỏi mệt vì chuyến đi, Người ngồi xuống bên thềm giếng. Các môn đệ đã đi vào thành phố mua thức ăn. Một người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô đến giếng lấy nước; Đức Giêsu xin chị một ít nước uống. Chị ngạc nhiên, vì thường tình chẳng một người Do Thái nào lại xin bất cứ gì từ một phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô. Đã bao thế kỷ rồi, người Do Thái và người Sa-ma-ri-ta-nô sống trong sự thù địch với nhau. Tuy nhiên, Đức Giêsu cho chị thấy rằng Người không dung nạp thành kiến, cũng không ủng hộ quan điểm của người Do Thái rằng một rabbi không nên nói chuyện với một phụ nữ cách công khai. Người không quan tâm đến sự kỳ thị quốc gia và chủng tộc, cũng không màng đến sự phân biệt nam nữ.
Đức Giêsu xin nước – và Người dẫn dắt người phụ nữ ấy đến nước hằng sống. Thành ngữ “nước hằng sống” trong ngôn ngữ của các ngôn sứ nhằm hướng chỉ đến ân phúc cứu độ trong thời Mê-si-a (Is 12,3). Nhưng vì không hiểu được ý nghĩa này, người phụ nữ tưởng rằng Đức Giêsu muốn nói đến một thứ nước kỳ lạ có sức giúp cơ thể chị không bao giờ cảm thấy khát nữa. Đó là cách mà Đức Giêsu đánh thức nơi người phụ nữ khát vọng về ơn huệ của Người: “Người phụ nữ thưa với Đức Giêsu: ‘Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi không còn bị khát nữa và khỏi phải mất công tới đây lấy nước” (Ga 4,15).
13 THÁNG BA
Đức Giêsu Biết Những Điều
Thầm Kín Nhất Của Chúng Ta
Trong câu chuyện đầy hàm súc này về người phụ nữ bên bờ giếng, sự mạc khải riêng tư và sự trợ giúp có năng lực cứu độ đã phát xuất từ Đức Giêsu. Người bắt đầu với một hoàn cảnh cụ thể mà người phụ nữ ấy có thể hiểu được. Rồi Người đưa dẫn chị đến khảo sát cuộc sống của chị trong ánh sáng của chân lý, vì chỉ trong chân lý chúng ta mới có thể gặp gỡ Đức Kitô.
Khi người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô đáp lời Đức Giêsu: “Hãy cho tôi loại nước đó”, Người đã không ngần ngại dẫn chị đến chỗ chị cần đến. Người dẫn chị đến với sự hoán cải bằng cách mở ra cho chị thấy chị là ai và chị đã làm gì. “Hãy đi và gọi chồng chị tới đây” (Ga 4,16) – Người bảo chị như thế. Người mời gọi chị tự khảo sát chính lương tâm của chị và tự dò tìm những chiều sâu của tâm hồn chị. Khi chị cố giấu giếm tội lỗi mình và dối gạt Đức Giêsu, Người đặt chị đối diện với chính tội lỗi của chị và giúp chị nhìn nhận rằng mình cần được cứu độ. Được thuyết phục bởi Đức Giêsu, người phụ nữ xin Người chỉ cho con đường cứu độ. Xuyên qua cuộc khảo sát lương tâm này, người phụ nữ đã có thể đối diện với tội lỗi mình và nhận hiểu rằng mình cần được cứu độ.
14 THÁNG BA
Hãy Đến Và Hãy Gặp
Nước hằng sống – nước đem lại sự sống đời đời – đã biến đổi cuộc sống của người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy như thế nào? Nếu chúng ta xem xét sự chuyển biến tâm linh của người phụ nữ này, chúng ta có thể thấy rằng cuộc gặp gỡ của chị với Đức Kitô sản sinh hoa trái tâm linh rất lớn lao. Thực vậy, chúng ta có thể nhận ra nơi chị một cuộc hoán cải đích thực – cuộc hoán cải đưa chị đến chỗ nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a: “Các người hãy đến và hãy gặp con người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm! Chắc hẳn người ấy phải là Đấng Mê-si-a!” (Ga 4,29).
Người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy đã loan báo Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ cho hàng xóm và bạn bè chị. Chị nói với họ về cuộc hoán cải của chị và về quyền năng cứu độ của Đức Giêsu. “Ông ấy đã kể cho tôi về mọi sự mà tôi đã làm”. Chị biểu lộ một nghị lực và niềm vui mới có sức thúc bách chị loan báo cho người khác về sự thật và về ân sủng mà mình đã nhận được. “Các người hãy đến và hãy gặp” – chị bảo họ như thế. Có thể nói, chị đã trở thành một sứ giả của Đức Kitô và của Tin Mừng cứu độ, như trường hợp Maria Mác-đa-la vào buổi sáng ngày Phục Sinh.
Cũng vậy, chúng ta được mời gọi uống thứ nước hằng sống có thể thanh tẩy tâm hồn ta và biến đổi cuộc sống ta. Và cũng vậy, chúng ta có thể trở thành những sứ giả của Tin Mừng. Như trường hợp người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy, chúng ta cũng phải để cho Đức Kitô đưa dẫn mình tới một cuộc khảo sát nghiêm túc lương tâm mình, nhờ đó chúng ta có thể quay lưng lại với tội lỗi và được ngập tràn niềm vui. Rồi chúng ta sẽ muốn chia sẻ cho người khác niềm vui về ơn cứu độ mà mình đã lãnh nhận được nơi Đức Kitô.
15 THÁNG BA
Những Chuẩn Mực Rõ Ràng Để Sống
Ta là Đức Chúa, là Thiên Chúa của các ngươi; Ta đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi cảnh nô lệ…
Ngươi không được dùng Danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng…,
Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh…,
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ…,
Ngươi không được giết người.
Nguơi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng gian hại người.
Ngươi không được ham muốn nhà người ta, vợ người ta … hay bất cứ gì khác của người ta.
Xh 20,2.7-8.12-17
Giáo Hội rao giảng Thập Giới được trao cho con cái It-ra-en tại Núi Si-nai. Đây là Luật của Thiên Chúa, thể hiện những gì Thiên Chúa dạy bảo để con người sống một cách ngay chính. Những chuẩn mực sống này mở cho ta thấy tư tưởng của Thiên Chúa về điều thiện và điều dữ luân lý. Những chuẩn mực này chính là luật luân lý.
16 THÁNG BA
Luân Lý Tính Phải Được Đo Lường
Bằng Thước Đo Của Thiên Chúa
Xuyên qua việc tuân giữ Thập Giới, con người sẽ trở nên tốt. Con người sẽ mặc lấy phẩm tính của Thiên Chúa. Còn nếu không tuân giữ Thập Giới, con người sẽ sa vào hành động xấu. Như vậy, Thập Giới trao cho chúng ta chuẩn mực để đo lường hành vi và đo lường chính cuộc sống của chúng ta. Trong tư cách là con người – có thể chọn lựa giữa cái đúng và điều sai – phẩm giá của chúng ta được nối kết một cách trực tiếp với sự vâng phục của chúng ta đối với luật luân lý của Thiên Chúa.
Vâng phục luật luân lý – đó không chỉ là một vấn đề cá nhân mà còn là một vấn đề xã hội. Nó cho chúng ta biết Thiên Chúa muốn chúng ta sống với tha nhân như thế nào. Nó hình thành cho chúng ta một tiêu chuẩn sống. Nó cho ta biết phải làm sao để bảo vệ và tôn trọng phẩm giá của người khác cũng như của mình. Qua đó, nó giải phóng người ta khỏi sự trói buộc của sự dữ. Đây không phải là chuyện hoa hòe, ‘tùy hỉ’chút nào; mà đây là vấn đề hết sức chủ yếu. Đấng trao ban Thập Giới là Thiên Chúa Gia-vê, là Đấng đã dẫn đưa con cái It-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi tình cảnh nô lệ.
17 THÁNG BA
Quí Hơn Vàng!
Trong Mùa Chay, chúng ta ôn lại Thập Giới, vì đây là mùa mà Đức Giêsu Kitô kêu gọi chúng ta khảo sát lương tâm mình. Từ đầu Mùa Chay, Chúa không ngừng giục giã chúng ta hoán cải và giao hòa. Tiếng thúc giục này liên can với việc chúng ta tuân giữ luật luân lý của Thiên Chúa như được thể hiện trong Thập Giới. Hoán cải có nghĩa là đoạn tuyệt với sự dữ và dứt bỏ các thứ tội lỗi. Hoán cải là quyết định trở về vâng phục Thiên Chúa và thực thi điều tốt.
Chúng ta biết rằng Đức Giêsu Kitô đã đến để hoàn thành mọi giới răn mà Thiên Chúa đã trao cho dân Ngài tại Núi Si-nai. Người đòi dân It-ra-en phải tuân phục các giới răn đó. Người xác nhận với họ rằng việc tuân phục các giới răn ấy chính là nền tảng của cuộc giao hòa với Thiên Chúa và của ơn cứu độ vĩnh hằng.
Đó là lý do vì sao phụng vụ thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện… Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỉ cõi lòng… Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh; thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng” (Tv 19,8-11).
Mùa Chay là lúc để ta quay về với Thập Giới của Thiên Chúa. Trong ánh sáng của Thập Giới, chúng ta bắt đầu khảo sát lương tâm mình và đào thải mọi tội lỗi đã bén rễ trong đời ta.
18 THÁNG BA
Hệ Tại Ở Tấm Lòng
Giáo Hội kêu gọi chúng ta hòa giải với Thiên Chúa. Tin Mừng nhắc chúng ta rằng việc hòa giải hệ tại ở tấm lòng. Cốt lõi của đời sống đức tin chính là một thái độ đúng đắn đối với chính mình và đối với Thiên Chúa. Nếu chúng ta là những môn đệ đích thực và những chứng nhân của Đức Kitô, chúng ta không thể sống mà không tìm kiếm sự hòa giải bên trong tâm hồn mình đối với Thiên Chúa. Chúng ta không thể ở lại trong tội lỗi, cũng không thể tiến bước trên đường về nhà Cha bằng … nửa tấm lòng – trong khi Cha đang nóng ruột quay quắt chờ mong trông thấy bóng ta trở về!
Qua dụ ngôn Người Con Đi Hoang, Chúa Giê-su đã cho chúng ta thấy sức mạnh và cái đẹp của sự giao hòa bằng cách đánh động không chỉ trí năng của ta mà cả óc tưởng tượng, trái tim và lương tâm ta nữa. Biết bao con người trong các thời đại đã qua, và biết bao con người thời nay đã gặp đi gặp lại nơi dụ ngôn này câu chuyện riêng tư của chính mình!
19 THÁNG BA
Các Quyền Của Con Người
Phản Ảnh Vai Trò Làm Cha Của Thiên Chúa
Giáo Hội nhìn nhận Thánh Giu-se – người công chính – là cha của Đức Giê-su Na-da-rét. Đó là lý do vì sao chúng ta nghe thấy những lời này trong Tin Mừng: “Cha con và mẹ đã lo lắng kiếm tìm con” (Lc 2,48).
Những lời ấy được thốt lên bởi Mẹ Đức Giêsu sau ba ngày tìm kiếm đứa con 12 tuổi của mình và rốt cục gặp thấy Người “trong Đền Thờ, ngồi giữa các bậc thầy dạy, vừa nghe họ,ï vừa đặt câu hỏi” (Lc 2,46).
Tất cả chúng ta đều công nhận rằng câu chuyện được Thánh Sử Luca kể lại này là biến cố duy nhất về thời niên thiếu của Đức Giêsu được Tin Mừng thuật lại. Thật là một câu chuyện đầy ý nghĩa, vì cậu thiếu niên 12 tuổi ấy được gặp thấy ngồi giữa các thầy dạy trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu” (Lc 2,47).
Đồng thời, biến cố này cũng chiếu một tia sáng đặc biệt vào mầu nhiệm làm cha của Giu-se ở Na-da-rét. Chúng ta nhận ra rằng Đức Maria, sau khi quở trách Đức Giêsu (“Này con, sao con nỡ làm thế?”), đã nói tiếp: “Cha con và mẹ đã lo lắng tìm con”. Và Đức Giêsu trả lời: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà Cha con sao?” (Lc 2,49). Đức Maria đã nhắc đến mối quan tâm của một người cha nơi Thánh Giu-se. Còn cậu thiếu niên Giê-su 12 tuổi thì hướng chỉ đến vai trò làm cha của Thiên Chúa.
Nhờ hình ảnh Thánh Giu-se, chúng ta có thể cảm nhận được phần nào mối liên hệ thâm sâu giữa vai trò người cha trong nhân loại và vai trò người cha của Thiên Chúa; chúng ta có thể hiểu vai trò người cha trong nhân loại phát xuất từ vai trò người cha của Thiên Chúa như thế nào – và rút ra được từ vai trò người cha của Thiên Chúa phẩm giá và sự cao cả đích thực như thế nào.
Đối với một con người, việc sinh một đứa con trước hết có nghĩa là mình “nhận nó từ Thiên Chúa”. Sinh một đứa con chính là nhận một món quà do bởi Thiên Chúa tạo thành. Đó là lý do tại sao con cái thuộc về Thiên Chúa trước hết, rồi mới thuộc về cha mẹ mình. Thật vậy, chân lý này vô cùng phong phú và hàm súc cả cho con cái lẫn cho các bậc cha mẹ.
Đây chính là chỗ để ta nhận hiểu tính cao cả của sứ mạng được ủy thác cho người cha và người mẹ – sứ mạng đó là trở thành khí cụ của Cha trên trời trong việc giáo dục con cái mình. Song ở đây ta cũng nhận thấy cái giới hạn rõ ràng mà các bậc cha mẹ phải tôn trọng khi họ nuôi dạy con cái. Cha mẹ không bao giờ được phép tưởng nghĩ rằng mình sở hữu con cái mình. Nhưng cha mẹ phải giáo dục con cái với ý thức thường xuyên về mối quan hệ đặc biệt giữa con cái họ với chính Cha trên trời. Trong mọi sự, họ phải dành mối quan tâm đệ nhất cho Cha trên trời hơn so với mối quan tâm đến vai trò làm cha làm mẹ trần thế của mình.
Thánh gia ở Na-da-rét là mẫu gương hết sức phong phú không chỉ cho các bậc cha mẹ mà cả cho con cái nữa. Thánh Phao-lô nói rằng “Chúa Cha là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15). Tất cả chúng ta hãy không ngừng tiến gần hơn đến Cha trên trời.
20 THÁNG BA
Phải Chăng Chúng Ta
Đã Từ Khước Tình Cha?
Chỗi dậy và trở về với Cha (Lc 15,18), chúng ta sẽ lấy lại được những gì mình đã đánh mất do tội lỗi. Giống như Người Con Đi Hoang, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng khi mình sống trong tội lỗi, mình đã phong tỏa chính mình khỏi sự bảo vệ và tình yêu của Cha. Chúng ta sẽ nhận hiểu tấm lòng Cha yêu thương ta biết mấy – thế mà ta đã quay lưng lại với Ngài!
Sa vào tội lỗi và hoang phí sản nghiệp của Cha, chúng ta đã bứt đứt mọi mối gắn kết giữa Cha với mình. Chúng ta không đáng được Cha tiếp nhận vào nhà. Sự hòa giải chỉ có thể bắt đầu khi Người Con Đi Hoang thực sự muốn quay về. Rồi, tình yêu và lòng nhân hậu của Cha có thể giúp người con ương ngạnh ấy thắng vượt mặc cảm tội lỗi và bất xứng của mình. Chính khi nhìn vào đáy mắt Cha mình là lúc anh ta nghe được lời tha thứ.
Về gần đến nhà Cha mình, người con trai tự nghĩ : “Con không đáng được gọi là con của Cha nữa”. Nhưng Cha anh đang quay quắt đợi chờ, bền bỉ đợi chờ; và thoạt trông thấy bóng anh, ông tràn ngập vui mừng. Người Cha quên hết những điều sai trái mà con mình đã phạm. Người Cha vồn vã ôm chầm lấy đứa con đang hối hận tận đáy lòng. “Lạy Cha, con đã lỗi phạm …, con không đáng được gọi là con của Cha nữa” (Lc 15,21).
Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta – dù tội lỗi có tày đình đến mấy đi nữa – cũng có thể quay về và thú nhận tội lỗi của mình. Chúng ta cần phải vạch mặt chỉ tên rõ ràng những tội lỗi của mình – và tiến về phía vòng tay đang đón đợi của Cha.
Chúng ta hãy bắt đầu cuộc hành trình trở về nhà Cha. Hãy khảo sát lương tâm mình, xưng thú tội lỗi mình, thống hối và quyết tâm sống một đời sống mới. Đó là những bước của một lộ trình hoán cải.
21 THÁNG BA
Lòng Cha Nhân Từ
Người Cha bồn chồn ngóng đợi đứa con đi hoang của mình quay về. Ông động lòng thương và thứ tha tất cả mọi lỗi lầm con mình đã phạm. Khi đứa con còn ở đàng xa, người Cha đã nhận ra bóng anh, và ông động lòng thương. Ông chạy đến, ôm anh vào lòng và hôn anh. Đứa con nói với Cha: “Lạy Cha, con đã lỗi phạm với trời và với Cha; con không đáng được gọi là con của Cha nữa”
Nhưng Cha ra lệnh cho các gia nhân: “Mau mang áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, đeo nhẫn vào ngón tay cậu, xỏ giày vào chân cậu. Hãy hạ con bê béo để ăn mừng – vì con của ta đây đã chết nhưng nay sống lại, đã mất nhưng nay được tìm thấy.”(Lc 15,20 – 24)
Thiên Chúa đối xử với mỗi người chúng ta – là những tội nhân – với cùng một tình yêu vô điều kiện như thế. Ngài động lòng thương chúng ta khi chúng ta quay lại với Ngài bằng trái tim thống hối chân thành. Ngài tỏ cho chúng ta thấy Ngài có tấm lòng từ phụ biết bao.
22 THÁNG BA
Tiếng Gọi Hoán Cải
Thúc Bách Không Ngừng
Đức Giê-su Kitô xác nhận tầm quan trọng của việc vâng phục lề luật Thiên Chúa như được công bố ở Núi Si-nai. Nhưng sứ mạng của Đức Giêsu còn vượt quá những luật luân lý của giao ước cũ. “Vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để những ai tin vào Người Con ấy … thì được sự sống đời đời” (Ga 3,16).
Đức tin vào Đức Kitô không đơn thuần chỉ có nghĩa là vâng phục lề luật, dù sự vâng phục này đến từ “niềm kính sợ Đức Chúa” như được nhắc đến trong Thánh Vịnh 111. Đức tin vào Đức Kitô bao hàm việc nhìn nhận tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Tình yêu của Chúa Cha được kết đọng nơi món quà tuyệt hảo là chính Con Một Ngài. Đó là lý do tại sao luật luân lý của giao ước mới đạt đến tột đỉnh và cốt lõi của nó trong giới răn yêu thương.
Chúng ta có thể chu toàn thánh ý của Thiên Chúa bằng cách tuân phục tất cả các giới răn mà Ngài truyền dạy. Nhưng đó là vị Thiên Chúa Tình Yêu đã mạc khải chính Ngài nơi Đức Kitô, nên chúng ta chỉ có thể đáp trả lại bằng tình yêu mà thôi! Vì thế, cuộc khảo sát lương tâm của chúng ta trong Mùa Chay phải xoáy vào tiếng gọi mến Chúa yêu người. Đây cũng là trục lộ mà Đức Kitô dẫn chúng ta đi trên con đường hoán cải. Tiếng gọi mời yêu thương ấy cũng chính là tiếng gọi không ngừng hoán cải tận đáy lòng. Cũng như chúng ta cần cầu nguyện thường xuyên, việc hoán cải cũng phải là một tiến trình kéo dài suốt cuộc đời người tín hữu.
23 THÁNG BA
Chúng Tôi Rao Giảng
Đức Kitô Chịu Đóng Đanh
Mùa Chay, Giáo Hội không chỉ đào sâu luật luân lý của Thập Giới. Cùng với Thánh Phao-lô, Giáo Hội còn rao giảng cho chúng ta “Đức Kitô chịu đóng đanh” trên Núi Can-vê.
Thuở xưa, người Do Thái đòi dấu lạ và người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan – như một điều kiện để họ tin vào hành động cứu độ của Thiên Chúa (1Cr 1,22). Con người thời nay cũng có thái độ tương tự như người Do Thái và người Hy Lạp thời các Tông Đồ. Hay nói đúng hơn, đòi hỏi của con người thời nay còn xa hơn thế nữa. Đó đây đôi khi chúng ta gặp phải những chỉ trích và chống đối đối với các huấn lệnh của Thiên Chúa một cách phũ phàng hơn. Dù sao, Giáo Hội vẫn kiên trung với lời tuyên bố của Tông Đồ Phao-lô: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh” (1Cr 1,23).
Nơi Đức Kitô, chúng ta tìm thấy câu trả lời cho mọi sự! Mọi chỉ trích và chống đối nhắm vào các huấn lệnh của Thiên Chúa đều bị hóa giải khi chúng đối diện với một Đức Kitô chịu đóng đanh. Thập giá Can-vê “thì khôn ngoan hơn loài người” và “mạnh mẽ hơn loài người” (1Cr 1,25).
24 THÁNG BA
Xin Cứu Chúng Con Khỏi Sự Dữ
“Ta là Đức Chúa, là Thiên Chúa của các ngươi; Ta đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20,2). Thiên Chúa, Đấng đã dẫn đưa It-ra-en ra khỏi Ai-cập, vẫn không ngừng giải thoát con người khỏi tội lỗi của họ. Lề luật của Thiên Chúa – tức Thập Giới và mệnh lệnh yêu thương – là con đường giải phóng cho chúng ta.
Đức Kitô cho biết chính Người là con đường giải phóng ấy cho loài người khi Người tuyên bố: “Hãy phá hủy đền thờ này đi, và nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Người có ý nói về “đền thờ thân thể Người” (Ga 2,21) – nghĩa là, Người đang nói đến cuộc Phục Sinh.
Trong Mùa Chay, chúng ta hãy rà soát lại lương tâm mình dưới ánh sáng các huấn lệnh của Thiên Chúa – để chúng ta có thể dứt bỏ tội lỗi. Chúng ta hãy đổi mới trong mình niềm hy vọng gắn kết với cuộc Phục Sinh của Đức Kitô, cuộc Phục Sinh ấy mở ra cho chúng ta khả năng đoạn tuyệt hoàn toàn khỏi sự dữ – khỏi tội lỗi và sự chết.
Cuộc giải phóng It-ra-en khỏi Ai-cập – khỏi cảnh nô lệ – thực sự là một tiên báo về cuộc giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi nhờ giá Máu Đức Kitô.
25 THÁNG BA
Người Phụ Nữ Khôn Sánh
Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria bày tỏ sự ưng thuận với sứ thần. Bản trình thuật của Luca – dù thật vắn tắt – vẫn vừa vô cùng hàm súc các nguồn Cựu Ước vừa nổi bật đặc tính mới mẻ của Kitô giáo. Nhân vật chính trong câu chuyện này là người ‘mệnh phụ’ (Ga 2,4) được tuyển chọn từ đời đời để làm cộng tác viên thiết yếu đệ nhất cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đó là almah – hay thiếu nữ – đã được ngôn sứ Isaia báo trước (Is 7,14). Đó là cô gái thuộc dòng dõi hoàng tộc, được gọi là Myriam, Maria ở Na-da-rét, một làng quê nghèo nàn lẩn khuất nhất miền Ga-li-lê (Ga 1,46). Nét mới mẻ độc đáo của Kitô giáo ở đây chính là sự kiện một phụ nữ được đặt vào một địa vị cao vời khôn sánh. Sự kiện này thật không thể quan niệm được đối với não trạng Do Thái thời ấy, cũng như đối với nền văn minh Hy La vốn đang cường thịnh lúc bấy giờ.
Sứ thần Ga-bri-en đã chào Maria với những lời lẽ hết sức trịnh trọng đến nỗi làm Maria kinh sợ: “Khaire – Ave – Mừng vui lên!” Lần đầu tiên, niềm vui cứu độ âm vọng trên mặt đất. “Kekharitomene – gratia plena – Bà đầy ân phúc!” Đây là Đấng Vô Nhiễm, được chạm khắc trong sự sung mãn nhiệm mầu của sự tuyển chọn của Thiên Chúa, của sự tiền định từ đời đời, của sự trong sáng tuyệt diễm. “Dominus tecum – Thiên Chúa ở cùng Bà!”
Thiên Chúa ở với Đức Maria, một thành viên của gia đình nhân loại được tuyển chọn để làm Mẹ Đấng Emmanuel – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta!” Từ bây giờ và cho đến mãi mãi, Thiên Chúa sẽ ở với con người. Thiên Chúa sẽ không quay lưng lại và sẽ không bỏ con người chơi vơi. Thiên Chúa đã tự kết hiệp nên một với con người để cứu con người và trao ban cho con người chính Con Một của Ngài, là Đấng Cứu Độ. Maria trở thành một bảo đảm cụ thể và sống động của sự hiện diện cứu độ này của Thiên Chúa.
Thần sứ yêu cầu Maria ưng thuận cho Ngôi Lời đến trần gian. Câu trả lời của Maria chính là tiếng vọng lại hoàn toàn từ tiếng đáp trả của Ngôi Lời đối với Thiên Chúa Cha: “Này con đây”. Chính nhờ được dẫn trước và được hỗ trợ bởi lời đáp trả “Này con đây” của Con Thiên Chúa mà Maria đã có thể thưa lên “Này con đây”. Chính tại khoảnh khắc Maria thốt lên lời ưng thuận, Con Thiên Chúa trở thành Con Người. Ngày Lễ Truyền Tin, chúng ta cử hành mầu nhiệm nền tảng là cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời. Thư Do Thái cho phép chúng ta đi sâu vào những chiều sâu khôn dò của sự tự hạ này của Ngôi Lời – tự hạ vì yêu con người cho đến chết trên thập giá.
“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: ‘Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.’”Dt 10,5-7
Chúa đã tạo cho con một thân thể. Việc cử hành Lễ Truyền Tin hôm nay dẫn chúng ta trực tiếp đến với ngày Giáng Sinh, sau chín tháng. Các anh chị em tín hữu của chúng ta ngay trong những thế kỷ đầu tiên đã nắm bắt rất rõ ý nghĩa mầu nhiệm này – một mầu nhiệm đưa dẫn chúng ta tới cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu. Lễ Truyền Tin rơi vào Mùa Chay – sự kiện này giúp chúng ta nhận hiểu ý nghĩa cứu chuộc của nó: Cuộc Nhập Thể gắn kết chặt chẽ với công cuộc cứu chuộc mà Đức Giêsu hoàn thành bằng việc đổ máu vì chúng ta trên Thập Giá.
26 THÁNG BA
Hãy Tung Hô Vạn Tuế Đức Vua
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Vạn tuế trên các tầng trời.” Những lời ấy đã được nhiệt liệt hô vang bởi tất cả những người đến Giê-ru-sa-lem mừng đại lễ Vượt Qua. Những lời ấy vang lên – đặc biệt từ môi miệng trẻ em – khi đám đông chào đón Đức Giêsu vào thành mừng lễ. Vì thế, mối liên hệ giữa giới trẻ với biến cố Đức Giêsu khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem luôn luôn là một yếu tố quan trọng trong cử hành của Giáo Hội vào Chúa Nhật Lễ Lá. Đức Giêsu vẫn tiếp tục kêu gọi các bạn trẻ của thời đại chúng ta. Người nói: “Hãy đến! Hãy chào mừng Ta là Vua và là Đức Chúa của các con”.
Chúng ta hãy hướng nhìn về Đức Kitô trong tinh thần này. Người là Đấng đã vào Giê-ru-sa-lem trên lưng lừa con, ứng nghiệm các lời ngôn sứ xưa. Các tông đồ đã trải áo choàng trên lưng lừa cho Đức Giêsu vào Thành Thánh. Và khi Người đến gần triền dốc chân núi Ô-liu, toàn thể đám đông – cả già lẫn trẻ – đã hoan hô nhiệt liệt. Họ “bắt đầu lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa vì những việc đầy quyền năng mà họ đã chứng kiến” (Lc 19,37).
27 THÁNG BA
Sự Im Lặng Đầy Căng Thẳng
Trong Tin Mừng Matthêu, chúng ta gặp thấy Đức Giêsu Na-da-rét đến Giê-ru-sa-lem. Sự kiện Người vào thành gắn liền với niềm khấp khởi nôn nao của đám đông khách hành hương là những người tựu về để mừng Lễ Vượt Qua. Họ tung hô: “Vạn tuế Con Vua Đa-vít” (Mt 21,9).
Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng – trong vài chốc lát – niềm phấn khởi ấy đã trở thành ngột ngạt căng thẳng. Đó là lúc mà từ giữa đám đông, một số người Pha-ri-sêu yêu cầu Đức Giêsu cấm các môn đệ Người tung hô Người (Lc 19,39).
Câu trả lời của Đức Giêsu thật đầy ý nghĩa: “Nếu họ câm miệng, thì chính những hòn đá sẽ cất tiếng tung hô” (Lc 19,40). Vâng, chúng ta hãy nhìn ngắm Đấng “nhân danh Chúa mà đến” (Mt 21,9) trong viễn tượng của Tuần Thánh. “Nào chúng ta lên Giê-ru-sa-lem … Con Người … sẽ bị nộp vào tay dân ngoại, sẽ bị chế nhạo, sỉ vả; và sau khi đã đánh đòn Người, họ sẽ treo Người trên Thập Giá …” (Lc 18,31-33).
Những lời tung hô của đám đông vào Chúa Nhật Lễ Lá sẽ ngưng bặt. Chính Con Người cũng bị ‘dập tắt’ bởi sự im lặng của cái chết. Và rồi, vào chiều hôm trước ngày sa-bát, người ta hạ Người xuống khỏi thập giá, họ sẽ đặt Người vào trong một ngôi mộ, sẽ lăn một tảng đá lấp cửa mộ, và sẽ niêm kín lại.
Nhưng ba ngày sau, tảng đá ấy sẽ được lăn đi. Các phụ nữ đến mộ và nhận ra rằng ngôi mộ trống không. Phê-rô và Gio-an cũng chứng kiến ngôi mộ trống không. Đó, khi mọi người và mọi sự đều lặng thinh thì đá sẽ “cất tiếng lên”! Tảng đá lấp cửa mồ đã cất tiếng! Nó loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su Kitô. Và chính từ tảng đá ấy mà mầu nhiệm này được mạc khải cho các phụ nữ và các tông đồ – và các ngài sẽ rao giảng về mầu nhiệm này trên khắp các ngả đường Giê-ru-sa-lem và, về sau, đến khắp cùng thế giới. Bởi đó, từ thế hệ này đến thế hệ kia, “những hòn đá vẫn không ngừng cất tiếng kêu lên”.
28 THÁNG BA
Vâng Phục Cho Đến Chết
Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su Kitô hàm chứa những gì? Nó bao gồm các biến cố của những ngày cuối cùng Mùa Chay, nhất là những ngày cuối cùng Tuần Thánh. Các biến cố này có khía cạnh nhân loại của chúng, được ghi lại trong các trình thuật thương khó của Chúa trong các Sách Tin Mừng. Xuyên qua những biến cố này mà mầu nhiệm Vượt Qua mặc lấy một chiều kích nhân loại đích thực. Nó trở thành lịch sử của chúng ta.
Nhưng các biến cố ấy còn có chiều kích thần linh nữa. Thánh Phao-lô viết về Đức Kitô như vị Người Chúa: “Mặc dù Người vốn là Thiên Chúa, Người đã không nghĩ phải giành cho được địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người đã hủy mình ra không, mặc lấy thân phận nô lệ, trở thành giống hẳn phàm nhân” (Pl 2,6-7).
Chiều kích này của mầu nhiệm được gọi là Nhập Thể: Chúa Con – chia sẻ cùng bản tính với Chúa Cha – đã trở thành con người. Người trở thành người tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, người tôi tớ của Gia-vê, như Sách Isaia đã nói. Nhờ sự tự hạ này của Con Người mà nhiệm cục cứu độ thần linh đạt đến đỉnh điểm hoàn thành của nó.
Thánh Phao-lô tiếp tục nói với chúng ta về mầu nhiệm này: “Người đã hạ mình, vâng phục cho đến chết – chết trên thập giá” (Pl 2,7-8).
Chiều kích ấy của mầu nhiệm được gọi là Cứu Chuộc. Sự vâng phục của Con Người – vâng phục cho đến chết trên thập giá – đã vượt qua và đã xóa được món nợ tội lỗi của chúng ta.
29 THÁNG BA
Một Viễn Tượng Mới
Về Lịch Sử Nhân Loại
Mầu nhiệm Vượt Qua là thực tại thần linh đơn nhất chứa đựng cả Nhập Thể và Cứu Chuộc – được Thiên Chúa mạc khải cho con người. Mầu nhiệm này được Thiên Chúa mạc khải cho trái tim và lương tâm của mỗi người trong chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều dự phần trong mầu nhiệm xuyên qua di sản tội lỗi vốn dẫn con người – từ thế hệ này sang thế hệ khác – đến sự chết. Mỗi người trong chúng ta đều tìm thấy trong thực tại này sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su Kitô không chấm dứt ở cái chết tự hiến của Người. Nó không thể bị phủ lấp bởi tảng đá lớn mà người ta lăn ra để đóng kín ngôi mộ sau cái chết của Đức Giêsu trên đồi Gôn-gô-tha.
Vào ngày thứ ba, tảng đá này sẽ được lăn ra khỏi bởi quyền năng Thiên Chúa, và nó sẽ bắt đầu “cất tiếng lên”. Tảng đá cất tiếng lên để nói như Thánh Phao-lô: “…Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn dương Người và tặng ban cho Người một danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu, để khi nghe Danh Giê-su, mọi vật trên trời dưới đất và trong địa ngục đều phải quì gối sập lạy, và mọi miệng lưỡi đều phải tuyên xưng rằng Đức Giê-su Kitô là Chúa” (Pl 2,9-11). Như vậy, sự cứu chuộc cũng có nghĩa là sự tôn dương.
Sự tôn dương của Đức Kitô – tức cuộc Phục Sinh của Người – đem lại cho chúng ta một viễn tượng hoàn toàn mới về lịch sử nhân loại. Do kế thừa di sản tội lỗi, con người vốn ở dưới ách thống trị của sự chết. Nhưng Đức Kitô đã mở ra cho chúng ta kỷ nguyên của sự sống vượt thắng sự chết. Sự chết là một phần của thực tại thế giới hữu hình. Nhưng sự sống thì ở chính nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa của sự sống nói với chúng ta xuyên qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Con Ngài.
30 THÁNG BA
Để Bước Vào Tam Nhật Thánh
“Nguyện chúc anh em ân sủng và bình an của Đức Giê-su Kitô, vị chứng nhân trung thành” (Kh 1,4-5).
Đức Giê-su Kitô, vị chứng nhân trung thành của Thiên Chúa vô hình, thách đố chúng ta với uy lực của bài diễn từ mà Người đưa ra trên căn gác thượng trong phụng vụ Thứ Năm Thánh. Đây là những lời thiết lập nên Giao Ước Mới trong máu hy tế của Người. Những lời này mạc khải chiều sâu thẳm nhất của mầu nhiệm Thiên Chúa là Tình Yêu.
Bằng cách nào chúng ta có thể sửa soạn để cử hành Tam Nhật Thánh? Tam Nhật Thánh là khoảng thời gian thánh thiêng nhất trong năm. Trong khoảng thời gian thánh thiêng này, chúng ta cử hành: Thứ Năm Thánh, Thứ Sáu Thánh và Đêm Vọng Phục Sinh. Thời gian đặc biệt này sẽ tái hiện cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân trần: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
Trước khi bước vào thời gian thánh này, Giáo Hội cử hành phụng vụ buổi sáng Thứ Năm Thánh – gọi là Thánh Lễ Truyền Dầu – một phụng vụ mang đậm sắc thái của niềm mong đợi và sự chuẩn bị thánh thiêng. Trong Thánh Lễ này, Bài Đọc thứ nhất trích từ Sách Ngôn Sứ Isaia – về sau được Đức Giêsu dẫn lại trong Tin Mừng Luca: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi” (Lc 4,18; Is 61,1). Đức Giêsu Na-da-rét đã tham chiếu đến những lời này của Ngôn Sứ Isaia ngay từ buổi bắt đầu sứ mạng cứu thế của Người.
31 THÁNG BA
“Thầy Mà Lại Rửa Chân Cho Con Ư?”
Việc cử hành bí tích của Bữa Tiệc Ly gắn liền với việc rửa chân cho các tông đồ. “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khă mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lây khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13,3-5).
Chính lúc ấy, Người gặp phải sự phản kháng của Phê-rô. Phê-rô cương quyết từ chối, ông nói: “Ai đời Thầy mà lại rửa chân cho con, không thể như vậy được !”
Trước đó, trình thuật Tin Mừng cho thấy Phê-rô cũng đã nhiều lần phản kháng Đức Kitô tương tự như vậy. Sau khi môn đệ này tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã tiên báo về cuộc khổ nạn của Người. Thế là, Phê-rô lên tiếng phản đối, ông nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 16,22).
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống – thế sao Người có thể nói về cuộc khổ nạn và cái chết thập giá? Thiên Chúa là Chủ Tể tối cao của mọi loài. Ngài là Chúa trời đất. Vậy, làm sao Ngài lại có thể chịu thua con người? Làm sao con người có thể bắt Ngài phảûi chết?
Lần ấy, Đức Giêsu đã nghiêm khắc quở mắng Phê-rô. Có lẽ Người đã không hề quở mắng ai khác một cách nặng nề đến như thế.
Nhưng tại Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã không quở mắng Phê-rô. Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở ông rằng “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13,8). Và Phê-rô đồng ý để Thầy rửa chân cho mình.
Tại sao Phê-rô phản đối Đức Giêsu khi Người báo trước cuộc khổ nạn và cái chết thập giá? Có lẽ bởi vì ông đã nhận biết thần tính của Đức Kitô: “Thầy là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Tuy nhiên, “không ai biết Con ngoại trừ Cha” (Mt 11,27). Chính Chúa Cha mạc khải thần tính của Chúa Con cho Phê-rô. Song đó cũng chính là lý do tại sao Phê-rô lập luận: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, vậy cớ sao Thầy nói rằng Thầy sẽ bị xét xử và bị giết chết bởi con người? Há Thiên Chúa không phải là Chủ Tể tuyệt đối của mọi sự sao? Há Thiên Chúa không phải là Chủ Tể tuyệt đối của sự sống sao?
Và làm sao Con Thiên Chúa hằng sống và là Chủ Tể mọi sự lại cư xử như một tôi tớ? Làm sao Người lại có thể quì xuống trước mặt các tông đồ và rửa chân cho họ được? Làm sao Người lại có thể quì xuống dưới chân Phê-rô được nhỉ?
Phê-rô đang cố bảo vệ hình ảnh Thiên Chúa do … chính ông nghĩ ra!
Vì Thiên Chúa của Giao Ước Mới không hạn định lời hứa của Ngài nơi bất cứ một đất nước riêng rẽ nào hay bất cứ một nơi chốn chất thể nào. Không một nơi chốn nào trên trần gian có thể chứa đựng được hoạt động cứu độ của Thiên Chúa đối với những ai qui tụ lại trong Đức Kitô. Về mầu nhiệm này, Thánh Phao-lô viết: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
2 THÁNG BA
Thiên Chúa Gọi Đích Danh Chúng Ta
Cũng như Mô-sê được gọi trong khi ông đang chăn giữ đoàn vật trong hoang địa, Thiên Chúa gọi chúng ta trong hoang địa. Ngài gọi đích danh chúng ta, như Ngài đã gọi Mô-sê: “Mô-sê! Mô-sê!” (Xh 3,4).
Thiên Chúa truyền lệnh cho chúng ta cũng như Ngài đã truyền lệnh cho Mô-sê: “Hãy cởi giày ra khỏi chân ngươi, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh” (Xh 3,5).
Hãy cởi bỏ sự cứng cỏi ra khỏi lòng bạn! Hãy nhổ rễ sự kiêu căng ra khỏi tâm trí và ý chí bạn. Thời gian Mùa Chay là một thời gian thánh của Giáo Hội. Đó là một thời gian đầy sức mạnh. Đó là một thời gian mà Thiên Chúa hiện diện với chúng ta một cách đặc biệt.
Mùa Chay truyền lệnh cho con tim và lương tri chúng ta quay về với Thiên Chúa – Đấng đã tỏ hiện cho Mô-sê trong hoang địa. Ngài là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của I-sa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của uy phong khôn sánh, và cũng là Vị Thiên Chúa tìm kiếm con người để thiết lập một giao ước với con người.
Hãy lưu ý điều này: Thiên Chúa đã tự biểu lộ chính Ngài trong hình thức một bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi (Xh 3,2). Vị Thiên Chúa tình yêu toàn năng tự tỏ hiện chính Ngài trước mắt của Mô-sê trong hình thức của một bụi gai bốc cháy.
Đấy là Thiên Chúa, là Đấng siêu việt. Người ta không thể nhìn thấy Ngài bằng mắt trần khi còn đang sống trên mặt đất này. Mô-sê giấu mặt đi, bởi vì ông sợ không dám nhìn Thiên Chúa (Xh 3,6). Rồi, ông nghe tiếng Thiên Chúa phán: “Đừng bước tới gần thêm!” (Xh 3,5). Mô-sê vừa sợ hãi vừa bị hấp lực bởi Đấng đang phán bảo ông từ trong bụi gai. Sự hiện diện của Thiên Chúa bao trùm lấy ông. Ông chìm đắm trong sự thánh thiện của Thiên Chúa và được biến đổi một cách thâm sâu bởi cuộc gặp gỡ này.
3 THÁNG BA
Gặp Gỡ Đấng Thánh
Tại chính trung tâm của phụng vụ Mùa Chay, mầu nhiệm về sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa được công bố cho chúng ta. Mô-sê đã trở thành một chứng nhân đặc biệt của sự thánh thiện ấy. Mầu nhiệm này phải đồng hành với chúng ta mỗi ngày trong cả Mùa Chay cho đến khi sự thánh thiện và tình yêu của Thiên Chúa được công bố qua Thập Giá và Cuộc Phục Sinh của Đức Kitô.
Tuy nhiên, để cho mầu nhiệm vượt qua phát sinh hoa trái dồi dào trong cõi lòng và lương tâm chúng ta, chúng ta phải kinh nghiệm một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa như cuộc gặp gỡ mà Mô-sê đã trải qua tại chân núi Hô-rép.
Vị Thiên Chúa lên tiếng nói với con người tại chân núi ấy là ai vậy? Mô-sê đã hỏi tên Ngài và ông đã nghe câu trả lời: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Theo Thánh Tô-ma A-qui-nô, câu trả lời ấy của Thiên Chúa có thể được diễn dịch thành: “Ta là Đấng mà bản chất của mình là hiện hữu.”
Thiên Chúa nói danh tánh của chính Ngài cho con người. Điều đó cho thấy sự mật thiết của giao ước mà Ngài thiết lập với Abraham và con cháu ông. Thật vậy, Ngài nói với Mô-sê: “Ta là Đấng sẽ giải phóng và cứu vớt dân Ta.”
Thiên Chúa tỏ cho Mô-sê thấy mối quan tâm của Ngài đối với mọi người – và đối với dân Ngài xét như một toàn thể: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập … “ (Xh 3,7-8). Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu, là Đấng Giải Phóng. Ngài là Đấng Sáng Tạo, là Thiên Chúa của giao ước, là Thiên Chúa cứu độ.
4 THÁNG BA
Đến Gần Thiên Chúa,
Chúng Ta Sẽ Được Biến Đổi
Hằng năm, qua phụng vụ, Mùa Chay nhắc lại cuộc gặp gỡ của Mô-sê với Thiên Chúa hằng sống. Tại gốc rễ kinh nghiệm đức tin của chúng ta, chúng ta phải thấy bật ra sự cao cả khôn dò của Thiên Chúa. Thiên Chúa vượt quá các cảm quan và vượt quá trí hiểu của chúng ta; thế nhưng, Ngài lại hiện diện với chúng ta. Cũng như Ngài đã tự tỏ hiện cho Mô-sê, Ngài cũng tự tỏ hiện cho chúng ta.
Sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa được đổ tràn xuống trên Mô-sê, và cuộc đời ông đã được biến đổi. Ông có được sức mạnh và quyền lực mới. Vâng, Mô-sê vốn cảm nhận sâu sắc tình cảnh bị áp bức của dân mình tại Ai-cập và vốn khát vọng giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ. Nhưng ông đã không có đủ sức để thực hiện điều ấy… Ông đã phải trốn thoát qua đất Midian sau khi hạ sát một người Ai-cập.
Bấy giờ, Thiên Chúa gọi đích danh ông và tỏ cho ông biết danh tánh Ngài. Qua Danh này, quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Mô-sê, một quyền năng sẽ thực hiện bao sự việc lạ lùng. Mô-sê trở lại Ai-cập, đứng trước mặt Pha-ra-on, và với quyền năng Thiên Chúa, ông thuyết phục được nhà vua. Cũng chính nhờ quyền năng Thiên Chúa, ông đã vượt qua được sự yếu đuối và nhút nhát của đồng bào mình. Ông giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai-cập. Vì thế, Mô-sê trở thành công cụ của cuộc Xuất hành – tức cuộc Vượt Qua của giao ước cũ. Trong cuộc Xuất hành này, Thiên Chúa tự biểu lộ chính Ngài như “Đấng Giải Phóng”. “Ta là Đức Chúa, là Thiên Chúa của các ngươi; Ta đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20,2).
5 THÁNG BA
Xu Hướng Về
Một Thứ Tự Do Vô Giới Hạn
Cuộc Vượt Qua của giao ước cũ là hình ảnh báo trước cuộc Vượt Qua mới của Đức Kitô. Trong biến cố dân It-ra-en trốn thoát ra khỏi Ai-cập, Thiên Chúa tự thể hiện chính Ngài như Đấng giải phóng họ khỏi tình cảnh nô lệ. Giờ đây, Ngài tự biểu lộ như Đấng cứu độ tất cả những ai tin vào Ngài xuyên qua sức mạnh của Thập Giá và Phục Sinh.
Ta là Đức Chúa, là Thiên Chúa của các ngươi. Nhờ hy tế Thập Giá của Đức Kitô, Ta có thể đưa các ngươi ra khỏi tình cảnh nô lệ. Tội lỗi là ách nô lệ tai ác nhất. Nó dẫn tới sự chết. Khi các ngươi lạm dụng tự do, chính là các ngươi đang ở trong tình cảnh nô lệ. Và hậu quả của điều đó chỉ có thể là sự chết. Khi cố bám lấy một thứ tự do vô giới hạn, phải chăng chúng ta, những con người hiện đại, đã lựa chọn sự câu thúc và đã tự dối gạt chính mình?
Để vãn hồi sự tự do khỏi tội lỗi, cần phải có một hành động quyết liệt của Thiên Chúa. Mọi tội lỗi phải được vạch mặt đích danh. Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải được trao ban lại cho đời sống chúng ta.
Điều chúng ta cần có chính là ánh sáng giúp ta nhận thức về tội lỗi mình, ánh sáng đến từ sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống. Aùnh sáng ấy giúp mỗi người chúng ta có thể đi vào ngả đường tự do đích thực trong Đức Kitô.
6 THÁNG BA
Cha Mừng Đón Tội Nhân Về Nhà
Muợn lời Thánh Phao-lô trong Thư 2 Cô-rinh-tô, Giáo Hội nói với chúng ta: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Ngài, và trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải” (2Cr 5,17-18).
Trong ánh sáng của những lời đó, chúng ta nhận hiểu sứ điệp của dụ ngôn Người Con Đi Hoang. Thiên Chúa, Đấng hòa giải chúng ta với chính Ngài trong Đức Kitô, tự biểu hiện qua dụ ngôn này trong hình ảnh người cha. Ngài niềm nở tiếp đón con mình khi anh ta trở về nhà và kêu lên: “Con đã lỗi phạm … Con không đáng được gọi là con của cha nữa” (Lc 15,21).
7 THÁNG BA
Tình Yêu Thiên Chúa
Là Tình Yêu Vô Giới Hạn
Tất cả chúng ta đều rất quen thuộc với dụ ngôn Người Con Đi Hoang. Dụ ngôn này nói lên sự thật về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một câu chuyện không thể nào quên – một câu chuyện đánh động chúng ta hết sức sâu sắc.
Trong Thông Điệp Dives in misericordia, cũng như trong Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia, dụ ngôn này trở thành một điểm qui chiếu nòng cốt của các giáo huấn cho Giáo Hội hôm nay. Những giáo huấn ấy nêu bật một điểm luôn luôn có tầm hết sức quan trọng trong toàn bộ sứ điệp Tin Mừng: việc con người hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Theo Thánh Phao-lô, trở về có nghĩa là trở nên một tạo vật mới trong Đức Kitô. Thiên Chúa, giống như người cha trong dụ ngôn, niềm nở tiếp đón tất cả những con trai con gái đi hoang của Ngài. Vì thế, khi một người được sinh lại trong Đức Kitô, người ấy trở thành một con người mới.
Chúa Cha đã trao ban cho chúng ta Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Kitô, để mỗi người trong chúng ta – dù đi hoang đàng – đều có khả năng trở thành một con người mới trong Đức Kitô. Được đổi mới một cách thâm sâu trong hữu thể mình, chúng ta có thể tìm thấy con đường về nhà Cha. Con đường ấy chính là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với chúng ta.
8 THÁNG BA
Chúng Ta Được Năng Lực Biến Đổi
Của Thiên Chúa Chạm Đến
Chúng ta đọc thấy trong Thông Điệp Dives in misericordia: “Dụ ngôn Người Con Đi Hoang diễn tả một cách đơn giản nhưng rất thâm sâu về thực tại hoán cải. Dụ ngôn này là mô tả cụ thể nhất của tình yêu và lòng thương xót.” Qua dụ ngôn, chúng ta thấy được cách mà tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa phục hồi và thăng tiến những gì tốt đẹp. Tình yêu và lòng thương xót này thậm chí có thể rút ra được điều tốt từ bất cứ hình thức sự dữ nào trong thế giới chúng ta.
Tình yêu và lòng thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa chính là nền tảng sứ điệp cứu độ của Đức Kitô. Xuất phát từ tình yêu và lòng thương xót ấy, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài trong Đức Kitô. Chúng ta nhận ra rằng Đức Giêsu cũng dạy các môn đệ Người phải biết yêu thương và nhân hậu. Sứ điệp ấy không bao giờ ngừng thôi thúc con tim và hành động của các môn đệ Đức Kitô. Nơi họ, tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với nhau không bao giờ bị chao đảo bởi sự dữ ; trái lại, tình yêu ấy vượt thắng mọi sự dữ (Rm 12,21).
Như vậy, dụ ngôn Người Con Đi Hoang cho chúng ta thấy cách mà tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa biến đổi đời sống của tội nhân, cách mà con người cũ bị đẩy lùi và vượt qua. Ngay cả những tội lỗi đã bén rễ và những thói xấu trầm kha cũng bị nhổ rễ bởi ơn hoán cải. Đức Kitô đã đem lại sự sống mới này cho con người “bằng Máu Người đổ ra trên Thập Giá” (Cl 1,20). Trong Đức Kitô, tội nhân trở thành “một tạo vật mới”. Trong Đức Kitô, tội nhân được hòa giải với Thiên Chúa là Cha.
9 THÁNG BA
Trở Về Với Vòng Tay Từ Ái Của Cha
Thánh Phao-lô nói: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài, Ngài không chấp những lỗi lầm của chúng ta” (2Cr 5,19).
Cuộc giao hòa xảy ra giữa Người Con Đi Hoang và cha mình đã được hoàn tất nhờ công cuộc của Đức Kitô. Thiên Chúa của giao ước vĩnh cửu tự thể hiện chính Ngài nơi Đức Kitô như là Vị Thiên Chúa của giao hòa. Chân lý này có tầm thật nền tảng trong Kitô giáo. Con người được mời gọi giao hòa với Thiên Chúa Cha trong Đức Kitô.
Trong Thư 2 Cô-rinh-tô, Thánh Phao-lô cho biết Thiên Chúa không chỉ “giao hòa chúng ta với chính Ngài trong Đức Kitô” mà còn thêm rằng “Ngài trao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2Cr 5,18). Rồi Thánh Phao-lô tiếp: “Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2Cr 5,20).
Sứ vụ hòa giải – một hoa trái của cuộc giao hòa giữa Thiên Chúa với con người trong Đức Kitô – là một phần căn bản thuộc sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Sứ mạng này trao cho Giáo Hội quyền hòa giải con người với Thiên Chúa xuyên qua việc tha thứ các tội lỗi của họ.
Nhưng, hơn thế nữa, như Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia (ch.11, số 7) cho thấy, “Thánh Phao-lô thậm chí cho phép chúng ta mở rộng cái nhìn của mình về công cuộc của Đức Kitô đến những chiều kích vũ trụ khi ngài viết rằng nơi Đức Kitô Thiên Chúa đã giao hòa chính Ngài với tất cả mọi loài, trên trời cũng như dưới đất” (Cl 1,20).
10 THÁNG BA
Cái Giá Của Ơn Giao Hòa
Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc, đã trả giá cân xứng cho tội lỗi chúng ta. “Người là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Người là sự giao hòa của chúng ta.
Đó là lý do tại sao cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô – được biểu trưng một cách bí tích trong Thánh Lễ – thường được gọi là phụng vụ “hy lễ hòa giải”. Đây là lời của Kinh Nguyện Thánh Thể III: “Xin Cha nhìn đến Đấng mà cuộc tử nạn của Người đã giao hòa chúng con với chính Cha”. Giao hòa với Thiên Chúa và với anh chị em, đó là việc thiết yếu. Chính Đức Giêsu đã dạy rằng trước khi dâng của lễ, cần phải giao hòa với anh em trước đã (Mt 5,23).
Thánh Phao-lô viết: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2Cr 5,20). Giáo Hội tha thiết lặp lại lời kêu gọi ấy của Thánh Tông Đồ. Giáo Hội kêu gọi tất cả chúng ta tiến tới sự thánh thiện đích thực trong Đức Kitô. Thánh Phao-lô tiếp tục: “Vì chúng ta, nên Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi – để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2Cr 5,21).
Tiếng gọi mời con người hòa giải với Thiên Chúa không đơn thuần chỉ là một sứ điệp hay thậm chí một tiếng kêu van. Sứ điệp ấy mạnh mẽ không kém so với sứ điệp của Gio-an Tẩy Giả trên bờ sông Gio-đan, hay so với sứ điệp của các ngôn sứ trong Cựu Ước. Song nó không chỉ là một sứ điệp. Đó là một hành động đầy năng lực. Đó là một hành động phát xuất từ tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Đó là một hy tế, một sự trả giá lớn lao. Chúng ta đã được chuộc về với một giá đắt. Chúng ta hãy tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa vì lòng thương xót của Ngài (1Cr 6,20; 7,23)
11 THÁNG BA
Nước Hằng Sống Phát Xuất
Từ Trái Tim Đức Kitô
“Nguơi hãy gõ vào tảng đá, và nước sẽ chảy ra từ đó” (Xhh 17,6). Thiên Chúa Gia- vê đã bảo Mô-sê trong sa mạc như thế. Từ tảng đá ấy, con cái It-ra-en nhận được nguồn nước giúp họ sống trong suốt hành trình tiến về Đất Hứa. Cũng vậy, từ trái tim của Đức Kitô, Đấng chết khát trên Thập Giá, chúng ta nhận được nguồn nước hằng sống nuôi dưỡng chúng ta trên hành trình đức tin.
Và cũng như trong thời Xuất Hành, con người hôm nay khao khát nguồn nước cứu độ đến từ Đức Kitô. Giáo Hội loan báo chân lý này cho những ai lắng nghe. Giáo Hội hiện diện trong thế giới để giúp người ta tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, để nhờ đức tin, người ta nhận được sự sống nhân danh Người. Những ai lắng nghe Giáo Hội, Giáo Hội hướng dẫn họ sống trong sự sống này và, qua đó, xây dựng Thân Mình Chúa Kitô. Giáo Hội sẽ không ngừng nỗ lực hết sức mình cho mục tiêu cao nhất này: làm cho mọi người nhận biết Đức Kitô – một sự nhận biết có sức cứu độ.
12 THÁNG BA
Đánh Thức Một
Nỗi Khát Thâm Sâu Hơn
Bên bờ giếng ở Xy-kha, Đức Giê-su đã đề xuất trao ban nước hằng sống cho người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô. Mỏi mệt vì chuyến đi, Người ngồi xuống bên thềm giếng. Các môn đệ đã đi vào thành phố mua thức ăn. Một người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô đến giếng lấy nước; Đức Giêsu xin chị một ít nước uống. Chị ngạc nhiên, vì thường tình chẳng một người Do Thái nào lại xin bất cứ gì từ một phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô. Đã bao thế kỷ rồi, người Do Thái và người Sa-ma-ri-ta-nô sống trong sự thù địch với nhau. Tuy nhiên, Đức Giêsu cho chị thấy rằng Người không dung nạp thành kiến, cũng không ủng hộ quan điểm của người Do Thái rằng một rabbi không nên nói chuyện với một phụ nữ cách công khai. Người không quan tâm đến sự kỳ thị quốc gia và chủng tộc, cũng không màng đến sự phân biệt nam nữ.
Đức Giêsu xin nước – và Người dẫn dắt người phụ nữ ấy đến nước hằng sống. Thành ngữ “nước hằng sống” trong ngôn ngữ của các ngôn sứ nhằm hướng chỉ đến ân phúc cứu độ trong thời Mê-si-a (Is 12,3). Nhưng vì không hiểu được ý nghĩa này, người phụ nữ tưởng rằng Đức Giêsu muốn nói đến một thứ nước kỳ lạ có sức giúp cơ thể chị không bao giờ cảm thấy khát nữa. Đó là cách mà Đức Giêsu đánh thức nơi người phụ nữ khát vọng về ơn huệ của Người: “Người phụ nữ thưa với Đức Giêsu: ‘Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi không còn bị khát nữa và khỏi phải mất công tới đây lấy nước” (Ga 4,15).
13 THÁNG BA
Đức Giêsu Biết Những Điều
Thầm Kín Nhất Của Chúng Ta
Trong câu chuyện đầy hàm súc này về người phụ nữ bên bờ giếng, sự mạc khải riêng tư và sự trợ giúp có năng lực cứu độ đã phát xuất từ Đức Giêsu. Người bắt đầu với một hoàn cảnh cụ thể mà người phụ nữ ấy có thể hiểu được. Rồi Người đưa dẫn chị đến khảo sát cuộc sống của chị trong ánh sáng của chân lý, vì chỉ trong chân lý chúng ta mới có thể gặp gỡ Đức Kitô.
Khi người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô đáp lời Đức Giêsu: “Hãy cho tôi loại nước đó”, Người đã không ngần ngại dẫn chị đến chỗ chị cần đến. Người dẫn chị đến với sự hoán cải bằng cách mở ra cho chị thấy chị là ai và chị đã làm gì. “Hãy đi và gọi chồng chị tới đây” (Ga 4,16) – Người bảo chị như thế. Người mời gọi chị tự khảo sát chính lương tâm của chị và tự dò tìm những chiều sâu của tâm hồn chị. Khi chị cố giấu giếm tội lỗi mình và dối gạt Đức Giêsu, Người đặt chị đối diện với chính tội lỗi của chị và giúp chị nhìn nhận rằng mình cần được cứu độ. Được thuyết phục bởi Đức Giêsu, người phụ nữ xin Người chỉ cho con đường cứu độ. Xuyên qua cuộc khảo sát lương tâm này, người phụ nữ đã có thể đối diện với tội lỗi mình và nhận hiểu rằng mình cần được cứu độ.
14 THÁNG BA
Hãy Đến Và Hãy Gặp
Nước hằng sống – nước đem lại sự sống đời đời – đã biến đổi cuộc sống của người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy như thế nào? Nếu chúng ta xem xét sự chuyển biến tâm linh của người phụ nữ này, chúng ta có thể thấy rằng cuộc gặp gỡ của chị với Đức Kitô sản sinh hoa trái tâm linh rất lớn lao. Thực vậy, chúng ta có thể nhận ra nơi chị một cuộc hoán cải đích thực – cuộc hoán cải đưa chị đến chỗ nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a: “Các người hãy đến và hãy gặp con người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm! Chắc hẳn người ấy phải là Đấng Mê-si-a!” (Ga 4,29).
Người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy đã loan báo Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ cho hàng xóm và bạn bè chị. Chị nói với họ về cuộc hoán cải của chị và về quyền năng cứu độ của Đức Giêsu. “Ông ấy đã kể cho tôi về mọi sự mà tôi đã làm”. Chị biểu lộ một nghị lực và niềm vui mới có sức thúc bách chị loan báo cho người khác về sự thật và về ân sủng mà mình đã nhận được. “Các người hãy đến và hãy gặp” – chị bảo họ như thế. Có thể nói, chị đã trở thành một sứ giả của Đức Kitô và của Tin Mừng cứu độ, như trường hợp Maria Mác-đa-la vào buổi sáng ngày Phục Sinh.
Cũng vậy, chúng ta được mời gọi uống thứ nước hằng sống có thể thanh tẩy tâm hồn ta và biến đổi cuộc sống ta. Và cũng vậy, chúng ta có thể trở thành những sứ giả của Tin Mừng. Như trường hợp người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy, chúng ta cũng phải để cho Đức Kitô đưa dẫn mình tới một cuộc khảo sát nghiêm túc lương tâm mình, nhờ đó chúng ta có thể quay lưng lại với tội lỗi và được ngập tràn niềm vui. Rồi chúng ta sẽ muốn chia sẻ cho người khác niềm vui về ơn cứu độ mà mình đã lãnh nhận được nơi Đức Kitô.
15 THÁNG BA
Những Chuẩn Mực Rõ Ràng Để Sống
Ta là Đức Chúa, là Thiên Chúa của các ngươi; Ta đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi cảnh nô lệ…
Ngươi không được dùng Danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng…,
Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh…,
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ…,
Ngươi không được giết người.
Nguơi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng gian hại người.
Ngươi không được ham muốn nhà người ta, vợ người ta … hay bất cứ gì khác của người ta.
Xh 20,2.7-8.12-17
Giáo Hội rao giảng Thập Giới được trao cho con cái It-ra-en tại Núi Si-nai. Đây là Luật của Thiên Chúa, thể hiện những gì Thiên Chúa dạy bảo để con người sống một cách ngay chính. Những chuẩn mực sống này mở cho ta thấy tư tưởng của Thiên Chúa về điều thiện và điều dữ luân lý. Những chuẩn mực này chính là luật luân lý.
16 THÁNG BA
Luân Lý Tính Phải Được Đo Lường
Bằng Thước Đo Của Thiên Chúa
Xuyên qua việc tuân giữ Thập Giới, con người sẽ trở nên tốt. Con người sẽ mặc lấy phẩm tính của Thiên Chúa. Còn nếu không tuân giữ Thập Giới, con người sẽ sa vào hành động xấu. Như vậy, Thập Giới trao cho chúng ta chuẩn mực để đo lường hành vi và đo lường chính cuộc sống của chúng ta. Trong tư cách là con người – có thể chọn lựa giữa cái đúng và điều sai – phẩm giá của chúng ta được nối kết một cách trực tiếp với sự vâng phục của chúng ta đối với luật luân lý của Thiên Chúa.
Vâng phục luật luân lý – đó không chỉ là một vấn đề cá nhân mà còn là một vấn đề xã hội. Nó cho chúng ta biết Thiên Chúa muốn chúng ta sống với tha nhân như thế nào. Nó hình thành cho chúng ta một tiêu chuẩn sống. Nó cho ta biết phải làm sao để bảo vệ và tôn trọng phẩm giá của người khác cũng như của mình. Qua đó, nó giải phóng người ta khỏi sự trói buộc của sự dữ. Đây không phải là chuyện hoa hòe, ‘tùy hỉ’chút nào; mà đây là vấn đề hết sức chủ yếu. Đấng trao ban Thập Giới là Thiên Chúa Gia-vê, là Đấng đã dẫn đưa con cái It-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi tình cảnh nô lệ.
17 THÁNG BA
Quí Hơn Vàng!
Trong Mùa Chay, chúng ta ôn lại Thập Giới, vì đây là mùa mà Đức Giêsu Kitô kêu gọi chúng ta khảo sát lương tâm mình. Từ đầu Mùa Chay, Chúa không ngừng giục giã chúng ta hoán cải và giao hòa. Tiếng thúc giục này liên can với việc chúng ta tuân giữ luật luân lý của Thiên Chúa như được thể hiện trong Thập Giới. Hoán cải có nghĩa là đoạn tuyệt với sự dữ và dứt bỏ các thứ tội lỗi. Hoán cải là quyết định trở về vâng phục Thiên Chúa và thực thi điều tốt.
Chúng ta biết rằng Đức Giêsu Kitô đã đến để hoàn thành mọi giới răn mà Thiên Chúa đã trao cho dân Ngài tại Núi Si-nai. Người đòi dân It-ra-en phải tuân phục các giới răn đó. Người xác nhận với họ rằng việc tuân phục các giới răn ấy chính là nền tảng của cuộc giao hòa với Thiên Chúa và của ơn cứu độ vĩnh hằng.
Đó là lý do vì sao phụng vụ thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện… Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỉ cõi lòng… Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh; thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng” (Tv 19,8-11).
Mùa Chay là lúc để ta quay về với Thập Giới của Thiên Chúa. Trong ánh sáng của Thập Giới, chúng ta bắt đầu khảo sát lương tâm mình và đào thải mọi tội lỗi đã bén rễ trong đời ta.
18 THÁNG BA
Hệ Tại Ở Tấm Lòng
Giáo Hội kêu gọi chúng ta hòa giải với Thiên Chúa. Tin Mừng nhắc chúng ta rằng việc hòa giải hệ tại ở tấm lòng. Cốt lõi của đời sống đức tin chính là một thái độ đúng đắn đối với chính mình và đối với Thiên Chúa. Nếu chúng ta là những môn đệ đích thực và những chứng nhân của Đức Kitô, chúng ta không thể sống mà không tìm kiếm sự hòa giải bên trong tâm hồn mình đối với Thiên Chúa. Chúng ta không thể ở lại trong tội lỗi, cũng không thể tiến bước trên đường về nhà Cha bằng … nửa tấm lòng – trong khi Cha đang nóng ruột quay quắt chờ mong trông thấy bóng ta trở về!
Qua dụ ngôn Người Con Đi Hoang, Chúa Giê-su đã cho chúng ta thấy sức mạnh và cái đẹp của sự giao hòa bằng cách đánh động không chỉ trí năng của ta mà cả óc tưởng tượng, trái tim và lương tâm ta nữa. Biết bao con người trong các thời đại đã qua, và biết bao con người thời nay đã gặp đi gặp lại nơi dụ ngôn này câu chuyện riêng tư của chính mình!
19 THÁNG BA
Các Quyền Của Con Người
Phản Ảnh Vai Trò Làm Cha Của Thiên Chúa
Giáo Hội nhìn nhận Thánh Giu-se – người công chính – là cha của Đức Giê-su Na-da-rét. Đó là lý do vì sao chúng ta nghe thấy những lời này trong Tin Mừng: “Cha con và mẹ đã lo lắng kiếm tìm con” (Lc 2,48).
Những lời ấy được thốt lên bởi Mẹ Đức Giêsu sau ba ngày tìm kiếm đứa con 12 tuổi của mình và rốt cục gặp thấy Người “trong Đền Thờ, ngồi giữa các bậc thầy dạy, vừa nghe họ,ï vừa đặt câu hỏi” (Lc 2,46).
Tất cả chúng ta đều công nhận rằng câu chuyện được Thánh Sử Luca kể lại này là biến cố duy nhất về thời niên thiếu của Đức Giêsu được Tin Mừng thuật lại. Thật là một câu chuyện đầy ý nghĩa, vì cậu thiếu niên 12 tuổi ấy được gặp thấy ngồi giữa các thầy dạy trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu” (Lc 2,47).
Đồng thời, biến cố này cũng chiếu một tia sáng đặc biệt vào mầu nhiệm làm cha của Giu-se ở Na-da-rét. Chúng ta nhận ra rằng Đức Maria, sau khi quở trách Đức Giêsu (“Này con, sao con nỡ làm thế?”), đã nói tiếp: “Cha con và mẹ đã lo lắng tìm con”. Và Đức Giêsu trả lời: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà Cha con sao?” (Lc 2,49). Đức Maria đã nhắc đến mối quan tâm của một người cha nơi Thánh Giu-se. Còn cậu thiếu niên Giê-su 12 tuổi thì hướng chỉ đến vai trò làm cha của Thiên Chúa.
Nhờ hình ảnh Thánh Giu-se, chúng ta có thể cảm nhận được phần nào mối liên hệ thâm sâu giữa vai trò người cha trong nhân loại và vai trò người cha của Thiên Chúa; chúng ta có thể hiểu vai trò người cha trong nhân loại phát xuất từ vai trò người cha của Thiên Chúa như thế nào – và rút ra được từ vai trò người cha của Thiên Chúa phẩm giá và sự cao cả đích thực như thế nào.
Đối với một con người, việc sinh một đứa con trước hết có nghĩa là mình “nhận nó từ Thiên Chúa”. Sinh một đứa con chính là nhận một món quà do bởi Thiên Chúa tạo thành. Đó là lý do tại sao con cái thuộc về Thiên Chúa trước hết, rồi mới thuộc về cha mẹ mình. Thật vậy, chân lý này vô cùng phong phú và hàm súc cả cho con cái lẫn cho các bậc cha mẹ.
Đây chính là chỗ để ta nhận hiểu tính cao cả của sứ mạng được ủy thác cho người cha và người mẹ – sứ mạng đó là trở thành khí cụ của Cha trên trời trong việc giáo dục con cái mình. Song ở đây ta cũng nhận thấy cái giới hạn rõ ràng mà các bậc cha mẹ phải tôn trọng khi họ nuôi dạy con cái. Cha mẹ không bao giờ được phép tưởng nghĩ rằng mình sở hữu con cái mình. Nhưng cha mẹ phải giáo dục con cái với ý thức thường xuyên về mối quan hệ đặc biệt giữa con cái họ với chính Cha trên trời. Trong mọi sự, họ phải dành mối quan tâm đệ nhất cho Cha trên trời hơn so với mối quan tâm đến vai trò làm cha làm mẹ trần thế của mình.
Thánh gia ở Na-da-rét là mẫu gương hết sức phong phú không chỉ cho các bậc cha mẹ mà cả cho con cái nữa. Thánh Phao-lô nói rằng “Chúa Cha là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15). Tất cả chúng ta hãy không ngừng tiến gần hơn đến Cha trên trời.
20 THÁNG BA
Phải Chăng Chúng Ta
Đã Từ Khước Tình Cha?
Chỗi dậy và trở về với Cha (Lc 15,18), chúng ta sẽ lấy lại được những gì mình đã đánh mất do tội lỗi. Giống như Người Con Đi Hoang, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng khi mình sống trong tội lỗi, mình đã phong tỏa chính mình khỏi sự bảo vệ và tình yêu của Cha. Chúng ta sẽ nhận hiểu tấm lòng Cha yêu thương ta biết mấy – thế mà ta đã quay lưng lại với Ngài!
Sa vào tội lỗi và hoang phí sản nghiệp của Cha, chúng ta đã bứt đứt mọi mối gắn kết giữa Cha với mình. Chúng ta không đáng được Cha tiếp nhận vào nhà. Sự hòa giải chỉ có thể bắt đầu khi Người Con Đi Hoang thực sự muốn quay về. Rồi, tình yêu và lòng nhân hậu của Cha có thể giúp người con ương ngạnh ấy thắng vượt mặc cảm tội lỗi và bất xứng của mình. Chính khi nhìn vào đáy mắt Cha mình là lúc anh ta nghe được lời tha thứ.
Về gần đến nhà Cha mình, người con trai tự nghĩ : “Con không đáng được gọi là con của Cha nữa”. Nhưng Cha anh đang quay quắt đợi chờ, bền bỉ đợi chờ; và thoạt trông thấy bóng anh, ông tràn ngập vui mừng. Người Cha quên hết những điều sai trái mà con mình đã phạm. Người Cha vồn vã ôm chầm lấy đứa con đang hối hận tận đáy lòng. “Lạy Cha, con đã lỗi phạm …, con không đáng được gọi là con của Cha nữa” (Lc 15,21).
Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta – dù tội lỗi có tày đình đến mấy đi nữa – cũng có thể quay về và thú nhận tội lỗi của mình. Chúng ta cần phải vạch mặt chỉ tên rõ ràng những tội lỗi của mình – và tiến về phía vòng tay đang đón đợi của Cha.
Chúng ta hãy bắt đầu cuộc hành trình trở về nhà Cha. Hãy khảo sát lương tâm mình, xưng thú tội lỗi mình, thống hối và quyết tâm sống một đời sống mới. Đó là những bước của một lộ trình hoán cải.
21 THÁNG BA
Lòng Cha Nhân Từ
Người Cha bồn chồn ngóng đợi đứa con đi hoang của mình quay về. Ông động lòng thương và thứ tha tất cả mọi lỗi lầm con mình đã phạm. Khi đứa con còn ở đàng xa, người Cha đã nhận ra bóng anh, và ông động lòng thương. Ông chạy đến, ôm anh vào lòng và hôn anh. Đứa con nói với Cha: “Lạy Cha, con đã lỗi phạm với trời và với Cha; con không đáng được gọi là con của Cha nữa”
Nhưng Cha ra lệnh cho các gia nhân: “Mau mang áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, đeo nhẫn vào ngón tay cậu, xỏ giày vào chân cậu. Hãy hạ con bê béo để ăn mừng – vì con của ta đây đã chết nhưng nay sống lại, đã mất nhưng nay được tìm thấy.”(Lc 15,20 – 24)
Thiên Chúa đối xử với mỗi người chúng ta – là những tội nhân – với cùng một tình yêu vô điều kiện như thế. Ngài động lòng thương chúng ta khi chúng ta quay lại với Ngài bằng trái tim thống hối chân thành. Ngài tỏ cho chúng ta thấy Ngài có tấm lòng từ phụ biết bao.
22 THÁNG BA
Tiếng Gọi Hoán Cải
Thúc Bách Không Ngừng
Đức Giê-su Kitô xác nhận tầm quan trọng của việc vâng phục lề luật Thiên Chúa như được công bố ở Núi Si-nai. Nhưng sứ mạng của Đức Giêsu còn vượt quá những luật luân lý của giao ước cũ. “Vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để những ai tin vào Người Con ấy … thì được sự sống đời đời” (Ga 3,16).
Đức tin vào Đức Kitô không đơn thuần chỉ có nghĩa là vâng phục lề luật, dù sự vâng phục này đến từ “niềm kính sợ Đức Chúa” như được nhắc đến trong Thánh Vịnh 111. Đức tin vào Đức Kitô bao hàm việc nhìn nhận tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Tình yêu của Chúa Cha được kết đọng nơi món quà tuyệt hảo là chính Con Một Ngài. Đó là lý do tại sao luật luân lý của giao ước mới đạt đến tột đỉnh và cốt lõi của nó trong giới răn yêu thương.
Chúng ta có thể chu toàn thánh ý của Thiên Chúa bằng cách tuân phục tất cả các giới răn mà Ngài truyền dạy. Nhưng đó là vị Thiên Chúa Tình Yêu đã mạc khải chính Ngài nơi Đức Kitô, nên chúng ta chỉ có thể đáp trả lại bằng tình yêu mà thôi! Vì thế, cuộc khảo sát lương tâm của chúng ta trong Mùa Chay phải xoáy vào tiếng gọi mến Chúa yêu người. Đây cũng là trục lộ mà Đức Kitô dẫn chúng ta đi trên con đường hoán cải. Tiếng gọi mời yêu thương ấy cũng chính là tiếng gọi không ngừng hoán cải tận đáy lòng. Cũng như chúng ta cần cầu nguyện thường xuyên, việc hoán cải cũng phải là một tiến trình kéo dài suốt cuộc đời người tín hữu.
23 THÁNG BA
Chúng Tôi Rao Giảng
Đức Kitô Chịu Đóng Đanh
Mùa Chay, Giáo Hội không chỉ đào sâu luật luân lý của Thập Giới. Cùng với Thánh Phao-lô, Giáo Hội còn rao giảng cho chúng ta “Đức Kitô chịu đóng đanh” trên Núi Can-vê.
Thuở xưa, người Do Thái đòi dấu lạ và người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan – như một điều kiện để họ tin vào hành động cứu độ của Thiên Chúa (1Cr 1,22). Con người thời nay cũng có thái độ tương tự như người Do Thái và người Hy Lạp thời các Tông Đồ. Hay nói đúng hơn, đòi hỏi của con người thời nay còn xa hơn thế nữa. Đó đây đôi khi chúng ta gặp phải những chỉ trích và chống đối đối với các huấn lệnh của Thiên Chúa một cách phũ phàng hơn. Dù sao, Giáo Hội vẫn kiên trung với lời tuyên bố của Tông Đồ Phao-lô: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh” (1Cr 1,23).
Nơi Đức Kitô, chúng ta tìm thấy câu trả lời cho mọi sự! Mọi chỉ trích và chống đối nhắm vào các huấn lệnh của Thiên Chúa đều bị hóa giải khi chúng đối diện với một Đức Kitô chịu đóng đanh. Thập giá Can-vê “thì khôn ngoan hơn loài người” và “mạnh mẽ hơn loài người” (1Cr 1,25).
24 THÁNG BA
Xin Cứu Chúng Con Khỏi Sự Dữ
“Ta là Đức Chúa, là Thiên Chúa của các ngươi; Ta đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20,2). Thiên Chúa, Đấng đã dẫn đưa It-ra-en ra khỏi Ai-cập, vẫn không ngừng giải thoát con người khỏi tội lỗi của họ. Lề luật của Thiên Chúa – tức Thập Giới và mệnh lệnh yêu thương – là con đường giải phóng cho chúng ta.
Đức Kitô cho biết chính Người là con đường giải phóng ấy cho loài người khi Người tuyên bố: “Hãy phá hủy đền thờ này đi, và nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Người có ý nói về “đền thờ thân thể Người” (Ga 2,21) – nghĩa là, Người đang nói đến cuộc Phục Sinh.
Trong Mùa Chay, chúng ta hãy rà soát lại lương tâm mình dưới ánh sáng các huấn lệnh của Thiên Chúa – để chúng ta có thể dứt bỏ tội lỗi. Chúng ta hãy đổi mới trong mình niềm hy vọng gắn kết với cuộc Phục Sinh của Đức Kitô, cuộc Phục Sinh ấy mở ra cho chúng ta khả năng đoạn tuyệt hoàn toàn khỏi sự dữ – khỏi tội lỗi và sự chết.
Cuộc giải phóng It-ra-en khỏi Ai-cập – khỏi cảnh nô lệ – thực sự là một tiên báo về cuộc giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi nhờ giá Máu Đức Kitô.
25 THÁNG BA
Người Phụ Nữ Khôn Sánh
Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria bày tỏ sự ưng thuận với sứ thần. Bản trình thuật của Luca – dù thật vắn tắt – vẫn vừa vô cùng hàm súc các nguồn Cựu Ước vừa nổi bật đặc tính mới mẻ của Kitô giáo. Nhân vật chính trong câu chuyện này là người ‘mệnh phụ’ (Ga 2,4) được tuyển chọn từ đời đời để làm cộng tác viên thiết yếu đệ nhất cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đó là almah – hay thiếu nữ – đã được ngôn sứ Isaia báo trước (Is 7,14). Đó là cô gái thuộc dòng dõi hoàng tộc, được gọi là Myriam, Maria ở Na-da-rét, một làng quê nghèo nàn lẩn khuất nhất miền Ga-li-lê (Ga 1,46). Nét mới mẻ độc đáo của Kitô giáo ở đây chính là sự kiện một phụ nữ được đặt vào một địa vị cao vời khôn sánh. Sự kiện này thật không thể quan niệm được đối với não trạng Do Thái thời ấy, cũng như đối với nền văn minh Hy La vốn đang cường thịnh lúc bấy giờ.
Sứ thần Ga-bri-en đã chào Maria với những lời lẽ hết sức trịnh trọng đến nỗi làm Maria kinh sợ: “Khaire – Ave – Mừng vui lên!” Lần đầu tiên, niềm vui cứu độ âm vọng trên mặt đất. “Kekharitomene – gratia plena – Bà đầy ân phúc!” Đây là Đấng Vô Nhiễm, được chạm khắc trong sự sung mãn nhiệm mầu của sự tuyển chọn của Thiên Chúa, của sự tiền định từ đời đời, của sự trong sáng tuyệt diễm. “Dominus tecum – Thiên Chúa ở cùng Bà!”
Thiên Chúa ở với Đức Maria, một thành viên của gia đình nhân loại được tuyển chọn để làm Mẹ Đấng Emmanuel – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta!” Từ bây giờ và cho đến mãi mãi, Thiên Chúa sẽ ở với con người. Thiên Chúa sẽ không quay lưng lại và sẽ không bỏ con người chơi vơi. Thiên Chúa đã tự kết hiệp nên một với con người để cứu con người và trao ban cho con người chính Con Một của Ngài, là Đấng Cứu Độ. Maria trở thành một bảo đảm cụ thể và sống động của sự hiện diện cứu độ này của Thiên Chúa.
Thần sứ yêu cầu Maria ưng thuận cho Ngôi Lời đến trần gian. Câu trả lời của Maria chính là tiếng vọng lại hoàn toàn từ tiếng đáp trả của Ngôi Lời đối với Thiên Chúa Cha: “Này con đây”. Chính nhờ được dẫn trước và được hỗ trợ bởi lời đáp trả “Này con đây” của Con Thiên Chúa mà Maria đã có thể thưa lên “Này con đây”. Chính tại khoảnh khắc Maria thốt lên lời ưng thuận, Con Thiên Chúa trở thành Con Người. Ngày Lễ Truyền Tin, chúng ta cử hành mầu nhiệm nền tảng là cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời. Thư Do Thái cho phép chúng ta đi sâu vào những chiều sâu khôn dò của sự tự hạ này của Ngôi Lời – tự hạ vì yêu con người cho đến chết trên thập giá.
“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: ‘Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.’”Dt 10,5-7
Chúa đã tạo cho con một thân thể. Việc cử hành Lễ Truyền Tin hôm nay dẫn chúng ta trực tiếp đến với ngày Giáng Sinh, sau chín tháng. Các anh chị em tín hữu của chúng ta ngay trong những thế kỷ đầu tiên đã nắm bắt rất rõ ý nghĩa mầu nhiệm này – một mầu nhiệm đưa dẫn chúng ta tới cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu. Lễ Truyền Tin rơi vào Mùa Chay – sự kiện này giúp chúng ta nhận hiểu ý nghĩa cứu chuộc của nó: Cuộc Nhập Thể gắn kết chặt chẽ với công cuộc cứu chuộc mà Đức Giêsu hoàn thành bằng việc đổ máu vì chúng ta trên Thập Giá.
26 THÁNG BA
Hãy Tung Hô Vạn Tuế Đức Vua
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Vạn tuế trên các tầng trời.” Những lời ấy đã được nhiệt liệt hô vang bởi tất cả những người đến Giê-ru-sa-lem mừng đại lễ Vượt Qua. Những lời ấy vang lên – đặc biệt từ môi miệng trẻ em – khi đám đông chào đón Đức Giêsu vào thành mừng lễ. Vì thế, mối liên hệ giữa giới trẻ với biến cố Đức Giêsu khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem luôn luôn là một yếu tố quan trọng trong cử hành của Giáo Hội vào Chúa Nhật Lễ Lá. Đức Giêsu vẫn tiếp tục kêu gọi các bạn trẻ của thời đại chúng ta. Người nói: “Hãy đến! Hãy chào mừng Ta là Vua và là Đức Chúa của các con”.
Chúng ta hãy hướng nhìn về Đức Kitô trong tinh thần này. Người là Đấng đã vào Giê-ru-sa-lem trên lưng lừa con, ứng nghiệm các lời ngôn sứ xưa. Các tông đồ đã trải áo choàng trên lưng lừa cho Đức Giêsu vào Thành Thánh. Và khi Người đến gần triền dốc chân núi Ô-liu, toàn thể đám đông – cả già lẫn trẻ – đã hoan hô nhiệt liệt. Họ “bắt đầu lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa vì những việc đầy quyền năng mà họ đã chứng kiến” (Lc 19,37).
27 THÁNG BA
Sự Im Lặng Đầy Căng Thẳng
Trong Tin Mừng Matthêu, chúng ta gặp thấy Đức Giêsu Na-da-rét đến Giê-ru-sa-lem. Sự kiện Người vào thành gắn liền với niềm khấp khởi nôn nao của đám đông khách hành hương là những người tựu về để mừng Lễ Vượt Qua. Họ tung hô: “Vạn tuế Con Vua Đa-vít” (Mt 21,9).
Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng – trong vài chốc lát – niềm phấn khởi ấy đã trở thành ngột ngạt căng thẳng. Đó là lúc mà từ giữa đám đông, một số người Pha-ri-sêu yêu cầu Đức Giêsu cấm các môn đệ Người tung hô Người (Lc 19,39).
Câu trả lời của Đức Giêsu thật đầy ý nghĩa: “Nếu họ câm miệng, thì chính những hòn đá sẽ cất tiếng tung hô” (Lc 19,40). Vâng, chúng ta hãy nhìn ngắm Đấng “nhân danh Chúa mà đến” (Mt 21,9) trong viễn tượng của Tuần Thánh. “Nào chúng ta lên Giê-ru-sa-lem … Con Người … sẽ bị nộp vào tay dân ngoại, sẽ bị chế nhạo, sỉ vả; và sau khi đã đánh đòn Người, họ sẽ treo Người trên Thập Giá …” (Lc 18,31-33).
Những lời tung hô của đám đông vào Chúa Nhật Lễ Lá sẽ ngưng bặt. Chính Con Người cũng bị ‘dập tắt’ bởi sự im lặng của cái chết. Và rồi, vào chiều hôm trước ngày sa-bát, người ta hạ Người xuống khỏi thập giá, họ sẽ đặt Người vào trong một ngôi mộ, sẽ lăn một tảng đá lấp cửa mộ, và sẽ niêm kín lại.
Nhưng ba ngày sau, tảng đá ấy sẽ được lăn đi. Các phụ nữ đến mộ và nhận ra rằng ngôi mộ trống không. Phê-rô và Gio-an cũng chứng kiến ngôi mộ trống không. Đó, khi mọi người và mọi sự đều lặng thinh thì đá sẽ “cất tiếng lên”! Tảng đá lấp cửa mồ đã cất tiếng! Nó loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su Kitô. Và chính từ tảng đá ấy mà mầu nhiệm này được mạc khải cho các phụ nữ và các tông đồ – và các ngài sẽ rao giảng về mầu nhiệm này trên khắp các ngả đường Giê-ru-sa-lem và, về sau, đến khắp cùng thế giới. Bởi đó, từ thế hệ này đến thế hệ kia, “những hòn đá vẫn không ngừng cất tiếng kêu lên”.
28 THÁNG BA
Vâng Phục Cho Đến Chết
Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su Kitô hàm chứa những gì? Nó bao gồm các biến cố của những ngày cuối cùng Mùa Chay, nhất là những ngày cuối cùng Tuần Thánh. Các biến cố này có khía cạnh nhân loại của chúng, được ghi lại trong các trình thuật thương khó của Chúa trong các Sách Tin Mừng. Xuyên qua những biến cố này mà mầu nhiệm Vượt Qua mặc lấy một chiều kích nhân loại đích thực. Nó trở thành lịch sử của chúng ta.
Nhưng các biến cố ấy còn có chiều kích thần linh nữa. Thánh Phao-lô viết về Đức Kitô như vị Người Chúa: “Mặc dù Người vốn là Thiên Chúa, Người đã không nghĩ phải giành cho được địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người đã hủy mình ra không, mặc lấy thân phận nô lệ, trở thành giống hẳn phàm nhân” (Pl 2,6-7).
Chiều kích này của mầu nhiệm được gọi là Nhập Thể: Chúa Con – chia sẻ cùng bản tính với Chúa Cha – đã trở thành con người. Người trở thành người tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, người tôi tớ của Gia-vê, như Sách Isaia đã nói. Nhờ sự tự hạ này của Con Người mà nhiệm cục cứu độ thần linh đạt đến đỉnh điểm hoàn thành của nó.
Thánh Phao-lô tiếp tục nói với chúng ta về mầu nhiệm này: “Người đã hạ mình, vâng phục cho đến chết – chết trên thập giá” (Pl 2,7-8).
Chiều kích ấy của mầu nhiệm được gọi là Cứu Chuộc. Sự vâng phục của Con Người – vâng phục cho đến chết trên thập giá – đã vượt qua và đã xóa được món nợ tội lỗi của chúng ta.
29 THÁNG BA
Một Viễn Tượng Mới
Về Lịch Sử Nhân Loại
Mầu nhiệm Vượt Qua là thực tại thần linh đơn nhất chứa đựng cả Nhập Thể và Cứu Chuộc – được Thiên Chúa mạc khải cho con người. Mầu nhiệm này được Thiên Chúa mạc khải cho trái tim và lương tâm của mỗi người trong chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều dự phần trong mầu nhiệm xuyên qua di sản tội lỗi vốn dẫn con người – từ thế hệ này sang thế hệ khác – đến sự chết. Mỗi người trong chúng ta đều tìm thấy trong thực tại này sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su Kitô không chấm dứt ở cái chết tự hiến của Người. Nó không thể bị phủ lấp bởi tảng đá lớn mà người ta lăn ra để đóng kín ngôi mộ sau cái chết của Đức Giêsu trên đồi Gôn-gô-tha.
Vào ngày thứ ba, tảng đá này sẽ được lăn ra khỏi bởi quyền năng Thiên Chúa, và nó sẽ bắt đầu “cất tiếng lên”. Tảng đá cất tiếng lên để nói như Thánh Phao-lô: “…Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn dương Người và tặng ban cho Người một danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu, để khi nghe Danh Giê-su, mọi vật trên trời dưới đất và trong địa ngục đều phải quì gối sập lạy, và mọi miệng lưỡi đều phải tuyên xưng rằng Đức Giê-su Kitô là Chúa” (Pl 2,9-11). Như vậy, sự cứu chuộc cũng có nghĩa là sự tôn dương.
Sự tôn dương của Đức Kitô – tức cuộc Phục Sinh của Người – đem lại cho chúng ta một viễn tượng hoàn toàn mới về lịch sử nhân loại. Do kế thừa di sản tội lỗi, con người vốn ở dưới ách thống trị của sự chết. Nhưng Đức Kitô đã mở ra cho chúng ta kỷ nguyên của sự sống vượt thắng sự chết. Sự chết là một phần của thực tại thế giới hữu hình. Nhưng sự sống thì ở chính nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa của sự sống nói với chúng ta xuyên qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Con Ngài.
30 THÁNG BA
Để Bước Vào Tam Nhật Thánh
“Nguyện chúc anh em ân sủng và bình an của Đức Giê-su Kitô, vị chứng nhân trung thành” (Kh 1,4-5).
Đức Giê-su Kitô, vị chứng nhân trung thành của Thiên Chúa vô hình, thách đố chúng ta với uy lực của bài diễn từ mà Người đưa ra trên căn gác thượng trong phụng vụ Thứ Năm Thánh. Đây là những lời thiết lập nên Giao Ước Mới trong máu hy tế của Người. Những lời này mạc khải chiều sâu thẳm nhất của mầu nhiệm Thiên Chúa là Tình Yêu.
Bằng cách nào chúng ta có thể sửa soạn để cử hành Tam Nhật Thánh? Tam Nhật Thánh là khoảng thời gian thánh thiêng nhất trong năm. Trong khoảng thời gian thánh thiêng này, chúng ta cử hành: Thứ Năm Thánh, Thứ Sáu Thánh và Đêm Vọng Phục Sinh. Thời gian đặc biệt này sẽ tái hiện cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân trần: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
Trước khi bước vào thời gian thánh này, Giáo Hội cử hành phụng vụ buổi sáng Thứ Năm Thánh – gọi là Thánh Lễ Truyền Dầu – một phụng vụ mang đậm sắc thái của niềm mong đợi và sự chuẩn bị thánh thiêng. Trong Thánh Lễ này, Bài Đọc thứ nhất trích từ Sách Ngôn Sứ Isaia – về sau được Đức Giêsu dẫn lại trong Tin Mừng Luca: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi” (Lc 4,18; Is 61,1). Đức Giêsu Na-da-rét đã tham chiếu đến những lời này của Ngôn Sứ Isaia ngay từ buổi bắt đầu sứ mạng cứu thế của Người.
31 THÁNG BA
“Thầy Mà Lại Rửa Chân Cho Con Ư?”
Việc cử hành bí tích của Bữa Tiệc Ly gắn liền với việc rửa chân cho các tông đồ. “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khă mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lây khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13,3-5).
Chính lúc ấy, Người gặp phải sự phản kháng của Phê-rô. Phê-rô cương quyết từ chối, ông nói: “Ai đời Thầy mà lại rửa chân cho con, không thể như vậy được !”
Trước đó, trình thuật Tin Mừng cho thấy Phê-rô cũng đã nhiều lần phản kháng Đức Kitô tương tự như vậy. Sau khi môn đệ này tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã tiên báo về cuộc khổ nạn của Người. Thế là, Phê-rô lên tiếng phản đối, ông nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 16,22).
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống – thế sao Người có thể nói về cuộc khổ nạn và cái chết thập giá? Thiên Chúa là Chủ Tể tối cao của mọi loài. Ngài là Chúa trời đất. Vậy, làm sao Ngài lại có thể chịu thua con người? Làm sao con người có thể bắt Ngài phảûi chết?
Lần ấy, Đức Giêsu đã nghiêm khắc quở mắng Phê-rô. Có lẽ Người đã không hề quở mắng ai khác một cách nặng nề đến như thế.
Nhưng tại Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã không quở mắng Phê-rô. Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở ông rằng “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13,8). Và Phê-rô đồng ý để Thầy rửa chân cho mình.
Tại sao Phê-rô phản đối Đức Giêsu khi Người báo trước cuộc khổ nạn và cái chết thập giá? Có lẽ bởi vì ông đã nhận biết thần tính của Đức Kitô: “Thầy là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Tuy nhiên, “không ai biết Con ngoại trừ Cha” (Mt 11,27). Chính Chúa Cha mạc khải thần tính của Chúa Con cho Phê-rô. Song đó cũng chính là lý do tại sao Phê-rô lập luận: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, vậy cớ sao Thầy nói rằng Thầy sẽ bị xét xử và bị giết chết bởi con người? Há Thiên Chúa không phải là Chủ Tể tuyệt đối của mọi sự sao? Há Thiên Chúa không phải là Chủ Tể tuyệt đối của sự sống sao?
Và làm sao Con Thiên Chúa hằng sống và là Chủ Tể mọi sự lại cư xử như một tôi tớ? Làm sao Người lại có thể quì xuống trước mặt các tông đồ và rửa chân cho họ được? Làm sao Người lại có thể quì xuống dưới chân Phê-rô được nhỉ?
Phê-rô đang cố bảo vệ hình ảnh Thiên Chúa do … chính ông nghĩ ra!