GIÁO PHẬN ĐALẠT
CỘNG ĐOÀN THIÊN HƯƠNG - DALAT
Số 9 Bà Triệu, Phường 4, Tp. Đalat
Đt : 063 - 3821523
Trải qua dòng lịch sử với biến cố 1954. Một số đông chị em sơ tán vào miền Nam. Sau một
thời gian, cơ sỗ Nhà Mẹ Hội dòng đã được xây dựng, cuộc sống tương đối ổn định.
Hội dòng đã nghĩ tới việc mở thêm các cộng đoàn nhỏ để chị em lan toả đi phục vụ
các tỉnh lẻ.
Năm 1956, cộng đoàn mới được thành lập tại vùng cao nguyên Langbiang nay là Thành phố Đà Lạt vào tháng 06 năm 1956. Một nhóm gồm 5 chị em trong đó chị Maria Nguyễn Thanh Lành làm Phụ trách và các chị: Maria Trần Thị Minh Tư - Anna Đinh Thị Tâm Phúc - Maria Đỗ Thị Kim Gương - Anna Nguyễn Thị Kim Dung. Thành phố Đà Lạt lúc ấy còn là một vùng rừng núi, dân cư thưa thớt, phẩn nhiều là đồng bào thiểu số. Những ngày đầu đặt chân lên vùng núi này, chị em chưa có nhà ở nên đã thuê một ngôi nhà nhỏ của ông Nguyễn Văn Nghĩa thuộc khu giáo Thánh Gia giáo xứ Chánh toà Đà Lạt để tá túc. Những khó khăn bước đầu rồi cũng dần qua. Chị em bắt tay vào công việc tông đồ. Theo lời đề nghị của Cha Phaolô Chất, lúc đó đang làm Hiệu trưởng Trường Trung Tiểu học Trí Đức, chị em cùng cộng tác với Cha trong việc giáo dục các em mẫu giáo và tiểu học, đồng thời chị em dạy nữ công gia chánh cho các lớp trung học. Ngoài những giờ lớp ở trường, chị em dành thời gian phục vụ giáo xứ với các lớp xưng tội Rước lễ lần đầu và Thêm sức.
Ngôi nhà tuy nhỏ bé chật hẹp, phương tiện sinh hoạt rất hạn chế, nhưng chị em sẵn sàng tiếp nhận những ơn gọi và tạo điều kiện cho 6 Thanh tuyển (Maria Phạm Thị Kỷ - Catarina Trịnh Thị Thuận - Magarita Trần Thị Minh Hiên - Têrêsa Trần Thị Thanh Lâm - Têrêsa Lê Thị Ngọc Lan - Xêxilia Phạm Thị Kim Uyên) được nuôi dưỡng trong ơn gọi thánh hiến và tạo diều kiện để các em tiếp tục học văn hoá (h.1).
Sau hơn 5 tháng ở tạm tại ngôi nhà nhỏ này, các Cha Dòng Thánh Vinh Sơn đã tận tình giúp đỡ và đã dành cho chị em một Villa ở đường Yagout rộng thoáng hơn để chị em sinh hoạt. Năm 1960-1967, vì công việc tông đồ mỗi ngày một gia tăng, số chị em làm việc tông đồ cũng tăng lên, ngôi nhà nhỏ bé trước đây không thể dung nạp được, Hội dòng đã mua ngôi nhà của một người Pháp ở số 9 đường Bà Triệu rộng lớn hơn để sinh hoạt cộng đoàn.
Năm 1959, chị em dời về ngôi nhà số 9 Bà Triệu (h.2), và những năm kế tiếp mua thêm khu đất chung quanh, sửa sang và xây cất thêm.
Từ khi dời về ngôi nhà mới, cộng đoàn Thiên Hương do chị Têrêsa Phan Thị Huy làm Phụ trách, và bắt đầu xây cất Ký nhi viện, Trường Tiểu học và Ký túc xá.
Chị em dạy học tại trường Thiên Hương, Trí Đức và Võ Bị. Đặc biệt cộng đoàn quan tâm tới việc tiếp nhận và huấn luyện những mầm non ơn gọi. số ơn gọi mỗi ngày một gia tăng.
Năm 1967, Chị P.T. Anna Nguyễn Thị Hoè đảm nhiệm cộng đoàn. Trường Tiểu học Thiên Hương chính thức được thành lập. Chị Anna Nguyễn Thị Thanh Hiến làm Hiệu trưởng.
Từ năm 1970, bắt đầu khởi công xây ngôi trường mới và hoàn thành vào năm 1973. Mở thêm các lớp Trung học và chị Xêxilia Phạm Thị Kim Uyên làm Hiệu trưởng. Các chị em đảm trách một số lớp, số còn lại mời các giáo viên ngoài.
Ngoài công việc phục vụ trong ngành Giáo dục, chị em vẫn tiếp tục phục vụ giáo xứ, và dành thời giờ thăm viếng những gia đình neo đơn và những gia đình gặp khủng hoảng.
Năm 1973, Chị Lucia Phạm Thị Ngọc Thuý (Hợi) làm Phụ trách cộng đoàn. Tiếp nối công việc của các chị em đã đi trước, chị em tiếp tục phát triển các sinh hoạt tông đồ. Trường Trung Tiểu học Thiên Hương do chị Maria Phạm Thị Mến làm Hiệu trưởng.
Đột nhiên biến cố 1975 xảy đến. Chị em chuyển các em Ký túc xá và Thanh tuyển về gia đình. Trường học đóng cửa. Cuối cùng chính chị em cũng phải di tản về Sài Gòn trong sự hoang mang lo lắng.
Sau khi Đất nước hoàn toàn giải phóng, chị em trở về cộng đoàn. Với một xác nhà trống rỗng, mọi sự đều bắt đầu từ con số không. Nhưng tin tưởng vào tình thương của Chúa quan phòng, và luôn xác tín rằng con dường của Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh đã đi qua, thì những người muốn bước theo Ngài không thể chọn con đường khác. Chị em đón nhận tất cả những đổi thay trong niềm tin và phó thác.
Vào tháng 08 năm 1975, Phòng Giáo dục cho phép chị em được tiếp tục mở trường và dạy học dưới sự quản lý của Phòng Giáo dục. Với hoàn cảnh lúc ấy, chị em chưa thể mở Ký túc xá và nhận các em Thanh tuyển như trước, chĩ có một số nhỏ Thanh tuyển trở lại tiếp tục tìm hiểu. Sau hơn một năm dạy học tại Trường Thiên Hương, Phòng Giáo dục chuyển đổi chị em đi dạy học ở các huyện xa. Thật ngỡ ngàng trước quyết định này, nhưng chị em tin tưởng rằng hạt giống nhỏ bé này Chúa muốn gieo trồng ở một mảnh đất khác. Thật vậy, tại những môi trường mới, tuy cuộc sống rất âm thầm, nhưng chị em lại có được niềm vui rất sâu lắng, niềm vui dược cùng sống gần với những người rất nghèo, chia sẻ với nỗi cùng cực của họ. Nhưng thời gian này kéo dài không được 1 năm. Với quyết định mới của Nhà nước, chị em đành phải từ giã môi trường hoạt động tông đồ này. Và cũng thời gian này Nhà nước muỢn gần 3/4 khu đất của cộng đoàn để tiếp tục sử dụng trong ngành Giáo dục.
Bước sang một bước ngoặt mới, chị em không còn môi trường làm việc như trước đây. Có lẽ mỗi ngày sống chị em lại bắt đẩu lại với lời “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Và lời đáp trả cho câu hỏi ấy là bắt chước Chúa Giêsu tại làng quê Na-da-rét. Chị em tập làm việc bằng chân tay: làm vườn, chăn nuôi, công việc thật vất vả, mồ hôi đẫm áo mà thu hoạch hầu như chẳng được gì. Các chị em trẻ hơn tham gia vào các tổ hợp đan, thêu... cặm cụi từ 7 giờ sáng nhiều khi đến 9 giờ tối. Thời gian này đã nhắc chị em vể hình ảnh các Tông đồ xưa kia “Lạy Thầy ! Chúng con cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được gì”. Đúng thế! Lao động cực nhọc suốt ngày, nhiều khi phải thức khuya, nhưng chẳng được gì. Vậy mà Chúa vẫn nuôi sống và giúp chị em trải qua những ngày tháng đầy gian nan.
Rồi thì Chúa gởi đến cho cộng đoàn một thánh giá mới trước biến cố chị Phụ trách Lucia Phạm Thị Ngọc Thúy lâm bệnh và về với Chúa ngày 22.11.1988. Sinh hoạt cộng đoàn chưa mấy ổn định, cộng đoàn lại mất đi một người chị cùng chung vai sát cánh trong những ngày gian khổ. Trong nỗi niềm xót xa Hội dòng đã cử chị Maria Phạm Thị Mến làm Phụ trách để cùng với chị em tiếp bước con đường Chúa mời gọi. Vào cuối năm 1988, hoàn cảnh có cởi mở thông thoáng hơn. Chị em bắt đầu mở lại Nhà trẻ với con số rất khiêm tốn và một vài em nội trú nhỏ. Cũng trong năm này những chị em đi làm nghề nông ở Đức Trọng trở về cộng đoàn để sinh hoạt. Năm 1989, chị Agnès Đinh Thị Nhung qua đời tại cộng đoàn. Năm 1990 cho đến nay, Chị Maria Phạm Thị Ri làm Phụ trách cộng đoàn. Vì khu vực sinh hoạt của cộng đoàn đã xuống cấp nhiều với thời gian, nên liên tiếp trong những năm gần đây nhà cửa đã được sửa chữa và xây dựng lại. Riêng khu vực nhà cơm và nhà bếp phải xây dựng lại hầu như hoàn toàn, để bảo đảm sự an toàn đồng thời đáp ứng nhu cẩu sinh hoạt của cộng đoàn.
Lớp Mẫu giáo Thiên Hương được chính thức đưa vào hoạt động với giấy phép của Phòng Giáo dục. Đồng thời, chị em cũng xin được phép mở nhà Nội trú cho các em học sinh từ các vùng xa. Trong số các em học sinh Nội trú, có 15 em học sinh dân tộc thiểu số, một số em có hoàn cảnh gia đình phức tạp, một số các em thuộc gia đình nghèo. Phần nhiều các em thuộc các gia đình không Công giáo. Ngoài việc nuôi dưỡng các em, chị em ước mong có cơ hội để giúp các em trở nên người tốt, giúp ích cho xã hội.
Đồng thời chị em mở lớp may, thêu, đàn Piano với mục đích thăng tiến những em có hoàn cảnh khó khăn, mở phòng chữa mắt miễn phí. Một số chị em tham gia vào sinh hoạt mục vụ giáo xứ, dạy giáo lý Khai tâm, Xưng tội Rước lễ lần đầu, Thêm sức. Những chị em cao niên phụ giúp công việc của cộng đoàn khi có thể, và đi thăm viếng các gia đình nghèo.
Đặc biệt, chị em rất hân hoan và sẵn sàng tiếp đón các em Thanh tuyển, những mầm non ơn gọi, số lượng mỗi ngày một tăng thêm, với thao thức cùng với các em tiếp bước Chúa Giêsu trên con đường truyền giáo (h.3).
________________________
Năm 1956, cộng đoàn mới được thành lập tại vùng cao nguyên Langbiang nay là Thành phố Đà Lạt vào tháng 06 năm 1956. Một nhóm gồm 5 chị em trong đó chị Maria Nguyễn Thanh Lành làm Phụ trách và các chị: Maria Trần Thị Minh Tư - Anna Đinh Thị Tâm Phúc - Maria Đỗ Thị Kim Gương - Anna Nguyễn Thị Kim Dung. Thành phố Đà Lạt lúc ấy còn là một vùng rừng núi, dân cư thưa thớt, phẩn nhiều là đồng bào thiểu số. Những ngày đầu đặt chân lên vùng núi này, chị em chưa có nhà ở nên đã thuê một ngôi nhà nhỏ của ông Nguyễn Văn Nghĩa thuộc khu giáo Thánh Gia giáo xứ Chánh toà Đà Lạt để tá túc. Những khó khăn bước đầu rồi cũng dần qua. Chị em bắt tay vào công việc tông đồ. Theo lời đề nghị của Cha Phaolô Chất, lúc đó đang làm Hiệu trưởng Trường Trung Tiểu học Trí Đức, chị em cùng cộng tác với Cha trong việc giáo dục các em mẫu giáo và tiểu học, đồng thời chị em dạy nữ công gia chánh cho các lớp trung học. Ngoài những giờ lớp ở trường, chị em dành thời gian phục vụ giáo xứ với các lớp xưng tội Rước lễ lần đầu và Thêm sức.
Ngôi nhà tuy nhỏ bé chật hẹp, phương tiện sinh hoạt rất hạn chế, nhưng chị em sẵn sàng tiếp nhận những ơn gọi và tạo điều kiện cho 6 Thanh tuyển (Maria Phạm Thị Kỷ - Catarina Trịnh Thị Thuận - Magarita Trần Thị Minh Hiên - Têrêsa Trần Thị Thanh Lâm - Têrêsa Lê Thị Ngọc Lan - Xêxilia Phạm Thị Kim Uyên) được nuôi dưỡng trong ơn gọi thánh hiến và tạo diều kiện để các em tiếp tục học văn hoá (h.1).
Sau hơn 5 tháng ở tạm tại ngôi nhà nhỏ này, các Cha Dòng Thánh Vinh Sơn đã tận tình giúp đỡ và đã dành cho chị em một Villa ở đường Yagout rộng thoáng hơn để chị em sinh hoạt. Năm 1960-1967, vì công việc tông đồ mỗi ngày một gia tăng, số chị em làm việc tông đồ cũng tăng lên, ngôi nhà nhỏ bé trước đây không thể dung nạp được, Hội dòng đã mua ngôi nhà của một người Pháp ở số 9 đường Bà Triệu rộng lớn hơn để sinh hoạt cộng đoàn.
Năm 1959, chị em dời về ngôi nhà số 9 Bà Triệu (h.2), và những năm kế tiếp mua thêm khu đất chung quanh, sửa sang và xây cất thêm.
Từ khi dời về ngôi nhà mới, cộng đoàn Thiên Hương do chị Têrêsa Phan Thị Huy làm Phụ trách, và bắt đầu xây cất Ký nhi viện, Trường Tiểu học và Ký túc xá.
Chị em dạy học tại trường Thiên Hương, Trí Đức và Võ Bị. Đặc biệt cộng đoàn quan tâm tới việc tiếp nhận và huấn luyện những mầm non ơn gọi. số ơn gọi mỗi ngày một gia tăng.
Năm 1967, Chị P.T. Anna Nguyễn Thị Hoè đảm nhiệm cộng đoàn. Trường Tiểu học Thiên Hương chính thức được thành lập. Chị Anna Nguyễn Thị Thanh Hiến làm Hiệu trưởng.
Từ năm 1970, bắt đầu khởi công xây ngôi trường mới và hoàn thành vào năm 1973. Mở thêm các lớp Trung học và chị Xêxilia Phạm Thị Kim Uyên làm Hiệu trưởng. Các chị em đảm trách một số lớp, số còn lại mời các giáo viên ngoài.
Ngoài công việc phục vụ trong ngành Giáo dục, chị em vẫn tiếp tục phục vụ giáo xứ, và dành thời giờ thăm viếng những gia đình neo đơn và những gia đình gặp khủng hoảng.
Năm 1973, Chị Lucia Phạm Thị Ngọc Thuý (Hợi) làm Phụ trách cộng đoàn. Tiếp nối công việc của các chị em đã đi trước, chị em tiếp tục phát triển các sinh hoạt tông đồ. Trường Trung Tiểu học Thiên Hương do chị Maria Phạm Thị Mến làm Hiệu trưởng.
Đột nhiên biến cố 1975 xảy đến. Chị em chuyển các em Ký túc xá và Thanh tuyển về gia đình. Trường học đóng cửa. Cuối cùng chính chị em cũng phải di tản về Sài Gòn trong sự hoang mang lo lắng.
Sau khi Đất nước hoàn toàn giải phóng, chị em trở về cộng đoàn. Với một xác nhà trống rỗng, mọi sự đều bắt đầu từ con số không. Nhưng tin tưởng vào tình thương của Chúa quan phòng, và luôn xác tín rằng con dường của Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh đã đi qua, thì những người muốn bước theo Ngài không thể chọn con đường khác. Chị em đón nhận tất cả những đổi thay trong niềm tin và phó thác.
Vào tháng 08 năm 1975, Phòng Giáo dục cho phép chị em được tiếp tục mở trường và dạy học dưới sự quản lý của Phòng Giáo dục. Với hoàn cảnh lúc ấy, chị em chưa thể mở Ký túc xá và nhận các em Thanh tuyển như trước, chĩ có một số nhỏ Thanh tuyển trở lại tiếp tục tìm hiểu. Sau hơn một năm dạy học tại Trường Thiên Hương, Phòng Giáo dục chuyển đổi chị em đi dạy học ở các huyện xa. Thật ngỡ ngàng trước quyết định này, nhưng chị em tin tưởng rằng hạt giống nhỏ bé này Chúa muốn gieo trồng ở một mảnh đất khác. Thật vậy, tại những môi trường mới, tuy cuộc sống rất âm thầm, nhưng chị em lại có được niềm vui rất sâu lắng, niềm vui dược cùng sống gần với những người rất nghèo, chia sẻ với nỗi cùng cực của họ. Nhưng thời gian này kéo dài không được 1 năm. Với quyết định mới của Nhà nước, chị em đành phải từ giã môi trường hoạt động tông đồ này. Và cũng thời gian này Nhà nước muỢn gần 3/4 khu đất của cộng đoàn để tiếp tục sử dụng trong ngành Giáo dục.
Bước sang một bước ngoặt mới, chị em không còn môi trường làm việc như trước đây. Có lẽ mỗi ngày sống chị em lại bắt đẩu lại với lời “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Và lời đáp trả cho câu hỏi ấy là bắt chước Chúa Giêsu tại làng quê Na-da-rét. Chị em tập làm việc bằng chân tay: làm vườn, chăn nuôi, công việc thật vất vả, mồ hôi đẫm áo mà thu hoạch hầu như chẳng được gì. Các chị em trẻ hơn tham gia vào các tổ hợp đan, thêu... cặm cụi từ 7 giờ sáng nhiều khi đến 9 giờ tối. Thời gian này đã nhắc chị em vể hình ảnh các Tông đồ xưa kia “Lạy Thầy ! Chúng con cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được gì”. Đúng thế! Lao động cực nhọc suốt ngày, nhiều khi phải thức khuya, nhưng chẳng được gì. Vậy mà Chúa vẫn nuôi sống và giúp chị em trải qua những ngày tháng đầy gian nan.
Rồi thì Chúa gởi đến cho cộng đoàn một thánh giá mới trước biến cố chị Phụ trách Lucia Phạm Thị Ngọc Thúy lâm bệnh và về với Chúa ngày 22.11.1988. Sinh hoạt cộng đoàn chưa mấy ổn định, cộng đoàn lại mất đi một người chị cùng chung vai sát cánh trong những ngày gian khổ. Trong nỗi niềm xót xa Hội dòng đã cử chị Maria Phạm Thị Mến làm Phụ trách để cùng với chị em tiếp bước con đường Chúa mời gọi. Vào cuối năm 1988, hoàn cảnh có cởi mở thông thoáng hơn. Chị em bắt đầu mở lại Nhà trẻ với con số rất khiêm tốn và một vài em nội trú nhỏ. Cũng trong năm này những chị em đi làm nghề nông ở Đức Trọng trở về cộng đoàn để sinh hoạt. Năm 1989, chị Agnès Đinh Thị Nhung qua đời tại cộng đoàn. Năm 1990 cho đến nay, Chị Maria Phạm Thị Ri làm Phụ trách cộng đoàn. Vì khu vực sinh hoạt của cộng đoàn đã xuống cấp nhiều với thời gian, nên liên tiếp trong những năm gần đây nhà cửa đã được sửa chữa và xây dựng lại. Riêng khu vực nhà cơm và nhà bếp phải xây dựng lại hầu như hoàn toàn, để bảo đảm sự an toàn đồng thời đáp ứng nhu cẩu sinh hoạt của cộng đoàn.
Lớp Mẫu giáo Thiên Hương được chính thức đưa vào hoạt động với giấy phép của Phòng Giáo dục. Đồng thời, chị em cũng xin được phép mở nhà Nội trú cho các em học sinh từ các vùng xa. Trong số các em học sinh Nội trú, có 15 em học sinh dân tộc thiểu số, một số em có hoàn cảnh gia đình phức tạp, một số các em thuộc gia đình nghèo. Phần nhiều các em thuộc các gia đình không Công giáo. Ngoài việc nuôi dưỡng các em, chị em ước mong có cơ hội để giúp các em trở nên người tốt, giúp ích cho xã hội.
Đồng thời chị em mở lớp may, thêu, đàn Piano với mục đích thăng tiến những em có hoàn cảnh khó khăn, mở phòng chữa mắt miễn phí. Một số chị em tham gia vào sinh hoạt mục vụ giáo xứ, dạy giáo lý Khai tâm, Xưng tội Rước lễ lần đầu, Thêm sức. Những chị em cao niên phụ giúp công việc của cộng đoàn khi có thể, và đi thăm viếng các gia đình nghèo.
Đặc biệt, chị em rất hân hoan và sẵn sàng tiếp đón các em Thanh tuyển, những mầm non ơn gọi, số lượng mỗi ngày một tăng thêm, với thao thức cùng với các em tiếp bước Chúa Giêsu trên con đường truyền giáo (h.3).
________________________
Cộng đoàn An Hoà
25/9 An Hiệp, Đức Trọng, Tĩnh Lâm Đồng
ĐT: 063 - 3843075
AN HÒA VÒNG TAY RỘNG MỞ
Các con hãy đi khắp mọi nơi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo" (Mc16,15). Lời đó luôn thúc giục người Nữ tu Mến Thánh Giá sẵn sàng ra đi tới bất cứ nơi nào Bể trên sai đi.
Năm 1967, đáp lời yêu cầu của Cha sở Théôphane Bửu Dưỡng và Ban Hành giáo giáo xứ An Hoà thuộc giáo phận Đà Lạt, Hội dòng đã cử chị Maria Trần Thị Minh Tư cùng 3 chị em về phục vụ giáo xứ. Cộng đoàn tiên khởi nhỏ bé này được giáo xứ Ưu ái dành cho một căn nhà sàn sát cạnh Nhà Thờ. Nơi đây chị em vui sống với các công việc nhà Chúa: phục vụ cung thánh, tập hát, dạy giáo lý và dạy học tại Trường Tiểu học của giáo xứ.
Với sự giúp đỡ của Cha sỗ và bà con giáo dân, cộng đoàn đã từng bước phát triển theo dòng thời gian:
- Năm 1973, để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và phục vụ, chị em rời bỏ căn nhà sàn để đến lập Tu viện tại thổ đất mua lại của ông bà Minh Châu. Cơ sở này cách Nhà Thờ xứ khoảng 200m, gồm 1.500m2 đất vườn với một dãy nhà trệt và một nhà bếp.
- Năm 1974 chị em xây cất Nhà Ký nhi để nuôi dạy khoảng 200 em nhỏ từ 3 đến 6 tuổi. Vì việc giáo dục đòi hỏi nhiều công sức nên cộng đoàn được tăng cường thêm nhân lực. Giữa lúc 6 chị em đang hăng say phục vụ đoàn chiên nhỏ thì đất nước được thống nhất, cùng với sự chuyển hướng cũa địa phương, Nhà Ký nhi được đổi thành nơi nuôi tằm tơ. Cũng vào những ngày giao thời này chị Maria Minh Tư thuyên chuyển về miền Bảo Lộc và chị Maria Vũ Thị Khen thay thế phụ trách cộng đoàn.
- Năm 1989, mặc dù cuộc sống còn đầy khó khăn, chị em đã xây cất lại dãy nhà trệt cũ để có được Nguyện Đường ấm cúng thích hợp cho việc tĩnh tâm cầu nguyện. Đức Cha Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm đã ƯU ái đến khánh thành ngày 22.11.1989.
- Năm 1990, chị Maria Vũ Thị Khen đổi về Tu viện Lộc Phát, chị Maria Phạm Thị Mến từ Tu viện Thiên Hương - Đà Lạt xuống phụ trách Tu viện An Hoà.
Từ sau ngày Giải phóng miền Nam, chị em sinh sống chủ yếu bằng nghề chăn nuôi, tằm tơ. Nhưng đến đầu năm 1991, để đáp ứng nguyện vọng của nhiều phụ huynh muốn gởi gắm con em, và vì thao thức quan tâm đến tương lai của giới trẻ, chị em đã mạnh dạn dẹp bỏ nghề tằm tơ, tu sửa và nới rộng dãy nhà Ký nhi cũ, để đón nhận các học sinh bán trú và nội trú cấp I đến từ các vùng sâu vùng xa như Đoàn Kết, Lán Tranh, Tu Tra, K’Nai. . .
Cũng từ thời điểm này, chị em không ngừng cố gắng xây cất thêm các phòng ốc, đào thêm hai giếng nước, nới thêm các sân chơi để tạo điều kiện cho các em học sinh có nơi ăn học và vui chơi giải trí; đồng thời chị em cũng phấn đấu đi sâu vào nghề giáo dục là môi trường rất thích hợp cho sứ mạng của "người Nữ tu Mến Thánh Giá dấn thân phục vụ ƯU tiên giới trẻ và giới nữ" (Ltk II,2).
Để tạ ơn Thánh cả Giuse về nhiều ơn lạ Người đã thương cầu bầu cho Tu viện, chị em đã đặt tượng Thánh cả trước nhà Nội trú, Cha xứ Giuse Nguyễn Văn Bảo đã long trọng làm phép tượng đài vào chiều Lễ Thánh Giuse Lao Động 01.05.1992. Thay mặt cộng đoàn, chị Phụ trách đã công khai dâng lời tôn vinh tạ ơn Thánh Cả và giao phó toàn thể chị em cùng các học sinh dưới sự chăm sóc bảo trợ của Cha Thánh.
Tiếp theo là công trình xây cất Nhà trẻ Mau giáo cũng được hoàn tất tốt đẹp để đón nhận các cháu bé từ 2 đến 4 tuổi.
Rồi căn nhà "Hoa Rừng" dành riêng cho các học sinh dân tộc nội trú đã mau chóng mọc lên như một phép lạ giữa vườn cà phê cũa Tu viện. Thứ bảy 23.09.2000, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã đến chủ toạ Lễ khánh thành giữa niềm hân hoan vui mừng của giáo phận, của Hội dòng, và tất cả những ai có lòng yêu thương đồng bào dân tộc thiểu số. Trong Thánh lễ Tạ ơn, các bông "Hoa Rừng" đến từ nhiều buôn làng gần xa như Ganreo, Dagout Mèng, Buôn Ya, Kala, Bồ Lân, Đăng Kia... đã lớn tiếng ca hát ngợi khen tình yêu dạt dào của Thiên Chúa hằng dành cho những kẻ bé mọn.
Và cứ như thế, vòng tay Tu viện ngày càng mở rộng để ôm ẵm vào lòng, các em học sinh lớn nhỏ, kinh thượng, công giáo và không công giáo, từ khắp nẻo đường tìm đến... Mỗi sáng ngày, đứng trước một thế giới trẻ em rất đa dạng, đầy ắp những nhu cầu vật chất và tinh thần, chị em chỉ biết nhìn lên Chúa Quan Phòng và thân thưa rằng: "Lạy Cha, xin hãy thương dám dông các con cái nhỏ bé của Cha đây, chúng con chỉ là những đầy tớ vô tài bất lực, nhưng Cha đầy quyền năng và có thể làm được mọi sự, xin hãy nuôi dưỡng chúng, thân xác và tâm hồn, từng ngày từng giờ, như Cha hằng nuôi dưỡng bầy chim trên trời. Chúng con cảm tạ và chúc tụng Cha muôn đời."
Xin quý Bể trên, quý ân nhân và thân nhân xa gần cũng thương giúp lời cầu nguyện cho chị em chúng con được biết đón nhận, mỗi trẻ em như đón nhận chính Chúa Giêsu vậy .
ĐỒNG HÀNH VỚI BUÔN LÀNG GANREO
Được hiện diện trong giáo hạt Đức Trọng, giáo phận Đà Lạt, nơi có đông đảo đổng bào dân tộc thiểu số, chị em Tu viện Mến Thánh Giá An Hoà ngay từ những ngày dầu đã rất quan tâm đến số phận khó khăn của các anh chị em này, đặc biệt của buôn làng Ganreo (h.1), cách Tu viện khoảng 3km.
Từ năm 1973, chị em đã tích cực cộng tác với Cha Nguyễn Văn Hoàng (M. Laliberté, DCCT) để chăm sóc giúp đỡ dân làng về mọi phương diện, đặc biệt chị Maria Vũ Thị Khen và chị Maria Phạm Thị Thuý Thật đã mở Ký nhi viện, hằng ngày đón nhận và nuôi dạy miễn phí cho khoảng hơn 60 em nhỏ.
Sau biến cố 1975, công việc phục vụ tại Ganreo bị ngăn trỗ, chị em không còn điểu kiện lui tới trong làng.
Nhiều năm qua đi, nhưng lòng các chị em không ngừng thao thức hướng về dân làng Ganreo, nhất là khi nhìn thấy cảnh từng tốp các em thiếu nhi trần trụi đi ăn xin hoặc lang thang không người chăm sóc dạy dỗ... Từ năm 1990, chị em lại trở vào làng thăm viếng giúp đỡ đổng bào và từ năm 1991 chị em đã mở rộng cửa Tu viện để đón nhận 40 em đầu tiên, từ 6-12 tuồi đến ăn học bán trú hoàn toàn miễn phí. Song song với việc dạy văn hoá, các chị em còn cố gắng phát huy các tài năng của các em bằng cách mua sắm các nhạc cụ và dạy cho các em dàn hát múa ca (h.2), cũng như thêu may đan móc. Thỉnh thoảng lại bao một chuyến xe cho các em đi tham quan Thành phố Đà Lạt và các vùng lân cận, để các em có cơ hội tiếp xúc, và làm quen với những môi trường khác lạ.
Ngày Chúa nhật 16.05.1993, tại Nhà Thờ Chính toà Đà Lạt, trước sự hiện diện ưu ái của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, của các Linh mục, của nhiều Tu sĩ Nam Nữ cùng đông đảo giáo dân, các em đã dâng hoa kính Đức Mẹ với tất cả tấm lòng sốt sắng ngây thơ và điệu hát múa nhịp nhàng, khiến nhiều người xúc động đến rơi lệ.
Đến năm 1994, đáp ứng lời yêu cầu của dân làng Ganreo, chị em đã mạnh dạn xin phép chính quyền địa phương để được vào làng tiếp tục công việc phục vụ: chị Têrêsa Hoàng Thị Cúc và chị Têrêsa Nguyễn Thị Khánh Hoà vui vẻ lên đường đi vào làng, từ sáng sớm cho đến chiều tàn, miệt mài chăm sóc dạy dỗ cho hằng trăm em thiếu nhi, không những dạy học miễn phí mà còn cung cấp sách vở giấy bút, quần áo, quà bánh và các nhu cầu khác...
Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, vị chủ chăn quan tâm đặc biệt đến việc thăng tiến đồng bào dân tộc, đã luôn khích lệ chị em trong công việc phục vụ thiếu nhi Ganreo. Dù rất bận việc, nhưng thỉnh thoảng Đức Cha cũng bớt thì giờ ghé thăm ũy lạo và đôi khi còn hoà mình vui chơi với các em.
Chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh, mặc dù ở xa, cũng vẫn theo dõi và yểm trợ các em trên bước đường thăng tiến.
Chúa nhật 12.03.1995, là một ngày đáng ghi nhớ cho giáo xứ và cho Tu viện Mến Thánh Giá An Hoà: trong Thánh lễ đồng tế long trọng, Đức Cha Phêrô cùng với Cha xứ Giuse Nguyễn Văn Bảo, Cha phó Antôn Nguyễn Quốc Lâm và Cha Phêrô Lã Thanh Lịch, đã ban Bí tích Rửa tội cho 40 học sinh do chị em đã đón nhận và nuôi dạy tại Tu viện từ nhiều năm qua.
Ngày 01.08.1996, để dáp ứng nhu cầu cũa đồng bào đau yếu, vừa xa bệnh viện vừa thiếu tiền mua thuốc men, Hội dòng đã cho thêm chị Maria Nguyễn Thị Bích Liên, tốt nghiệp tại Trung tâm ĐTBDCB Y tế, về chăm sóc sức khoẻ cho dân làng với tư cách là thành viên Hội Chữ Thập Đỏ kết hợp với trạm Y tế địa phương. Ngoài việc phân phát thuốc cho đồng bào tại "Phòng chăm sóc sức khoẻ" của Hội, chị còn đến tận nhà an ủi chăm sóc các bệnh nhân liệt giường.
Cùng với Cha Quản hạt Giuse Nguyễn Văn Bảo, chị em cũng đã giúp dân làng xây cất một cây cầu bê tông dài 24m rộng 3m. Chiếc cầu này rất cần thiết cho công việc lưu thông, canh tác và chuyên chở hoa mầu ruộng đất của đồng bào.
Chị em cũng dạy giáo lý và chuẩn bị cho nhiều người lớn, và nhiều trẻ em lãnh nhận các Bí tích Rửa tội (h.3), Thánh thể, Thêm sức và Hôn phối.
Hiện nay, chị em đang từng bước cố gắng hướng dẫn cách làm ăn và giữ gìn vệ sinh trong đời sống hàng ngày, lại thuyết phục dân làng từ bỏ dần thói quen uống rượu quá độ dẫn đến sự huỷ hoại sức khỏe, đồng thời đi vào đường lối kết hôn hợp pháp theo lề luật của Giáo Hội Công Giáo.
Song song với các hoạt động thăng tiến dân làng Ganreo, chị em tiếp tục đồng hành với nhóm học sinh dân tộc tiên khởi đã được đón nhận tại Tu viện từ năm 1991. Nhóm này được nuôi ăn học nội trú tại căn nhà dành riêng cho các em trong khuôn viên Tu viện và mang tên "Hoa Rừng"; nhóm chọn Thánh nữ Rosa de Lima làm Bổn mạng (23.08). Chị em cũng cố gắng mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận thêm các em dân tộc từ các buôn làng khác đến.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy" (Mt 10, 8). Vâng, chúng con đã chẳng có chút công lênh gì, mà đã lãnh nhận từ lòng từ bi thương xót Chúa biết bao nhiêu là hồng ân, trong khi còn rất nhiều anh chị em chúng con phải sống trong cảnh lầm than đói khổ. Xin cho chúng con biết quảng đại chia sẻ những ơn lành Chúa ban đến tất cả mọi người, đặc biệt đến các anh chị em còn bị thiệt thòi, để Danh Chúa được cả sáng và để tất cả được sống an vui trong tình yêu Chúa bây giờ và mãi mãi.
_________________________
Cộng đoàn Tân Phú
Đinh Lạc, Di Linh,
Tĩnh Lâm Đổng.
ĐT: 063-872159
Cộng đoàn Tân Phú đã hình thành năm nào? Dã trải qua những biến cố nào? Và tinh thần của người bước theo Đức Kitồ đã ứng xử ra sao khi đứng trước mỗi biến cố? Chúng ta cùng theo từng nhịp bước của chị em.
TỪ PHÁT CHI ĐẾN TÂN PHÚ
Thời gian cuối cùng của cộng đoàn Phát Chi (h.1) có:
- Chị Phụ trách Maria Hoàng Thị Trữ.
- Chị Mátta Trẩn Thị Khiết.
- Chị Agnès Vũ Thị Nhiệm.
- Chị Maria Phạm Thị Ý.
- Chị Maria Phạm Thị Mận.
- Chị Maria Nguyễn Thị Mến.
Trước khi về Tân Phú, các chị đã cùng với giáo dân sống tại Phát Chi. Tại đây, việc làm ăn khó khăn, đường đi hiểm trở, dân chúng lần lượt bỏ đi, nhà cửa dần dần trống vắng. Vì vậy, Cha xứ Phêrô Phan Năng Huởng đã cùng với một số giáo dân ra đi, bôn ba khắp chốn để tìm nơi định cư tốt hơn cho dân chúng. Cuối cùng ngài dã dến một quả dồi cao, to, rộng, sườn dốc thoai thoải. Vùng này là nơi trồng trà của một linh mục người Pháp. Sau khi thương lượng, Cha xứ đã mua được vùng đất này và dặt tên là Giáo xứ Tân Phú. Cha bán cho Nhà Dòng 4 sào 8: một giải đất chạy dài từ đường lộ tới suối, thuận lợi cho việc trồng cấy và cũng gần Nhà Thờ, trường học. Các chị cùng nhau cảm tạ Chúa đã yêu thương, lo liệu cho người Chúa yêu. Ngày 20.04.1973, bốn chị Phát Chi về Tân Phú canh tác. Trong thời gian này, chưa cố nhà, các chị ở nhờ nhà ông Trương cho tới khi Cha xứ làm xong nhà trường, Cha cho một gian để dạy học. Từ đây, các chị vừa làm vườn vừa dạy học và phục vụ giáo xứ. Các chị còn thăm viếng các gia dinh nghèo, những bệnh nhân trong xứ.
CỘNG ĐOÀN TÂN PHÚ ĐƯỢC HÌNH THÀNH
Ngày 30.04.1975, đất nước thống nhất, cũng là ngày các chị về Phát Chi dỡ nhà để chuyển tôn, gỗ... về Tân Phú chờ ngày khởi công. Các chị cùng nhau cẩu nguyện, phó thác mọi sự cho Thiên Chúa.
- 03.05.1975: Khởi công xây dựng.
- 10.07.1975: Hoàn thành ngôi nhà mới với 5 gian.
- 20.07.1975: Đức Cha Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
cho đặt Mình Thánh Chúa tại Nhà Nguyện Tân Phú. Từ đây, Chúa và con lại được cùng chung sống trong một mái nhà, hạnh phúc biết bao! Các chị cùng tạ ơn Chúa dã lo liệu cho các chị có ruộng vườn, nhà cửa, việc làm. Nhìn ngược dòng thời gian từ năm 1975-1985 cộng đoàn đã đón nhận bao thử thách tưởng chừng như không thể nào vượt qua. Nhưng trong mọi biến cố, các chị vẫn luôn tin tưởng, phố thác, cầu nguyện và vui vẻ vâng theo Thánh ý Chúa đã định. Sau này, cộng đoàn có thêm chị Maria Phạm Thị Thêu, chị Maria Trần Thị Hiền và ngày 19.09.1987, chị Maria Phạm Thị Thuý Thật nhận trách nhiệm Phụ trách cộng đoàn thay cho chị Maria Hoàng Thị Trữ. Các chị rất vất vả trong việc biến ruộng nước thành vườn trồng dâu (h.2). Việc làm rất khả quan, nhưng kinh tế vẫn eo hẹp. Số dân Tân Phú tăng, phụ huynh muốn có nơi gối con. Vì vậy chị Phụ trách đã cho người di học chuyên môn và ngày 21.02.92 khởi công xây Nhà Trẻ. Trong thời gian này, cộng đoàn tu sửa lại ba gian nhà khách - bếp - nhà cơm. Khi Nhà Trẻ đã hoàn thành, cộng đoàn bắt dầu nhận nuối trẻ, dạy mẵu giáo cho đến ngày hôm nay. Ngoài ra, cộng đoàn còn phục vụ giáo xứ và cộng tác với vị chủ chăn trong việc chăm sóc doàn chiên như: dạy giáo lý, tập hát, đánh đàn, dọn phòng thánh, giặt đổ lễ, trao Mình Thánh Chúa tại Nhà Thờ hằng ngày và dưa của ăn đàng cho các bệnh nhân.
Từ năm 1994-1997, Cộng đoàn có thẽm chị Anna Phạm Thị Loan, chị Agata Nguyễn Thị Thảo, chị Têrêsa Nguyễn Thị Phượng và chị Agnès Nguyễn Thị Thu Vân.
CỘNG ĐOÀN TÂN PHÚ SAU 25 NĂM
“Chúa Thánh Thần đến như làn gió nhẹ, Người muốn thổi đâu thì thổi”... Thật đúng với cộng đoàn Tân Phú.
Ngày 28.08.1998, Chúa Thánh Thần đã thổi chị Phụ trách Maria Vũ Thị Khen “bay” về Tân Phú.
Đức Cha giáo phận Đà Lạt Phêrô Nguyễn Văn Nhơn tới thăm cộng đoàn, Ngài đi thăm từng gian nhà gỗ đang xuống cấp, sau đó Ngài nói với chị Phụ trách: “Dể bảo đảm sức khoẻ cho chị em, ngôi nhà này phải sửa lại...” Ngài khích lệ, chỉ vẽ cách làm giấy tờ...
Ngày 22.06.1999, Chị Tổng Phụ trách và Ban Hội Đồng Dòng chấp thuận dơn xin. Sau đó dến chính quyền địa phương. Rồi một ngày rất vui mừng dã tới. Dó là ngày 16.09.1999, được giấy phép xây dựng với tổng diện tích: 360m2, diện tích sử dụng: 224m2.
Tất cả cộng đoàn cùng đồng thanh hát bài: “Đến muỗn đời con cảm tạ ơn Chúa. Đến muôn đời con ngợi ca Danh Chúa...”
Đức Cha giáo phận khi biết đã có giấy phép, Ngài giao cồng trình cho Cha Gioan Phan Công Chuyển, khởi công vào ngày 24.04.2000.
Trong suốt thời gian 3 tháng thi công, Cha Chuyển dã tận tâm, tận lực để cồng trình sớm hoàn thành. Cha luôn hiện diện tại cồng trình với các anh em công nhân. Ngay những khi ốm dau, Cha cũng không quản ngại. Khi nào không thể đến được, thì Cha điều khiển anh em qua điện thoại. Anh em làm vượt chỉ tiêu và không xảy ra điều gì trong thời gian thi cồng. Thật là một dặc ân lớn lao Chúa dành cho cộng đoàn Tân Phú yêu thương của Ngài. Ngoài công sức của Cha, còn có sự dóng góp của giáo xứ như: các khu, các hội đoàn, ca đoàn cả người kinh lẫn dân tộc. Chị em trong cộng đoàn cùng cất cao lời ca ngợi tình yêu Chúa:
Hồng ân Thiên Chúa bao la.
Muôn đời con sẽ ngợi ca ơn Người.
Ngày 26.07.2000, công trình đã hoàn thành. Từ đây, cộng đoàn Tân Phú có một ngôi nhà 6 gian (h.3) tương đối đẩy đủ tiện nghi tuy không cao sang lộng lẫy nhưng tràn dầy tình thương của Thiên Chúa, của Chị Tổng Phụ trách, Chị Phó Tổng Phụ trách, quý chị Tổng Cố vấn và của cả Hội dòng.
Thật, dây là một phép lạ mà cộng doàn không dám nghĩ tới. Nay Chúa đã dành cho con cái nhỏ bé của Ngài sau những năm dài long đong vất vả. Cộng đoàn chúng em luôn nghĩ rằng: Muốn vào hưởng vinh phúc Núỡc Trời, chiếm dược Chúa, thì cũng phải nỗ lực, vượt qua mọi gian khổ để xây nhà vĩnh cửu của mình trên trời.
Chúng con cũng không quên công ơn của Đức Cha giáo phận Đà Lạt dã thương tình giúp đỡ để cộng đoàn chúng con khởi sự xây dựng. Chúng con cũng luôn nhớ đến vị kiến trúc sư, Cha Gioan Phan Cồng Chuyển đã phải vất vả rất nhiều trong công trình này.
Chúng con khồng thể nào quên được hồng ân Thiên Chúa đã ban cho chúng con trong suốt cuộc đời, đã chọn chúng con làm Dân riêng Người. Chúng con xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu. Xin tạ ơn Cha Thánh Giuse đã giúp cho công trình từ khởi sự cho đến hoàn thành thật tốt đẹp.
“Hăm lăm năm đã trôi qua
Gian nan khốn khó cũng qua hết rồi
Còn lại tình mến yêu thôi
Yêu người, yêu Chúa thực thi ý Ngài."
____________________________
CỘNG ĐOÀN SAO MAI
42 Lý Tự Trọng, P. 2, Bảo Lộc, Lâm Đồng
Đt : 063 - 3864893
Một miền xanh, đất rộng, người hiền
Ôi màu mỡ, bình yên Bảo Lộc
Bảo Lộc ! Ôi Mẹ hiền Bảo Lộc
Nâng đôi tay đón đỡ tình con...
... Náo nức làng buôn, rộn rã thị thành
Vùng đất hứa! Yêu sao vùng đất hứa!
(Đậu Công Huệ)
Vâng, từ những ngày đầu tiên của thập niên 60 xa xưa ấy, Bảo Lộc đã trỗ nên miền đất hứa gọi mời. Nhận sứ vụ Chúa trao qua tay Mẹ Bề trên, bảy chị em Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm phấn khởi lên đường để hình thành Tu viện mới: Tu viện Bảo Lộc (h.1). Thuở ấy miền Đất Hứa chỉ là một thị trấn nhỏ, heo hút, quanh năm sương trắng giăng dầy, dân chúng đa phần là anh em thiểu số - những người con yêu của Đức Cha khả kính Gioan Cassaigne - vị tông đổ người Thượng. Những ngày tháng ăn nhờ, ở trọ “Nhà Giây Thép”, giúp chị em cảm nghiệm sâu sắc hơn câu nói của Bạn Tình Chí Thánh: “Chồn có hang, chim có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,10-22). Noi gương đức tin kiên vững của tổ phụ Áp-ra-ham, chị em đón nhận “Đất chảy sữa và mật ong” với tràn đầy tinh thần hứng khởi truyền giáo của Thánh Phaolô - vị tông đồ dân ngoại - mà vùng đất được vinh hạnh mang tên: Bảo Lộc. Nơi đây, hàng ngày, bốn chị em đến phục vụ bệnh nhân trong hai nhà thương của vùng: Nhà thương B’lao của các Thầy Tiểu Đệ và Nhà thương Thanh Thương Quốc Tế. Những chị em còn lại làm nghề thủ công: dệt vải, nuôi tằm để sinh sống. Cùng với thời gian, Bảo Lộc ngày càng phát triển, và nhu cầu giáo dục cho con em trong vùng ngày càng trở nên khẩn thiết. Theo tinh thần Đấng Sáng lập, chị em hăng say với công tác giáo dục và hướng dẫn đức tin cho trẻ em trong vùng. Được sự giúp đỡ của Cha Antôn Phạm Ngọc Lan, chị em đã xin đất để xây dựng cơ sở Tu viện và trường học. Từ nay, chị em đã có một cơ sở riêng để có thể cùng nhau chia sẻ đời sống cầu nguyện và sinh hoạt một cách độc lập, thân tình. Trường học của Tu viện được hình thành và phát triển nhanh chóng. Trường được đặt tên là Sao Mai, nhắc nhớ chị em hướng về Mẹ Maria trong tâm tình tri ân, vì bao hồng ân chị em đã đón nhận được nơi Thiên Chúa qua bàn tay hiền mẫu yêu thương của Mẹ. Cho đến thập niên 70, Trường Tư thục Sao Mai đã trở thành một trong những trường lớn mạnh nhất của thị trấn Bảo Lộc bấy giờ.
Những biến động năm 1975, tạm đưa chị em về với đồng ruộng. Đời sống cầu nguyện đan chen với lao tác trên ruộng lúa, nương dâu. Đời sống khó khăn không làm chị em xao lãng với công tác mục vụ trong giáo xứ, dặc biệt trong công tác giáo dục đức tin cho trẻ em. Hơn nữa, cùng lao động với bà con giáo dân, chị em có thể hiểu rõ hơn hoàn cảnh của người dân trong vùng, để có thể kịp thời thăm viếng, ủi an, giúp đỡ những người nghèo khổ neo đơn trong giáo xứ.
Lịch sử đất nước sang trang, làn gió mới thổi về. Chị em đón nhận tin vui như quà tặng quý giá của Chúa Thánh Thần. Từ nay, chị em lại có thể chăm sóc, giáo dục các trẻ thơ. Hoạt động tông đồ thêm khởi sắc, các hội đoàn được tái lập, các lớp giáo lý Dự tòng, giáo lý Hôn nhân, giáo lý Xưng tội và Thêm sức được giao cho chị em đảm trách. Hàng tuần, chị em đến trao Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân, chăm sóc những người bệnh neo đơn trong vùng. Cuộc sống đơn sơ, vui tươi và chan hoà với dân chúng đã bước đầu thu hút các thiếu nữ trong vùng, Tu viện lại mở rộng cửa đón nhận các ơn gọi mới. Đến nay, Tu viện có 10 Khấn sinh, 4 Tiền Tập sinh và 16 Thanh tuyển đang cùng nhau chia sẻ đời sống hiến dâng trong vui tươi, thánh thiện... (h.2).
Và rồi, như thiên duyên hạnh ngộ, công tác chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện - công việc khởi dầu của Tu viện - lại dược tiếp tục, khi một chị em được Hội dòng gởi đi học lớp Y sỹ, và trở về làm việc trong Phòng Khám Đa khoa Lộc Châu (h.3) - một vùng sát ngay làng dân tộc Châu Mạ - một sắc dân thiểu số còn rất lạc hậu và đói nghèo. Ngoài công tác thường trực tại Phòng Khám, hàng tuần chị đến khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân trong làng dân tộc này. Và “đến hẹn lại lên”, mỗi tháng chị lại đến từng nhà các em bé tàn tật, bại não trong toàn thị xã để hướng dẫn các em và gia đình tập luyện phục hồi chức năng, giúp các em nhanh chóng hội nhập cộng đồng, hoặc ít nhất giúp tránh làm nặng thêm mức độ tàn phế.
Bốn mươi năm hình thành và phát triển, hồng ân nối tiếp hồng ân, cùng với sự phát triển của Hội dòng, Tu viện cũng từng bước củng cố và phát triển. Xin được cùng với Mẹ Hội dòng kính yêu cất cao lời ca, ngợi ca tình yêu miên viễn của Thiên Chúa; bao hồng ân dạt dào không ngơi tuôn đổ trên Hội dòng 100 năm qua, với biết bao thăng trầm của lịch sử, Hội dòng vẫn đứng vững và không ngừng phát triển.
Tạ ơn Chúa muôn đời - Amen.
_________________________
Ôi màu mỡ, bình yên Bảo Lộc
Bảo Lộc ! Ôi Mẹ hiền Bảo Lộc
Nâng đôi tay đón đỡ tình con...
... Náo nức làng buôn, rộn rã thị thành
Vùng đất hứa! Yêu sao vùng đất hứa!
(Đậu Công Huệ)
Vâng, từ những ngày đầu tiên của thập niên 60 xa xưa ấy, Bảo Lộc đã trỗ nên miền đất hứa gọi mời. Nhận sứ vụ Chúa trao qua tay Mẹ Bề trên, bảy chị em Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm phấn khởi lên đường để hình thành Tu viện mới: Tu viện Bảo Lộc (h.1). Thuở ấy miền Đất Hứa chỉ là một thị trấn nhỏ, heo hút, quanh năm sương trắng giăng dầy, dân chúng đa phần là anh em thiểu số - những người con yêu của Đức Cha khả kính Gioan Cassaigne - vị tông đổ người Thượng. Những ngày tháng ăn nhờ, ở trọ “Nhà Giây Thép”, giúp chị em cảm nghiệm sâu sắc hơn câu nói của Bạn Tình Chí Thánh: “Chồn có hang, chim có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,10-22). Noi gương đức tin kiên vững của tổ phụ Áp-ra-ham, chị em đón nhận “Đất chảy sữa và mật ong” với tràn đầy tinh thần hứng khởi truyền giáo của Thánh Phaolô - vị tông đồ dân ngoại - mà vùng đất được vinh hạnh mang tên: Bảo Lộc. Nơi đây, hàng ngày, bốn chị em đến phục vụ bệnh nhân trong hai nhà thương của vùng: Nhà thương B’lao của các Thầy Tiểu Đệ và Nhà thương Thanh Thương Quốc Tế. Những chị em còn lại làm nghề thủ công: dệt vải, nuôi tằm để sinh sống. Cùng với thời gian, Bảo Lộc ngày càng phát triển, và nhu cầu giáo dục cho con em trong vùng ngày càng trở nên khẩn thiết. Theo tinh thần Đấng Sáng lập, chị em hăng say với công tác giáo dục và hướng dẫn đức tin cho trẻ em trong vùng. Được sự giúp đỡ của Cha Antôn Phạm Ngọc Lan, chị em đã xin đất để xây dựng cơ sở Tu viện và trường học. Từ nay, chị em đã có một cơ sở riêng để có thể cùng nhau chia sẻ đời sống cầu nguyện và sinh hoạt một cách độc lập, thân tình. Trường học của Tu viện được hình thành và phát triển nhanh chóng. Trường được đặt tên là Sao Mai, nhắc nhớ chị em hướng về Mẹ Maria trong tâm tình tri ân, vì bao hồng ân chị em đã đón nhận được nơi Thiên Chúa qua bàn tay hiền mẫu yêu thương của Mẹ. Cho đến thập niên 70, Trường Tư thục Sao Mai đã trở thành một trong những trường lớn mạnh nhất của thị trấn Bảo Lộc bấy giờ.
Những biến động năm 1975, tạm đưa chị em về với đồng ruộng. Đời sống cầu nguyện đan chen với lao tác trên ruộng lúa, nương dâu. Đời sống khó khăn không làm chị em xao lãng với công tác mục vụ trong giáo xứ, dặc biệt trong công tác giáo dục đức tin cho trẻ em. Hơn nữa, cùng lao động với bà con giáo dân, chị em có thể hiểu rõ hơn hoàn cảnh của người dân trong vùng, để có thể kịp thời thăm viếng, ủi an, giúp đỡ những người nghèo khổ neo đơn trong giáo xứ.
Lịch sử đất nước sang trang, làn gió mới thổi về. Chị em đón nhận tin vui như quà tặng quý giá của Chúa Thánh Thần. Từ nay, chị em lại có thể chăm sóc, giáo dục các trẻ thơ. Hoạt động tông đồ thêm khởi sắc, các hội đoàn được tái lập, các lớp giáo lý Dự tòng, giáo lý Hôn nhân, giáo lý Xưng tội và Thêm sức được giao cho chị em đảm trách. Hàng tuần, chị em đến trao Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân, chăm sóc những người bệnh neo đơn trong vùng. Cuộc sống đơn sơ, vui tươi và chan hoà với dân chúng đã bước đầu thu hút các thiếu nữ trong vùng, Tu viện lại mở rộng cửa đón nhận các ơn gọi mới. Đến nay, Tu viện có 10 Khấn sinh, 4 Tiền Tập sinh và 16 Thanh tuyển đang cùng nhau chia sẻ đời sống hiến dâng trong vui tươi, thánh thiện... (h.2).
Và rồi, như thiên duyên hạnh ngộ, công tác chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện - công việc khởi dầu của Tu viện - lại dược tiếp tục, khi một chị em được Hội dòng gởi đi học lớp Y sỹ, và trở về làm việc trong Phòng Khám Đa khoa Lộc Châu (h.3) - một vùng sát ngay làng dân tộc Châu Mạ - một sắc dân thiểu số còn rất lạc hậu và đói nghèo. Ngoài công tác thường trực tại Phòng Khám, hàng tuần chị đến khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân trong làng dân tộc này. Và “đến hẹn lại lên”, mỗi tháng chị lại đến từng nhà các em bé tàn tật, bại não trong toàn thị xã để hướng dẫn các em và gia đình tập luyện phục hồi chức năng, giúp các em nhanh chóng hội nhập cộng đồng, hoặc ít nhất giúp tránh làm nặng thêm mức độ tàn phế.
Bốn mươi năm hình thành và phát triển, hồng ân nối tiếp hồng ân, cùng với sự phát triển của Hội dòng, Tu viện cũng từng bước củng cố và phát triển. Xin được cùng với Mẹ Hội dòng kính yêu cất cao lời ca, ngợi ca tình yêu miên viễn của Thiên Chúa; bao hồng ân dạt dào không ngơi tuôn đổ trên Hội dòng 100 năm qua, với biết bao thăng trầm của lịch sử, Hội dòng vẫn đứng vững và không ngừng phát triển.
Tạ ơn Chúa muôn đời - Amen.
_________________________
Cộng đoàn Lộc Phát
K3 LỘC Phát, Bảo Lộc, Tỉnh Lâm Đổng
ĐT: 063 - 864873
THIÊN DUYÊN HẠNH NGỘ
“PER CRUCEM AD LUCEM”
Hàng chữ trắng nổi lên trên nền tường màu hổng cam của ngôi Nhà Nguyện, tôi nhũ thầm: “May quá, cuối cùng thì mình cũng tìm đúng địa chỉ, đây chắc chắn là khẩu hiệu của các chị Mến Thánh Giá.” Nhưng một chút hoài nghi thoáng hiện, Nhà Dòng sao mà trông... xấu thế này. Từ cổng, tường rào đến khu nhà ở dường như đã lão hoá. Chỉ có Nhà Nguyện nằm ngay trung tâm của khuôn viên Tu viện là trông sáng sủa và khang trang.
- Bé ơi, đây có phải là nhà các Soeurs không? - Tôi hỏi cho chắc chắn.
- Dạ phải, chú cứ đẩy cổng vào.
Tôi an tâm làm theo lời của bé, quan sát thoáng qua khuôn viên. Từ sân Nhà Nguyện nhìn sang phải là tượng đài Cha Thánh cả Giuse đứng quay vào dãy nhà sinh hoạt của Tu viện. Đúng là “Đấng bảo trợ và gìn giữ các kẻ đồng trinh !” Bên trái là một dãy lớp học có tượng đài Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ hiện diện ở đây để chúc lành và dạy dỗ các em như xưa Mẹ đã dạy cho con trẻ Giêsu.
Còn đang nửa lạ nửa quen, thì tiếng chú cẩu vang lên báo hiệu có khách lạ. Từ trong Nhà Nguyện một chị bước ra, chiếc áo dòng này là của Phát Diệm rồi, không phải Thanh Hoá mà tôi đang muốn tìm. Tôi định tâm chào cáo biệt. Nào ngờ, một chị nữa bước ra, trông quen quen mà quên tên mất rồi. Chưa kịp lục lại bộ nhớ thì kìa lại một chị nữa bên phải bước đến. Đúng là dân nông trường của cái thời gọi là bao cấp ấy, không chạy vào đâu được! Hơn hai chục năm mà trông chị không khác xưa chút nào cả. ối giào cái “bà cụ” không già! Chị vui vẻ chào tôi và mời vào phòng khách, cả hai cùng mừng rỡ vì cuộc hội ngộ lạ kỳ này.
Sau kinh trưa, một số chị và các em Thanh tuyển đến chào tôi. Nhân vật quan trọng mà tôi có bổn phận phải gặp là chị Phụ trách cộng đoàn. Cái nhìn đầu tiên làm cho tôi bỡ ngỡ, tôi vội hỏi ngay:
- Xin lỗi, chị Phụ trách là em Chị Tổng Thanh phải không? Trông chị giống Chị Tổng quá.
Chị cười hóm hỉnh:
- Dạ thưa, đúng như Cha nói. Con là em Chị Tổng, con cùng bố là Đức Cha Phêrô Maria Lambert de la Motte.
Cả nhà phá lên cười. Bẩu khí cộng đoàn trở nên vui vẻ và đầm ấm. “Một chuyến đò cũng nên quen”, còn tôi đối với các chị ở đây thì “một sự nhầm lẫn cũng nên thân.” Các chị thật vui vẻ và cởi mở. Xung quanh tôi giờ đây là đầy đủ mọi thành viên trong cộng đoàn: già - trẻ - lớn- bé. Chị kỳ cựu ở đây là chị Phương đã phục vụ tại cộng đoàn này đến 46 năm rồi, giờ đây chị phải đi tới “6 chân”, cũng có chị mới chân ướt chân ráo chưa quen thổ địa. Chị cao niên nhất “mới” 85 cái xuân xanh và hai em bé “đã” bước vào tuổi 15. Tất cả những yếu tố xem ra có vẻ khác biệt ấy lại được dung hợp cách rất hài hoà tự nhiên như lời chị Phụ trách giới thiệu với tôi: “Đấy là máy điều hoà không khí của cộng đoàn chúng con”.
Tôi quay qua hỏi chị Phương để biết tuổi tác và hoàn cảnh ra đời của cộng đoàn này. Chị kể say sưa và trôi chảy, dường như đây là điều đã ăn sâu vào “bộ nhớ” của chị, bây giờ có dịp được tuôn trào ra:
- Thưa Cha, theo làn sóng “ri cư“ 1954, một số giáo dân đã cùng Cha Antôn Phạm Ngọc Lan, Cha Phêrô Đỗ Xuân Thính và các Thầy Phát Diệm đặt chân lên miền Sơn(*) cước còn hoang dã, nơi có nhiều loài chim, đặc biệt là chim Thuý liễu của tĩnh Lâm Đồng này. Một số chị em chúng con khoảng 30 người dưới sự hướng dẫn của chị Phụ trách Maria Đinh Thị Tuất từ Phú Nhuận lên đây. Mới đẩu, chúng con phải chia làm 2 nhóm, ỗ nhờ hai nhà ông cố Cha Nhung và Cha Tụng.
- Hằng ngày, chị em sống Hiền hoà Hiệp nhất với nhau trong kinh nguyện, trong lao động: cưa cây, san đất làm nhà... có khi dang làm cỏ bỗng có chị hét và nhảy lên như bị Điện giật vì bị vắt bám vào chân. Dù trời giá lạnh như băng Tuyết hay những đêm chị Hằng Nga mỉm cười ngắm nhìn, các sơ vẫn ngủ say trên sàn nhà vách mới lưng lửng chưa xong. Rồi như “kiến tha lâu đầy tổ”, ngày 26.07.1955, các chị em đã khánh thành ngôi nhà lầu bằng ván lợp tôn dài 6 gian, lầu trên làm Nhà Nguyện và nhà ngủ, tầng trệt là các phòng làm việc rất Xinh xắn. Trong hoàn cảnh khó khăn, chị em luôn thể hiện được lòng yêu mến, gắn bó với Giáo Hội địa Phương, sát cánh với hàng giáo sĩ trong việc xây dựng cộng đoàn dân Chúa. Nhìn lại thời gian qua, chúng con không ngừng tạ ơn Chúa đã dùng các Bề trên để dẫn dắt cộng đoàn chúng con qua những thăng trầm của cuộc sống. Các chị đã mạo muội ghép nên vần thơ để nhớ tới các chị Phụ trách cộng đoàn, lẩn Lượt từ khi mới thành lập cho đến hôm nay:
Bốn mươi sáu năm hồng ân tuôn đổ.
Lòng lân Tuất(**) Ngài bền vững không ngơi.
Sửa Soạn cho con hành lý vào đời.
Và chỉ dạy những Điều ngay chính Đạo.
Lòng con phấn Chấn trước tình yêu Ngài.
Từ bình Minh con cất tiếng hoan ca.
Như hương Thơm trước Thánh Điện chan hoà.
Hoà quyện muôn hy sinh với lao nhọc.
Ngày đắp dổi với đôi tay khối óc.
Dạy học - chăn nuôi - canh tác vườn trà.
Việc tông đồ ngày đêm vẫn thiết tha.
Dạy giáo lý - ca đoàn - trao Mình Thánh Chúa
Thăm viếng bệnh nhân, người không nơi nương tựa.
Theo dấu chân Thày Chí Thánh "In Ri
Để nhân trần ngợi Khen Chúa từ bi.
Và kính phục Đấng Hoá công nhân ái.
Cùng Giáo Hội tiến về ngàn năm mới.
Xây đắp tình thương lòng chân Thật mặn mà.
Nguyện đời con lời chúc tụng hoan ca.
Ngàn năm mãi đẹp Xinh Tình Thánh Giá.
Một tràng pháo tay vang lên tán thưởng tài
nhớ hay của chị. Chị nói tiếp:
Thưa Cha, chị Phụ trách mới về tu sửa lại ngôi Nhà Nguyện đấy ạ. Đức Cha Đà Lạt của chúng con vào thăm Ngài lấy làm hài lòng lắm. Ngài nói rằng diều ấy nhắc nhở chúng con Chúa là trên hết, là trung tâm của cuộc sống, mọi điều tốt đẹp được dành để cho Chúa, còn nhà ở và sinh hoạt thì khiêm tốn để hoà nhập với hoàn cảnh địa phương.
Tôi cảm ơn những chia sẻ của chị đơn sơ mà cũng thật ý nghĩa. Đời tu tuyệt đẹp nếu “tu cho ra tu” phải không bạn? Trước khi tạm biệt, tôi hát tặng các chị bài “Ngọn Đèn Dâng Hiến”, cầu chúc cuộc đời các chị như ngọn đèn trong đêm hội Hoa Đăng làm đẹp thêm bộ mặt Giáo Hội, thắp sáng cho đời ngọn lửa tin yêu và dâng hiến.