LỊCH SỬ HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ GÒ VẤP
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
1. Hoàn cảnh lịch sử
Khởi đầu, Phát Diệm là tên một xã nhỏ, thuộc huyện Kim Sơn, được thiết lập năm 1828 vào lúc Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ chiêu dân về hai huyện: Tiền Hải ở Thái Bình và Kim Sơn ở Ninh Bình. Mặt đất Kim Sơn chỉ cao hơn mặt biển khoảng mươi mười lăm bộ, cho nên việc đầu tiên Nguyễn Công Trứ phải làm là đắp một con đê dài chạy dọc sông Đáy. Từ con đê đó, Nguyễn Công Trứ đào mương lấy đất đắp rất nhiều con đường. Ai có dịp từ trên cao nhìn xuống, sẽ thấy huyện Kim Sơn nhác trông như một đô thị bao la với những sông ngòi thẳng tắp chằng chịt…
Giáo Hội Việt Nam từ khi được thành lập vào ngày 9 tháng 9 năm 1659, chỉ có hai Giáo Phận là Đàng Trong, được trao cho Đức Cha Lambert de la Motte, cũng là Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá và Đàng Ngoài, được trao cho Đức Cha Francois Pallu. Năm 1679, Giáo Phận Đàng Ngoài được chia làm đôi, Phát Diệm thuộc về Giáo Phận Tây Đàng Ngoài. Ngày 02.04.1901, Đức Giáo Hoàng Lêô XI, ban sắc lệnh chia Giáo Phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), thành lập Giáo Phận mới là Giáo Phận Phát Diệm. Đức Cha Alexandre Marcou Thành là Đức Giám Mục đầu tiên của địa phận Phát Diệm, nghi lễ nhận địa phận được tổ chức long trọng tại Tiểu Chủng Viện Phúc Nhạc ngày 08.02.1902. Ngài đã cai quản Giáo Phận trong vòng 33 năm (1902-1935) và đã có công xây dựng Giáo Phận về nhiều mặt. Một trong những việc lớn lao đó là thành lập Hội Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm.
2. Sinh hoạt khởi đầu
Năm 1901, khi địa phận Phát Diệm được thành lập, đã có ba “Nhà Mụ” Mến Thánh Giá. Các nhà Mụ đứng biệt lập và mỗi nhà có bà Mụ là bà Bề Trên:
- Nhà Phúc Nhạc, thành lập năm 1788
- Nhà Bạch Bát (Bạch Liên) thành lập năm 1749
- Nhà Thành Đức thuộc Giáo xứ Cách Tâm, được thành lập năm 1823
Năm 1912, Bà Na đi học ở Hà Nội về làm Giám đốc Nhà Tập. Lớp Tập đầu tiên cũng đã có một số các chị trẻ tuổi. Năm 1937 thì xây Nhà Tập mới.
2.1. Công cuộc cải tổ và canh tân (1916-1925)
Năm 1916, Đức Cha Marcou trao cho Cha Louis de Cooman Hành, Cha chính địa phận Phát Diệm, quyền coi sóc và canh tân Hội Dòng. Một năm sau, tức năm 1917, Toà Thánh bổ nhiệm Ngài làm Giám Mục Phó địa phận Phát Diệm.
Theo đường hướng cải tổ của Bộ Giáo Luật 1917, Đức Cha Louis thống nhất các Nhà Mụ trong địa phận, soạn hiến pháp mới và qui định việc khấn dòng theo Giáo Luật. Suốt chín năm trời, Đức Cha Hành đến từng nhà khuyên nhủ, giải thích cho các chị Ba Lời Khuyên trọn lành của Phúc Âm. Đây không phải là việc dễ dàng đối với những người đã quen nếp sống tự do: tự do đi lại, tự do làm thuốc, tự do đổi chỗ ở… Đức Cha Hành đã phải hy sinh, nhẫn nại không ít để đương đầu với nhiều khó khăn, trở ngại. Mới đầu khi nghe nói đến tuyên khấn, nhiều chị phân vân, không muốn từ bỏ nếp sống quen thuộc cũ, nhưng sau khi được Đức Cha tận tình hướng dẫn, hầu hết các chị em sẵn sàng hội nhập vào nếp sống tu trì đúng nghĩa theo các đòi hỏi của Giáo Luật.
2.2. Hoả ngục tấn công (1924 - 1941)
Cuộc cải tổ toàn diện này đã làm cho hoả ngục tức tối và phản ứng dữ dội. Lực lượng Satan tung ra những cuộc khủng bố quậy phá, tấn công vào những tập sinh non trẻ của Hội dòng. Thời kỳ này, Mẹ Anna Trần Thị Bạch Hương giữ chức vụ chị giáo Nhà Tập, mẹ đã chứng kiến và từng đối thoại với quỷ hoả ngục và chính mẹ đã kể lại những sự việc cụ thể trong 17 năm bị quấy phá: những ngày đầu, cứ khoảng 9 giờ tối thì có tiếng hét to, dài và ghê sợ ngay trước Nhà Tập, tiếng rung giường, cào gối và thở dài.
Chị giáo lên tiếng hỏi:“ Nhân danh Chúa Ba Ngôi, tôi hỏi: có phải linh hồn nào ở luyện ngục về có việc gì không? Xin cứ nói, chúng tôi sẵn lòng giúp”.
Có tiếng đáp to rằng:
“Không”
“Không phải linh hồn thì là ai”?
“Chúng tôi là quỷ hỏa ngục”
“Quỷ hỏa ngục đến đây làm gì”?
“Có ý phá Nhà Dòng, không cho khấn, đưa quân Nhà Tập về thế gian! Thế nào chúng tôi cũng thắng”.
Và thế là hỏa ngục bắt đầu ra tay tấn công. Xảy ra ba bốn tháng đầu, Đức Cha chưa tin. Cho đến một lần, Đức cha đang nói chuyện với cả nhà về chuyện quỷ quấy phá, tự nhiên có hòn gạch lớn ném vào vai một chị đang đứng trước mặt Đức cha. Cả nhà bỡ ngỡ, bấy giờ Đức cha nói rằng: “Đây là dấu cho Cha tin các điều chúng con kể lại từ đầu là có thật, vì rất ít khi Chúa cho xảy ra bề ngoài như vậy”. Đức Cha về kể lại với Đức Cha Chính, và ngay ngày hôm sau, ngài bắt đầu chiến dịch phản công: “Từ nay chúng con hợp với Cha cầu xin cùng Thánh Giá Chúa Giêsu đủ chín ngày, và Cha sẽ sang làm lễ hàng ngày và cho hôn gỗ chính Thánh Giá Chúa Giêsu”.
Đến năm 1941, thì quỷ tướng nói rằng: “Nay có lệnh truyền cho tôi đến gặp riêng Bà Mẹ trong giờ đọc kinh tối”. Đức cha và cả nhà đều lo sợ và e ngại, Bà Nhì cho mấy chị đứng ở nhà ngoài gần đấy canh chừng xem sao thì thấy quỷ mở cửa chạy ra vội vàng, chỉ vào mặt các chị nói rằng: “Nhân đức tin chúng mày ở đâu! Nếu không có phép Chúa, thì tao làm gì được Mẹ chúng mày. Đi vào nhà thờ hết”. Các chị phải đi, nó gài các cửa lại mà đến bàn viết Bà Mẹ ngồi. Nó nói: “Xin Bà Mẹ đừng sợ hãi gì, vì hôm nay tôi phải vâng lệnh truyền mà ở tử tế với Bà Mẹ, chứ không chửi Bà Mẹ, gọi Bà Mẹ là mụ như xưa nay nữa. Xin Bà Mẹ cho tôi tờ giấy to bốn mặt và bút của Bà, để tôi làm tờ cam kết sau cùng”. Bà Mẹ đưa cho nó, nó viết rồi đọc cho Bà nghe: “Nhân danh Chúa Ba Ngôi, nhân danh Đức Mẹ Maria, bắt chúng tôi viết ra các điều này cho sáng danh Chúa và sáng danh Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm. Chúng tôi xin phép Đức Chúa Trời mà phá nhà dòng này, vì tưởng là được, song nay đã hết hạn rồi mà không được, thì tôi xin trả các con lại cho Bà Mẹ, từ nay chúng tôi đi, không được quấy bề ngoài nữa, nhưng vẫn được quấy ngầm như những nhà dòng khác”.
Thế là đằng đẵng 17 năm kiên trì chịu đựng, dù quỷ bày ra trăm mưu ngàn chước, nhờ ơn Thánh Giá Chúa Giêsu, Mẹ Maria, Cha Thánh Cả Giuse và Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đã không có một chị em nào xin ra về trong thời gian này. Tạ ơn Chúa. Từ bấy giờ, Nhà Mẹ, Nhà Tập được vui vẻ bình an.
2.3. Lễ khấn đầu tiên của Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm (1925)
Sau chín năm chuẩn bị tinh thần cho các chị thực sự đi vào đời thánh hiến, Đức Cha Hành nhận thấy lòng khát khao mãnh liệt và sẵn sàng của các chị, nên hai Đức Cha Giáo phận quyết định tổ chức Lễ Khấn vào ngày 02.02.1925. Thật là ngày vui mừng trọng đại, ngày mọi người từ lâu mong đợi đã tới. Lễ Khấn đầu tiên cho 61 Chị theo Giáo Luật đã được cử hành long trọng sốt sắng. Và Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm là Hội dòng đầu tiên tại Việt Nam được cải tổ theo Giáo Luật 1917. Bà Anna Na được chọn làm Mẹ Bề trên tiên khởi từ năm 1925 - 1937. Năm 1931, sau sáu năm khấn tạm, tất cả 61 chị đã quảng đại dâng hiến trọn đời mình cho Thiên Chúa trong lời khấn trọn đời.
2.4. Hội Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hoá (1932)
Năm 1932, Địa phận Thanh Hoá được tách ra từ Địa phận Mẹ Phát Diệm. Ngày 09.11.1932, Toà Thánh ban sắc lệnh cho tất cả các tu viện Mến Thánh Giá Phát Diệm nằm trong địa phận mới được tách khỏi Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm Mẹ để trở thành Hội dòng Mến Thánh Giá Thanh Hoá, thuộc quyền Đức Giám mục địa phận Thanh Hoá là Đức Cha Louis de Cooman Hành. Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm thì thuộc quyền Đức Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng, Giám Mục địa phận Phát Diệm và là vị Giám Mục Việt Nam tiên khởi.
2.5. Giai đoạn phát triển của Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm
Từ năm 1902 đến 1954, Hội dòng có tất cả 14 Nhà, hoạt động tại 14 giáo xứ trong Giáo phận Phát Diệm. Năm 1954, nhân sự Hội dòng được 191 chị Khấn, 18 Tập sinh và 14 Đệä tử. Ngoài việc dạy học các học sinh trường nữ, chị em còn phụ trách các việc mục vụ trong giáo xứ như giúp các trẻ em xưng tội rước lễ lần đầu, coi sóc các hội đoàn nữ, nhiệt thành tham gia vào các công việc tông đồ, từ thiện, bác ái. Từ ngày thành lập trong địa phận, chị em đã rửa tội được 27.525 trẻ em và người lớn trong cơn hấp hối, trong số đó có tới 17.910 trẻ em đã được nuôi dưỡng ở các nhà Ký nhi do chị em lập ra.
3. Hình thành Hội dòng
3.1. Biến cố 1954: Bước chân ly tán
Từ khi thành lập năm 1902 đến năm 1954, Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm đang trên đà phát triển với 14 Tu viện, gồm 191 chị khấn, 18 tập sinh và 14 đệ tử. Ngày 20.07.1954, Hiệp định Genève chia đôi lãnh thổ Việt Nam đưa tới cuộc di cư vĩ đại của hàng triệu người. Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm cũng không thoát khỏi tình trạng chung lúc đó: một số chị em được chỉ định chính thức đi cùng với phái đoàn Đức Cha Anselmô Tađêô Lê Hữu Từ và một số các cha, các thầy lên tàu vào Nam tại bến đò Kim Đài, Phát Diệm. Mẹ Bề trên Têrêsa Phạm Thị Ngọc Nhị đã qua đời ngay trên đường di cư, được an táng tại Hà Nội, sau cải táng về nhà chính Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm tại Lưu Phương.
Ngày 11.07.1954, đoàn tàu quốc tế chở phái đoàn Phát Diệm cập bến Sài Gòn. Nhà Dòng được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất có các chị giáo và phần lớn các em đệ tử cư trú tại Nhà dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán để dạy học và theo học trường Thánh Linh. Ở đây, chị em được cha Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm, cha sở Nhà thờ Chợ Quán và cũng là cha bề trên của Nhà dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán, cùng với Mẹ Bề trên Têrêsa Vân và các chị em Mến Thánh Giá Chợ Quán đón tiếp nồng hậu, cho tá túc suốt thời gian đầu nhiều khó khăn vất vả. Nhóm thứ hai đa số là các chị lớn tuổi ở Phú Nhuận.
3.2. Năm 1956: Xóm Mới Gò Vấp - Quê hương thứ hai
Nhà Mẹ thời gian đầu tiên năm 1956
Tổng số các chị em định cư tại miền Nam gồm 182 người: 150 khấn sinh với toàn bộ Ban Điều hành của Nhà dòng, 18 tập sinh và 14 đệ tử sinh.
Sau một thời gian cố gắng đùm bọc nhau tại hai cơ sở tạm thời là Chợ Quán và Phú Nhuận, được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của Đức Cha Bề trên Anselmô Tađêô Lê Hữu Từ và cha quản lý Phanxicô Trần Ngọc Phan, Mẹ Bề trên Anna Trần Thị Bạch Hương đưa chị em về trụ sở mới ở Xóm Mới, Gò Vấp, thiết lập Nhà Mẹ và Tập viện, chính thức định cư tại Giáo phận Sài Gòn.
Ngày 04.07.1956, Nhà dòng bắt đầu dựng được mấy căn nhà gỗ, đơn sơ, mộc mạc và được phép đặt Mình Thánh Chúa, sau một năm thì khởi công đào chân móng xây nhà nguyện. Ngày 21.07.1957, ngôi nhà nguyện được khánh thành, chị em long trọng rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào ngự nơi nhà nguyện mới.
Trong sáu năm đầu tiên đặt chân lên miền Nam, nhờ sự giúp đỡ của Toà Thánh và các vị ân nhân, Nhà dòng đã thành lập được 11 tu viện.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ TRƯỞNG THÀNH
1. Nhân sự
1.1. Từ năm 1925 tới năm 2010, Hội dòng đã có 81 lớp khấn với 837 nữ tu.
Hiện tại, nhân sự của Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp gồm 431 chị khấn trọn, 126 chị khấn tạm, 43 tập sinh, 52 tiền tập và 160 thanh tuyển.
1.2. Các Bề trên Cả của Hội dòng từ ngày 02.02.1925:
2. Cơ sở
Chị em phục vụ trong 34 tu viện thuộc 6 Giáo phận tại Việt Nam: Sài Gòn 9 tu viện, Xuân Lộc 13 tu viện, Bà Rịa 5 tu viện, Đà Lạt 5 tu viện, Long Xuyên 1 tu viện, Phú Cường 1 tu viện. Và Hải ngoại 5 tu viện.
Sau một thời gian cố gắng đùm bọc nhau tại hai cơ sở tạm thời là Chợ Quán và Phú Nhuận, được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của Đức Cha Bề trên Anselmô Tađêô Lê Hữu Từ và cha quản lý Phanxicô Trần Ngọc Phan, Mẹ Bề trên Anna Trần Thị Bạch Hương đưa chị em về trụ sở mới ở Xóm Mới, Gò Vấp, thiết lập Nhà Mẹ và Tập viện, chính thức định cư tại Giáo phận Sài Gòn.
Ngày 04.07.1956, Nhà dòng bắt đầu dựng được mấy căn nhà gỗ, đơn sơ, mộc mạc và được phép đặt Mình Thánh Chúa, sau một năm thì khởi công đào chân móng xây nhà nguyện. Ngày 21.07.1957, ngôi nhà nguyện được khánh thành, chị em long trọng rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào ngự nơi nhà nguyện mới.
Trong sáu năm đầu tiên đặt chân lên miền Nam, nhờ sự giúp đỡ của Toà Thánh và các vị ân nhân, Nhà dòng đã thành lập được 11 tu viện.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ TRƯỞNG THÀNH
1. Nhân sự
1.1. Từ năm 1925 tới năm 2010, Hội dòng đã có 81 lớp khấn với 837 nữ tu.
Hiện tại, nhân sự của Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp gồm 431 chị khấn trọn, 126 chị khấn tạm, 43 tập sinh, 52 tiền tập và 160 thanh tuyển.
1.2. Các Bề trên Cả của Hội dòng từ ngày 02.02.1925:
- Mẹ Bề trên tiên khởi Anna Nguyễn Thị Na (1925-1937)
- Mẹ Bề trên Anna Trần Thị Bạch Hương (1937-1951; 1954-1960)
- Mẹ Bề trên Têrêsa Phạm Thị Ngọc Nhị (1951-1954)
- Mẹ Bề trên Elisabeth Trần Thị Nhẫn (1960-1984)
- Mẹ Bề trên Anna Nguyễn Thị Kim Hiên (1984-1990)
- Chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh (1990-2010)
- Chị Tổng Phụ trách đương nhiệm Têrêsa Nguyễn Thị Bích Thủy (2010 - .... )
2. Cơ sở
Chị em phục vụ trong 34 tu viện thuộc 6 Giáo phận tại Việt Nam: Sài Gòn 9 tu viện, Xuân Lộc 13 tu viện, Bà Rịa 5 tu viện, Đà Lạt 5 tu viện, Long Xuyên 1 tu viện, Phú Cường 1 tu viện. Và Hải ngoại 5 tu viện.
3. Huấn luyện
3.1. Đệ Tử viện
Thanh Tuyển
Ngay sau khi định cư tại miền Nam, Nhà dòng đã đặt ưu tiên hàng đầu cho việc đào tạo và huấn luyện nhân sự. Đệ tử viện, vườn ươm ơn gọi, được thành lập rất sớm tại hai cộng đoàn: Đà Lạt và Thánh Mẫu Hòa Hưng Sài Gòn, sau đó thêm một nhà tại Nhà Mẹ Xóm Mới. Lúc đầu có sáu em đệ tử từ miền Bắc vào học ở Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán, sau một năm chuyển lên Đà Lạt học lớp đệ tứ (lớp 9 bây giờ) để thi trung học. Thời gian này, Nhà dòng nhận các em từ lớp đệ thất (lớp 6 bây giờ). Thông thường thì học hết trung học đệ nhất cấp (lớp đệ tứ) là được mặc áo nhà thử (1 năm), rồi tiến lên nhà tập (2 năm), sau đó Khấn Lần đầu (5 năm) và Khấn Trọn đời. Hằng năm, mỗi nhà đệ tử có khoảng 100 em. Từ năm 1968, các em đệ tử được học hết chương trình trung học đệ nhị cấp (lớp đệ nhất), mới tiến lên nhà thử.
Tiền Tập
Với biến cố năm 1975, các nhà đệ tử tạm ngưng sinh hoạt, các em phải về gia đình chờ đợi Nhà dòng gọi lại. Từ năm 1981, Nhà dòng bắt đầu nhận lại các em đệ tử để có người tiếp nối hành trình đời tu. Ngoài ba tu viện nuôi đệ tử như trước kia, các em còn được ươm mầm rải rác tại nhiều cộng đoàn của Dòng. Thời gian ở đệ tử tối thiểu là hai năm. Sau đó nếu hội đủ điều kiện, các em sẽ được tiến lên giai đoạn tiền tập và tiếp tục được huấn luyện tại cộng đoàn thêm hai năm nữa. Từ năm 1999, lớp tiền tập năm thứ hai được quy tụ về Nhà Mẹ, và năm 2007, Hội dòng cố gắng sắp xếp cho cả hai lớp tiền tập đều được về Nhà Mẹ.
3.2. Tập viện
Tập Viện
Năm 1956: Khi mới vào Nam, Tập viện ở Đông Hòa, gồm tập sinh và thử sinh (tiền tập).
Năm 1957: Nhà tập được dời về Nhà Mẹ, Xóm Mới Gò Vấp cho đến ngày nay. Ngay từ khi nhà tập được dời về Xóm Mới Gò Vấp, cha Bề trên Giuse Vũ Văn Hải cùng với mẹ Bề trên đã quan tâm đặc biệt đến việc huấn luyện các tập sinh và các chị khấn trẻ. Chính cha Bề trên Giuse dạy Luật Phép Dòng nữ Khấn đơn và giáo lý. Ngài còn mời thêm một số cha giáo sư Đại Chủng viện Phát Diệm giúp chị em:
Năm 1957: Nhà tập được dời về Nhà Mẹ, Xóm Mới Gò Vấp cho đến ngày nay. Ngay từ khi nhà tập được dời về Xóm Mới Gò Vấp, cha Bề trên Giuse Vũ Văn Hải cùng với mẹ Bề trên đã quan tâm đặc biệt đến việc huấn luyện các tập sinh và các chị khấn trẻ. Chính cha Bề trên Giuse dạy Luật Phép Dòng nữ Khấn đơn và giáo lý. Ngài còn mời thêm một số cha giáo sư Đại Chủng viện Phát Diệm giúp chị em:
- Cha giáo Matthêu Phạm Hảo Kỳ dạy luân lý
- Cha Antôn Trần Văn Kiệm dạy bình ca (Chant Gregorien)
- Cha Augustinô Nguyễn Đông Anh dạy Kinh Thánh
- Cha Phanxicô Xaviê Trần Hoàng dạy triết vv…
3.3. Học viện
Học Viện
Từ năm 1957, sau khi khấn lần đầu, các chị em được sai đi phục vụ tại các cộng đoàn và được tiếp tục huấn luyện dưới sự coi sóc của chị bề trên. Thời gian này học viện gọi là kinh viện. Năm 1990, khởi đầu nhiệm kỳ chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh, Hội dòng chính thức có Học viện. Thời gian từ năm 1992-1999, mỗi lớp được hai chị theo học các lớp Thần học chính quy của liên dòng nữ tại Đại Chủng viện Sài Gòn, các chị em còn lại học lớp thần học hè tháng bảy của Liên Tu sĩ trong thời gian năm năm.
Năm 1994, chị em bắt đầu được về Nhà Mẹ một năm để dọn mình khấn trọn đời. Trong năm này, chị em có thời giờ hồi tâm, sống tịch mạc, cầu nguyện, được bồi dưỡng về đời sống thánh hiến, Kinh Thánh, tu đức và đàn hát, ca trưởng vv... Chị em được linh thao tám ngày trước khi khấn trọn đời. Từ năm 1999, sau khi khấn lần đầu, một số chị em được học thần học của Liên Hội dòng Mến Thánh Giá tại Hội dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán, một số học văn hoá, còn một số vẫn đi phục vụ tại các cộng đoàn của Hội dòng vì nhu cầu. Năm 2010, Hội dòng quyết định cho tất cả chị em sau khi khấn lần đầu, được học thần học của Liên Hội dòng Mến Thánh Giá.
3.4. Thường huấn
Hội dòng cũng quan tâm đến việc thường huấn cho các nữ tu đã khấn trọn đời. Hàng năm có tuần bồi dưỡng sau dịp tĩnh tâm, chị em được chuyên sâu về tín lý, huấn giáo, các huấn thị và kỹ năng sống v.v...
Chị em dịp tĩnh tâm:
3.4. Thường huấn
Hội dòng cũng quan tâm đến việc thường huấn cho các nữ tu đã khấn trọn đời. Hàng năm có tuần bồi dưỡng sau dịp tĩnh tâm, chị em được chuyên sâu về tín lý, huấn giáo, các huấn thị và kỹ năng sống v.v...
Chị em dịp tĩnh tâm:
4. Chia sẻ việc huấn luyện đời sống thánh hiến
Ngoài những sứ vụ riêng biệt của Dòng Mến Thánh Giá: giáo dục giới trẻ, phục vụ bệnh nhân, bảo vệ trẻ thơ và thăng tiến nữ giới. Hội dòng được mời gọi chia sẻ việc huấn luyện trong đường hướng cải tổ của một số Dòng.
Năm 1963: giúp chị em Dòng Mến Thánh Giá gốc địa phận Hải Phòng và Thái Bình có lời khấn theo Giáo luật với thỏa thuận như sau: chung một Bề trên Cả, một Công hội, một Hiến pháp, một tu phục và một tập viện; riêng về nhân sự và tài sản. Từ năm 1963-1975, 11 lớp thuộc hai Dòng trên lần lượt được gửi đến huấn luyện tại tập viện Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm, Gò Vấp.
Ngày 17.02.1976, Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chấp thuận cho Hội dòng Mến Thánh Giá Hải Phòng trở thành một Hội dòng độc lập trực thuộc Giáo phận Xuân Lộc, dưới sự điều hành của Mẹ Bề trên Anna Phạm Thị Ry.
Ngày 16.06.1976 Đức Tổng Giám mục Phaolô đã ký nghị định phê chuẩn Hội dòng Mến Thánh Giá Thái Bình Tân Việt là Hội dòng độc lập trực thuộc Giáo phận Sài Gòn.
5. Hoạt động tông đồ
Kế thừa sự nghiệp của các bậc tiền bối, chị em tiếp tục hăng say dấn thân với tinh thần yêu thương và phục vụ trong các lãnh vực theo Hiến Chương của Dòng Mến Thánh Giá.
5.1. Từ 1960-1975
5.1.1. Giáo dục: Nhà dòng thành lập một số trường học, mẫu giáo, ký nhi, nhà nội trú và nhà nữ công với mục đích giáo dục văn hóa và gieo hạt giống đức tin cho giới trẻ, nâng đỡ các cháu học sinh nghèo và cũng là để chị em có điều kiện sinh sống.
Ngoài những sứ vụ riêng biệt của Dòng Mến Thánh Giá: giáo dục giới trẻ, phục vụ bệnh nhân, bảo vệ trẻ thơ và thăng tiến nữ giới. Hội dòng được mời gọi chia sẻ việc huấn luyện trong đường hướng cải tổ của một số Dòng.
Năm 1963: giúp chị em Dòng Mến Thánh Giá gốc địa phận Hải Phòng và Thái Bình có lời khấn theo Giáo luật với thỏa thuận như sau: chung một Bề trên Cả, một Công hội, một Hiến pháp, một tu phục và một tập viện; riêng về nhân sự và tài sản. Từ năm 1963-1975, 11 lớp thuộc hai Dòng trên lần lượt được gửi đến huấn luyện tại tập viện Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm, Gò Vấp.
Ngày 17.02.1976, Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chấp thuận cho Hội dòng Mến Thánh Giá Hải Phòng trở thành một Hội dòng độc lập trực thuộc Giáo phận Xuân Lộc, dưới sự điều hành của Mẹ Bề trên Anna Phạm Thị Ry.
Ngày 16.06.1976 Đức Tổng Giám mục Phaolô đã ký nghị định phê chuẩn Hội dòng Mến Thánh Giá Thái Bình Tân Việt là Hội dòng độc lập trực thuộc Giáo phận Sài Gòn.
5. Hoạt động tông đồ
Kế thừa sự nghiệp của các bậc tiền bối, chị em tiếp tục hăng say dấn thân với tinh thần yêu thương và phục vụ trong các lãnh vực theo Hiến Chương của Dòng Mến Thánh Giá.
5.1. Từ 1960-1975
5.1.1. Giáo dục: Nhà dòng thành lập một số trường học, mẫu giáo, ký nhi, nhà nội trú và nhà nữ công với mục đích giáo dục văn hóa và gieo hạt giống đức tin cho giới trẻ, nâng đỡ các cháu học sinh nghèo và cũng là để chị em có điều kiện sinh sống.
Trường Tiểu Học Thánh Mẫu
Trường Trung Tiểu học Thánh Mẫu: tại 300 Lê Văn Duyệt, Quận 3, Sài Gòn. Thành lập năm 1956 với 9 lớp học. Năm 1970, được xây dựng lại với 5 tầng và 32 lớp học. Số học sinh là 2500 em gồm cấp I, cấp II, cấp III và các lớp năng khiếu.
Thời gian hoạt động: từ 1956-1977 (20 năm)
Thời gian hoạt động: từ 1956-1977 (20 năm)
Trường Trung Tiểu Học Chúa Hài Đồng
- Trường Trung Tiểu học Chúa Hài Đồng: Xóm Mới, An Nhơn, Gò Vấp. Thành lập năm 1957 gồm cấp I và cấp II. Hoạt động từ 1957-1977 (20 năm). Năm 1970, xây trường Trung Học Cấp III dành riêng cho nữ sinh.
Trường Tiểu Học Thiên Hương
- Trường Trung Tiểu học Thiên Hương: số 9 Bà Triệu, Đà Lạt. Thành lập năm 1959. Hoạt động từ 1959-1975 (16 năm). Năm 1973, mở thêm các lớp trung học dành riêng cho nữ sinh.
Trường Tiểu Học Sao Mai
- Trường Tiểu học Sao Mai: 42 Lý Tự Trọng, P.2, Bảo Lộc, Lâm Đồng. Thành lập năm 1962. Thời gian hoạt động: từ 1962-1975 (13 năm).
5.1.2. Y tế: Chị em làm việc tại một số bệnh viện; mở phòng phát thuốc và chích thuốc cho các bệnh nhân nghèo; thăm viếng những người nghèo khó neo đơn, bệnh tật, giúp đỡ bệnh nhân trong giờ sau hết.
5.1.3. Xã hội: Năm 1963, Mẹ Bề trên Êlisabeth Trần Thị Nhẫn thành lập cô nhi viện Elisabeth để đón nhận những trẻ em mồ côi, nghèo và bị bỏ rơi. Ngoài ra, Hội dòng còn lưu tâm đến những phụ nữ trụy lạc.
5.1.4. Mục vụ giáo xứ: dạy giáo lý các cấp, giáo lý dự tòng, phụ trách ca đoàn và phòng thánh.
5.1.3. Xã hội: Năm 1963, Mẹ Bề trên Êlisabeth Trần Thị Nhẫn thành lập cô nhi viện Elisabeth để đón nhận những trẻ em mồ côi, nghèo và bị bỏ rơi. Ngoài ra, Hội dòng còn lưu tâm đến những phụ nữ trụy lạc.
5.1.4. Mục vụ giáo xứ: dạy giáo lý các cấp, giáo lý dự tòng, phụ trách ca đoàn và phòng thánh.
5.2. Từ 1975-2010
Trường Mẫu Giáo Dân Lập Duy An
5.2.1. Mục vụ giáo dục: chị em chăm lo việc giáo dục trẻ em tại những cơ sở Mầm non Mẫu giáo, như Trường Mẫu giáo dân lập Duy An tại Nhà Mẹ, các lớp tình thương thuộc các Tu viện của Hội dòng, các lớp năng khiếu. Hiện nay, Hội dòng có 31 trường Mầm non với 156 nữ tu trực tiếp dạy học, hàng ngày đón tiếp trên 5.000 cháu.
5.2.2. Xã hội: Tích cực tham gia những chương trình xoá đói giảm nghèo, những chương trình viện trợ bão lụt. Chị em âm thầm đến với những người nghèo không phân biệt tôn giáo:
- Thăm viếng và chăm sóc giúp đỡ những người nghèo khổ, già yếu, neo đơn;
- Hàng ngày rửa vết thương cho các bệnh nhân đau liệt tại gia đình; kể cả bệnh nhân Aids nếu có;
- Cháo dinh dưỡng và sữa đậu nành cho khoảng 50 em khuyết tật mồ côi vào thứ năm hàng tuần;
5.2.2. Xã hội: Tích cực tham gia những chương trình xoá đói giảm nghèo, những chương trình viện trợ bão lụt. Chị em âm thầm đến với những người nghèo không phân biệt tôn giáo:
- Thăm viếng và chăm sóc giúp đỡ những người nghèo khổ, già yếu, neo đơn;
- Hàng ngày rửa vết thương cho các bệnh nhân đau liệt tại gia đình; kể cả bệnh nhân Aids nếu có;
- Cháo dinh dưỡng và sữa đậu nành cho khoảng 50 em khuyết tật mồ côi vào thứ năm hàng tuần;
- Giúp phần ăn trưa cho khoảng 40 người vào thứ Bảy hàng tuần;
- Nuôi ăn học cho khoảng 40 em người dân tộc nội trú tại Tu viện An Hoà, Đức Trọng;
- Chăm sóc cho người dân tộc thiểu số tại Ganreo, Giáo xứ An Hoà, xã An Hoà, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng. Khám bệnh và phát thuốc miễn phí; tặng sách vở, quần áo cho các cháu đi học; dạy giáo lý và tập hát;
- Cùng với một số Dòng khác, Hội dòng cũng đã có những chị em tình nguyện phục vụ tại Trung tâm Trọng Điểm, nay là bệnh viện Nhân Ái - phục vụ người nhiễm HIV, AIDS từ tháng 8 năm 2004 tới nay.
5.2.3. Mục vụ giáo xứ:
Ca đoàn Giáo xứ Nam Bình - Vũng Tàu
Hiện nay, Hội dòng có khoảng 300 chị em cộng tác với các linh mục trong công việc mục vụ: - Trao Mình Thánh Chúa tại các giáo xứ đang phục vụ;
- Phụ trách phòng thánh;
- Dạy giáo lý các cấp cho 12.361 cháu: Khai Tâm, Rước Lễ Lần Đầu, Thêm Sức, Bao Đồng, Hôn Nhân, Dự Tòng; hướng dẫn Giáo Lý Viên, hướng dẫn Tìm Hiểu Ơn Gọi;
Đoàn thể: Hiền Mẫu, Con Đức Mẹ, Thiếu nhi Thánh Thể, Giới trẻ, Ban Lễ sinh;
- Thăm viếng và trao Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân tại gia đình.
5.2.4. Mục vụ Truyền giáo: Hội dòng mở thêm các cộng đoàn truyền giáo tại những vùng sâu vùng xa, hướng về các dân tộc thiểu số tại Ganreo, Giáo xứ An Hoà, xã An Hoà, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; tham gia mục vụ tại giáo xứ Cao Bình, Giáo phận Lạng Sơn vào dịp Lễ Giáng Sinh và Phục Sinh.
6. Những biến cố đặc biệt
6.1. Mẹ Bề trên Anna Trần Thị Bạch Hương
Mẹ Bề trên Têrêsa Phạm Thị Ngọc Nhị qua đời trên đường di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, nên Mẹ cựu Anna Trần Thị Bạch Hương được Đức Cha Bề trên Anselmô Tađêô Lê Hữu Từ giao trách nhiệm coi sóc Nhà dòng. Hai năm đầu tiên đặt chân lên miền Nam, Mẹ đã vượt qua những bước đầu khai phá đầy gian nan và thử thách để đưa chị em về trụ sở mới ở Xóm Mới-Gò Vấp, thiết lập Nhà Mẹ và Tập viện, chính thức định cư tại Giáo phận Sài Gòn năm 1956, đặt nền móng cho sự phát triển và thăng tiến của Nhà dòng sau này.
- Phụ trách phòng thánh;
- Dạy giáo lý các cấp cho 12.361 cháu: Khai Tâm, Rước Lễ Lần Đầu, Thêm Sức, Bao Đồng, Hôn Nhân, Dự Tòng; hướng dẫn Giáo Lý Viên, hướng dẫn Tìm Hiểu Ơn Gọi;
Đoàn thể: Hiền Mẫu, Con Đức Mẹ, Thiếu nhi Thánh Thể, Giới trẻ, Ban Lễ sinh;
- Thăm viếng và trao Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân tại gia đình.
5.2.4. Mục vụ Truyền giáo: Hội dòng mở thêm các cộng đoàn truyền giáo tại những vùng sâu vùng xa, hướng về các dân tộc thiểu số tại Ganreo, Giáo xứ An Hoà, xã An Hoà, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; tham gia mục vụ tại giáo xứ Cao Bình, Giáo phận Lạng Sơn vào dịp Lễ Giáng Sinh và Phục Sinh.
6. Những biến cố đặc biệt
6.1. Mẹ Bề trên Anna Trần Thị Bạch Hương
Mẹ Bề trên Têrêsa Phạm Thị Ngọc Nhị qua đời trên đường di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, nên Mẹ cựu Anna Trần Thị Bạch Hương được Đức Cha Bề trên Anselmô Tađêô Lê Hữu Từ giao trách nhiệm coi sóc Nhà dòng. Hai năm đầu tiên đặt chân lên miền Nam, Mẹ đã vượt qua những bước đầu khai phá đầy gian nan và thử thách để đưa chị em về trụ sở mới ở Xóm Mới-Gò Vấp, thiết lập Nhà Mẹ và Tập viện, chính thức định cư tại Giáo phận Sài Gòn năm 1956, đặt nền móng cho sự phát triển và thăng tiến của Nhà dòng sau này.
6.2. Mẹ Bề trên Elisabeth Trần Thị Nhẫn
Ngày 11.10.1960, Mẹ Elisabeth Trần Thị Nhẫn đắc cử làm Bề trên Cả Nhà dòng. Vừa lãnh trọng trách mới, mẹ đã bắt tay ngay vào việc lo cho Nhà dòng thăng tiến về tinh thần cũng như vật chất. Để theo kịp đà tiến của xã hội, mẹ đã lo cho một số chị em đi du học; đồng thời cũng khuyến khích các chị em trau dồi về thần học, kinh thánh, giáo lý, đàn hát và chuyên môn. Trong suốt các nhiệm kỳ, mẹ lưu tâm chăm lo cho các tu viện không ngừng phát triển về văn hóa và công nghệ.
Năm 1961, khởi công xây cất nhà nội trú tại trụ sở Nhà Mẹ, Xóm Mới. Vì nhu cầu học sinh mỗi ngày một tăng, nên một năm sau cơ sở này được nối dài thêm.
Năm 1963, mẹ đảm trách việc huấn luyện cho hai Nhà phước: Mến Thánh Giá Hải Phòng tại Hố Nai và Mến Thánh Giá Thái Bình tại Tân Việt để có lời khấn theo Giáo Luật.
Năm 1964: Xây dưỡng đường Mẫu Tâm dành cho các chị em đau ốm và cao niên hưu dưỡng. Năm 1965 và 1966, xây cô nhi viện Elisabeth và khởi công đặt móng tu viện Nhà Mẹ.
Năm 1967: Được Bề trên Thượng cấp Dòng Nữ Việt Nam cử làm đại diện tham dự Hội nghị Bề trên Cả các Dòng Nữ Thế Giới tại Rôma. Năm 1973: được các Mẹ Bề trên Cả các Dòng Nữ Việt Nam bầu làm Chủ Tịch Liên Dòng Nữ Việt Nam.
Năm 1968: Xây dựng Nhà Mẹ. Được sự giúp đỡ tích cực của Toà Thánh và các vị ân nhân, Mẹ Elisabeth Trần Thị Nhẫn và Hội dòng đã hoàn thành xong ngôi nhà ba tầng hầu đáp ứng các sinh hoạt và số chị em ngày một gia tăng. Ngày 15.08.1968 Thánh Lễ Tạ Ơn làm phép nhà trọng thể do Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình và Đức Cha Phụ tá Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm cử hành. Trong ngôi nhà mới này, Hội dòng dành riêng tầng một làm nhà nguyện, thay cho ngôi nhà nguyện cũ vừa mới bị thiệt hại nặng nề do biến cố Tết Mậu Thân. Ngôi nhà này hiện nay vẫn là nhà ở chính của cộng đoàn Nhà Mẹ, và được chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh cho trùng tu vào năm 2002, dịp Hội dòng mừng 100 năm thành lập.
Ngày 11.10.1960, Mẹ Elisabeth Trần Thị Nhẫn đắc cử làm Bề trên Cả Nhà dòng. Vừa lãnh trọng trách mới, mẹ đã bắt tay ngay vào việc lo cho Nhà dòng thăng tiến về tinh thần cũng như vật chất. Để theo kịp đà tiến của xã hội, mẹ đã lo cho một số chị em đi du học; đồng thời cũng khuyến khích các chị em trau dồi về thần học, kinh thánh, giáo lý, đàn hát và chuyên môn. Trong suốt các nhiệm kỳ, mẹ lưu tâm chăm lo cho các tu viện không ngừng phát triển về văn hóa và công nghệ.
Năm 1961, khởi công xây cất nhà nội trú tại trụ sở Nhà Mẹ, Xóm Mới. Vì nhu cầu học sinh mỗi ngày một tăng, nên một năm sau cơ sở này được nối dài thêm.
Năm 1963, mẹ đảm trách việc huấn luyện cho hai Nhà phước: Mến Thánh Giá Hải Phòng tại Hố Nai và Mến Thánh Giá Thái Bình tại Tân Việt để có lời khấn theo Giáo Luật.
Năm 1964: Xây dưỡng đường Mẫu Tâm dành cho các chị em đau ốm và cao niên hưu dưỡng. Năm 1965 và 1966, xây cô nhi viện Elisabeth và khởi công đặt móng tu viện Nhà Mẹ.
Năm 1967: Được Bề trên Thượng cấp Dòng Nữ Việt Nam cử làm đại diện tham dự Hội nghị Bề trên Cả các Dòng Nữ Thế Giới tại Rôma. Năm 1973: được các Mẹ Bề trên Cả các Dòng Nữ Việt Nam bầu làm Chủ Tịch Liên Dòng Nữ Việt Nam.
Năm 1968: Xây dựng Nhà Mẹ. Được sự giúp đỡ tích cực của Toà Thánh và các vị ân nhân, Mẹ Elisabeth Trần Thị Nhẫn và Hội dòng đã hoàn thành xong ngôi nhà ba tầng hầu đáp ứng các sinh hoạt và số chị em ngày một gia tăng. Ngày 15.08.1968 Thánh Lễ Tạ Ơn làm phép nhà trọng thể do Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình và Đức Cha Phụ tá Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm cử hành. Trong ngôi nhà mới này, Hội dòng dành riêng tầng một làm nhà nguyện, thay cho ngôi nhà nguyện cũ vừa mới bị thiệt hại nặng nề do biến cố Tết Mậu Thân. Ngôi nhà này hiện nay vẫn là nhà ở chính của cộng đoàn Nhà Mẹ, và được chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh cho trùng tu vào năm 2002, dịp Hội dòng mừng 100 năm thành lập.
Nhà Mẹ Hội Dòng
Biến cố 1975: Sau ngày 30.04.1975, sinh hoạt đời tu hoàn toàn thay đổi, chị em tìm cách hội nhập và chia sẻ với đồng bào trong hoàn cảnh chung của đất nước. Mẹ Bề trên Elisabeth Trần Thị Nhẫn và chị em lo lắng tìm kế mưu sinh trong cuộc sống mới. Từ những bàn tay cầm bút đứng trên bục giảng học đường, nay chuyển sang cầm cuốc, vất vả đổ mồ hôi làm quen với công việc đồng áng, chăn nuôi nơi những vùng kinh tế mới; hoặc bận rộn trong các ngành tiểu thủ công nghiệp: đan len, may, thêu, mây, tre, lá và trong các tổ hợp như dệt chiếu, đánh đay, mì sợi
Chị em làm việc suốt ngày, nhiều khi thức trắng đêm cho kịp hợp đồng, nhưng nhiều khi vẫn không nhận được thù lao đúng hẹn và đầy đủ. Mặc dù đời sống kinh tế khó khăn là thế, phải đối mặt với thiếu thốn, lao nhọc, nghèo nàn, chị em vẫn vui vẻ chấp nhận và can đảm tiếp tục sống ơn gọi Mến Thánh Giá, trải nghiệm nơi chính bản thân tinh thần Mến Thánh Giá là yêu mến và hy sinh. Tuy phần lớn thời gian trong ngày dành cho lao động, nhưng chị em vẫn được Mẹ Elisabeth cho bồi dưỡng về giáo lý, thánh kinh, phụng vụ, tu đức, tín lý, giáo dục nhân bản, Pháp văn, Anh văn, âm nhạc vào Chúa Nhật và các buổi tối.
Để giải quyết những vấn đề của cuộc sống, mẹ đã đánh bạo sơ tán chị em ra đi lập nghiệp nơi những vùng kinh tế mới. Chỉ trong hai năm 1975 và 1976, Nhà dòng đã thành lập được thêm 9 Tu viện tại Giáo phận Xuân Lộc. Các chị cũng chân lấm tay bùn, thức khuya dậy sớm, oằn lưng thồ những xe củi, xe chuối trên những con đường dốc, gồ ghề như mọi người khác. Cuộc sống lam lũ đầu tắt mặt tối, nhưng các chị vẫn không quên thi hành sứ mạng của mình, nhiệt thành hăng say trong công tác mục vụ. Chính sự hiện diện của các chị nơi môi trường sống này, đã biến các chị thành những nhân chứng sống động đem lại những thành quả không ngờ.
Sau 24 năm phục vụ trong trọng trách lãnh đạo Nhà dòng, cùng chị em trải qua những bước thăng trầm lịch sử, Mẹ Bề trên Elisabeth Trần Thị Nhẫn đã về Nhà Cha sau cơn bệnh hiểm nghèo vào đêm thứ ba trong tuần Bát Nhật Phục Sinh ngày 24.04.1984.
Để giải quyết những vấn đề của cuộc sống, mẹ đã đánh bạo sơ tán chị em ra đi lập nghiệp nơi những vùng kinh tế mới. Chỉ trong hai năm 1975 và 1976, Nhà dòng đã thành lập được thêm 9 Tu viện tại Giáo phận Xuân Lộc. Các chị cũng chân lấm tay bùn, thức khuya dậy sớm, oằn lưng thồ những xe củi, xe chuối trên những con đường dốc, gồ ghề như mọi người khác. Cuộc sống lam lũ đầu tắt mặt tối, nhưng các chị vẫn không quên thi hành sứ mạng của mình, nhiệt thành hăng say trong công tác mục vụ. Chính sự hiện diện của các chị nơi môi trường sống này, đã biến các chị thành những nhân chứng sống động đem lại những thành quả không ngờ.
Sau 24 năm phục vụ trong trọng trách lãnh đạo Nhà dòng, cùng chị em trải qua những bước thăng trầm lịch sử, Mẹ Bề trên Elisabeth Trần Thị Nhẫn đã về Nhà Cha sau cơn bệnh hiểm nghèo vào đêm thứ ba trong tuần Bát Nhật Phục Sinh ngày 24.04.1984.
6.3. Mẹ Bề trên Anna Nguyễn Thị Kim Hiên
Ngày 06.08.1984, Mẹ Anna Nguyễn Thị Kim Hiên được bầu lên điều hành Hội dòng. Với bản tính cương nghị, Mẹ đã vững tay chèo lái con thuyền Hội dòng trước những thử thách của thời cuộc, đem lại cho chị em sự ổn định trong đời sống hiến dâng.
6.4. Chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh
Ngày 06.08.1990, chị Anne Nguyễn Thị Thanh đắc cử Tổng Phụ trách để lãnh đạo Hội dòng kế thừa sự nghiệp của các vị tiền bối khi mới 43 tuổi. Chị đưa Hội dòng từng bước lớn mạnh về mọi phương diện, ghi dấu một giai đoạn phát triển và trưởng thành về tinh thần cũng như vật chất. Các tu viện bắt đầu trở về với nghề chính yếu của mình: các nhà trẻ, mẫu giáo được khôi phục; phạm vi hoạt động tông đồ và mục vụ được mở rộng hơn; Hội dòng có điều kiện để ươm mầm những ơn gọi mới
6.4.1. Xây dựng cơ sở
Qua chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh, Chúa đã làm cho những ước nguyện của chị em trong bao năm qua là mong muốn có được những cơ sở cần thiết nay trở thành hiện thực:
Qua chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh, Chúa đã làm cho những ước nguyện của chị em trong bao năm qua là mong muốn có được những cơ sở cần thiết nay trở thành hiện thực:
- Nhà Thánh Tâm (nhà hưu cũ), khánh thành ngày 09.12.1992
- Nhà tĩnh tâm Bêtania (Vũng Tàu), khánh thành ngày 21.05.1997
- Nhà Tập, khánh thành ngày 12.01.1998
- Nhà Nguyện, nhà cơm, nhà hưu Mẫu tâm, khánh thành ngày 27.12.2000
- Trường Mẫu giáo Dân lập Duy An, khánh thành ngày 15.08.2001
Tu viện Bêtania
Tất cả các công trình trên đều quá lớn lao đối với khả năng của Hội dòng, đặc biệt là công trình xây dựng Nhà nguyện, nhà cơm và nhà hưu Mẫu tâm năm 2000. Nhà nguyện cũ là tầng một của ngôi nhà ở, không phải là Nhà nguyện chính thức và đã có bề dầy thời gian là 32 năm. Bởi thế, ai nấy đều mơ ước có được một ngôi Nhà nguyện xứng đáng. Nguyện vọng chính đáng này chị em đặt trong tay Thiên Chúa, “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Chúa đã đáp lại lòng tin tưởng cậy trông của chị em. Với “năm chiếc bánh và hai con cá”, qua tài năng của chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh và Hội dòng, Chúa đã ban cho Hội dòng một ngôi Nhà nguyện như lòng chị em mong ước. Cho đến năm 2010, hầu hết 34 cơ sở các tu viện của Hội dòng cũng được tu sửa hoặc xây dựng lại trong sự quan tâm lo lắng và đồng hành của chị.
Song song với những công cuộc xây dựng cơ sở vật chất, chị Tổng Phụ trách Anne cũng đã tạo nên sức bật với những nỗ lực xây dựng lâu đài nội tâm, mời gọi chị em tự nguyện dành riêng cho Chúa Giêsu Thánh Thể những giờ phút tĩnh lặng. Chị cũng đặc biệt quan tâm tạo điều kiện cho chị em được trau dồi về đời tu và nâng cao trình độ văn hoá. Ngoài ra, chị còn lưu tâm đến những phương diện chuyên môn như âm nhạc, hội hoạ… và đã có những cánh chim bay xa để ra đi học hỏi văn hoá xứ người. Điểm nổi bật nhất chính là tinh thần truyền giáo mà chị thường nhắc nhở, khuyến khích chị em ra đi thi hành sứ mạng t?i những buôn làng dân tộc thiểu số, những bệnh nhân nghèo cô thân cô thế …
6.4.2. Khôi phục lại Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm Lưu Phương
Năm 1990, khi ra dự Lễ khai mạc Năm Thánh mừng 100 năm Nhà thờ Chính Toà Phát Diệm, thấy cảnh ly tán của chị em, chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh cố gắng xin Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo cho khôi phục lại đời sống cộng đoàn để các chị có thể sống đời tu trì một cách đích thực. Thoạt đầu, Đức Cha có phần băn khoăn e ngại vì ngài cảm thấy sau gần 30 năm với lời khấn tạm, mạnh ai nấy sống, bây giờ tập trung lại sống thành cộng đoàn, không phải là chuyện dễ. Nhưng cuối cùng, với những lý do chính đáng và mạnh mẽ, chị Tổng Anne đã thuyết phục được Đức Cha và ngài đã cho gọi 22 chị về Hội dòng.
Ngày 12.06.1991, chị đại diện Anna Đinh Thị Hiền đã khấn trọn đời trong tay chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh tại Nhà Mẹ Xóm Mới Gò Vấp. Các chị còn lại tiếp tục khấn trong ba đợt nữa tại nhà Phát Diệm Lưu Phương.
Song song với những công cuộc xây dựng cơ sở vật chất, chị Tổng Phụ trách Anne cũng đã tạo nên sức bật với những nỗ lực xây dựng lâu đài nội tâm, mời gọi chị em tự nguyện dành riêng cho Chúa Giêsu Thánh Thể những giờ phút tĩnh lặng. Chị cũng đặc biệt quan tâm tạo điều kiện cho chị em được trau dồi về đời tu và nâng cao trình độ văn hoá. Ngoài ra, chị còn lưu tâm đến những phương diện chuyên môn như âm nhạc, hội hoạ… và đã có những cánh chim bay xa để ra đi học hỏi văn hoá xứ người. Điểm nổi bật nhất chính là tinh thần truyền giáo mà chị thường nhắc nhở, khuyến khích chị em ra đi thi hành sứ mạng t?i những buôn làng dân tộc thiểu số, những bệnh nhân nghèo cô thân cô thế …
6.4.2. Khôi phục lại Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm Lưu Phương
Năm 1990, khi ra dự Lễ khai mạc Năm Thánh mừng 100 năm Nhà thờ Chính Toà Phát Diệm, thấy cảnh ly tán của chị em, chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh cố gắng xin Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo cho khôi phục lại đời sống cộng đoàn để các chị có thể sống đời tu trì một cách đích thực. Thoạt đầu, Đức Cha có phần băn khoăn e ngại vì ngài cảm thấy sau gần 30 năm với lời khấn tạm, mạnh ai nấy sống, bây giờ tập trung lại sống thành cộng đoàn, không phải là chuyện dễ. Nhưng cuối cùng, với những lý do chính đáng và mạnh mẽ, chị Tổng Anne đã thuyết phục được Đức Cha và ngài đã cho gọi 22 chị về Hội dòng.
Ngày 12.06.1991, chị đại diện Anna Đinh Thị Hiền đã khấn trọn đời trong tay chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh tại Nhà Mẹ Xóm Mới Gò Vấp. Các chị còn lại tiếp tục khấn trong ba đợt nữa tại nhà Phát Diệm Lưu Phương.
Ngày 01.01.1996, tại Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm, Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo chủ toạ Tổng Tu nghị đầu tiên sau nhiều năm bị gián đoạn, có sự hiện diện của cha Quản lý Antôn Phan Văn Tự và chị Anne Nguyễn Thị Thanh, Tổng Phụ trách Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp, chị Đại diện Maria Phan Thị Mai được chị em bầu chọn làm Tổng Phụ trách đầu tiên của Mến Thánh Giá Phát Diệm Lưu Phương. Từ đây, theo yêu cầu của Thánh Bộ các Dòng tu năm 1995, Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm và Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp trở thành hai Hội dòng biệt lập, tuy vẫn là một trong tinh thần. Từ năm 1991, Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp đã cố gắng phụ giúp Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm những gì có thể theo khả năng cho phép, đặc biệt về mặt huấn luyện.
6.4.3. Hội Dòng Mến Thánh Giá Los Angeles: 1992
Trong tình thế hoang mang của biến cố 1975, khoảng 28 chị em, theo sóng người di tản đã khăn gói ra đi. Sau 17 năm hội nhập xã hội Hoa Kỳ, ngày 20.02.1992, Thánh Bộ Dòng Tu gửi văn thư chính thức công nhận Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm tại Los Angeles là một Hội dòng thuộc quyền địa phận, trực thuộc Bề trên Bản Quyền Địa Phận là Đức Hồng Y Roger Mahony (chiếu theo Giáo Luật # 594), đổi tên là Hội dòng Mến Thánh Giá Los Angeles, sau khi tham khảo ý kiến Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, Giáo phận Sài Gòn, và được sự chấp thuận của chị Anne Nguyễn Thị Thanh, Tổng Phụ trách Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm Xóm Mới Gò Vấp.
6.4.4. Danh hiệu mới
Ngày 29.06.1995, Đức Hồng y Martinez, Tổng trưởng Bộ Đặc trách Đời sống Thánh hiến, ký Bản Tuyên Ngôn quyết định đổi tên Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm Xóm Mới là Hội Dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp, và chị em Mến Thánh Giá Phát Diệm tại miền Bắc vẫn giữ tên Mến Thánh Giá Phát Diệm.
6.4.5. Cung Hiến Nhà Nguyện
6.4.3. Hội Dòng Mến Thánh Giá Los Angeles: 1992
Trong tình thế hoang mang của biến cố 1975, khoảng 28 chị em, theo sóng người di tản đã khăn gói ra đi. Sau 17 năm hội nhập xã hội Hoa Kỳ, ngày 20.02.1992, Thánh Bộ Dòng Tu gửi văn thư chính thức công nhận Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm tại Los Angeles là một Hội dòng thuộc quyền địa phận, trực thuộc Bề trên Bản Quyền Địa Phận là Đức Hồng Y Roger Mahony (chiếu theo Giáo Luật # 594), đổi tên là Hội dòng Mến Thánh Giá Los Angeles, sau khi tham khảo ý kiến Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, Giáo phận Sài Gòn, và được sự chấp thuận của chị Anne Nguyễn Thị Thanh, Tổng Phụ trách Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm Xóm Mới Gò Vấp.
6.4.4. Danh hiệu mới
Ngày 29.06.1995, Đức Hồng y Martinez, Tổng trưởng Bộ Đặc trách Đời sống Thánh hiến, ký Bản Tuyên Ngôn quyết định đổi tên Hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm Xóm Mới là Hội Dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp, và chị em Mến Thánh Giá Phát Diệm tại miền Bắc vẫn giữ tên Mến Thánh Giá Phát Diệm.
6.4.5. Cung Hiến Nhà Nguyện
Ngày 27.12.2000, Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã cắt băng khánh thành và làm phép cung hiến Nhà nguyện Hội dòng trong tâm tình tri ân cảm tạ Thiên Chúa, Mẹ Maria và Thánh Giuse quan thầy của Hội dòng.
6.4.6. Mừng 100 năm thành lập Hội dòng
Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị cho phép mở năm Đại xá mừng kỷ niệm Bách Chu Niên Thành lập Hội dòng (1902-2002). Và Hội dòng đã chính thức mừng kỷ niệm trong những ngày: 09.05.2002 dịp Lễ Khấn Lần đầu; 12.06.2002 dịp Lễ Khấn Trọn đời, 26.07.2002 dịp Lễ Thánh Anna, bổn mạng chị Tổng Phụ trách và Tam nhật mừng trọng thể vào dịp Lễ Suy Tôn Thánh Giá, ngày 12 - 14.09.2002. Đây là dịp thuận lợi để chị em nhìn lại cội nguồn của mình, những bước khai phá cũng như những bước đi lên trong hành trình theo Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh.
6.4. Chị Tổng Phụ Trách Têrêsa Nguyễn Thị Bích Thuỷ
Ngày 28.11.2011, chị Têrêsa Nguyễn Thị Bích Thủy
được chọn làm Tổng Phụ trách Hội dòng,
với trách nhiệm bảo toàn và phát huy
những gia sản phong phú của Hội dòng
mà các thế hệ trước để lại.
III. TRỞ VỀ NGUỒN
1. Ban hành Hiến Chương
Chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh đã công bố và ban hành Hiến chương cho chị em vào ngày 16.06.2000. Nghi thức được lồng vào giây phút tưởng niệm ghi nhớ công ơn Đấng Sáng Lập khả kính, như một nhắc nhớ chị em những hoài bão và kỳ vọng của người cha thiêng liêng nơi đoàn con Mến Thánh Giá, mời gọi chị em quyết tâm sống hoàn hảo ơn gọi Mến Thánh Giá của mình. Đón nhận Hiến chương trong tâm tình cảm tạ, như quà tặng lớn lao Thiên Chúa trao ban, để từ đây, luật sống yêu thương này sẽ mãi mãi cùng đồng hành với từng chị em trong hành trình ơn gọi Mến Thánh Giá.
2. Hiệp hội Mến Thánh Giá Tại thế
2.1. Các Hội dòng Mến Thánh Giá thuộc Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh
Hai năm sau khi Nhóm nghiên cứu linh đạo Mến Thánh Giá của bảy Hội dòng thuộc Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh hình thành, Đức Cố Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, trong tâm tình người mục tử, đã đề nghị các chị em quy tụ các cựu nữ tu Mến Thánh Giá cùng gia đình của họ, để sinh hoạt với nhau, nhằm chuẩn bị cho việc tái lập Hiệp hội Mến Thánh Giá Tại Thế khi có điều kiện thuận lợi.
2.2. Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Tổng Giám Mục Phaolô, chị Tổng Phụ trách Anne Nguyễn Thị Thanh đã quy tụ các cựu Tu sinh của Hội dòng vào dịp Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu lần đầu tiên vào năm 1996.
Như vậy Hiệp hội Mến Thánh Giá Tại Thế Gò Vấp đã được thiết lập năm 1996 với 20 cựu Tu sinh lúc ban đầu và đến nay, năm 2011, số Hội viên là 1364 tại các Giáo phận: Thành phố Hồ Chí Minh Xuân Lộc, Đà Lạt và Bà Rịa.
Ngày Họp Mặt Truyền Thống của Hiệp Hội Mến Thánh Giá Tại Thế - Gò Vấp
Năm 2003 ghi dấu một bước tiến quan trọng trong việc bắt đầu đi vào Quy chế của Thủ bản Mến Thánh Giá Tại Thế. Năm 2007 bắt đầu có cam kết tạm lần thứ I với 24 Hội viên.
Ngày 11.09.2011, ngày Truyền Thống Mến Thánh Giá Tại Thế Gò Vấp, Hiệp Hội đã long trọng mừng kỷ niệm 15 năm thiết lập (1996-2011), một chặng dừng để Nhìn Về Cội Nguồn trong tâm tình tạ ơn Chúa và tri ân mọi người.
Ngày 11.09.2011, ngày Truyền Thống Mến Thánh Giá Tại Thế Gò Vấp, Hiệp Hội đã long trọng mừng kỷ niệm 15 năm thiết lập (1996-2011), một chặng dừng để Nhìn Về Cội Nguồn trong tâm tình tạ ơn Chúa và tri ân mọi người.
IV. GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU: Mẹ Bề trên Elisabeth Trần Thị Nhẫn (1918-1984)
1. Cuộc đời
1.1. Từ 1918 - 1954
Mẹ Êlisabeth Trần Thị Nhẫn sinh ngày 10.05.1918, tại giáo xứ Hòa Lạc, địa phận Phát Diệm, Ninh Bình. Mẹ là người con thứ sáu trong gia đình bảy người con (1 nam, 6 nữ). Ông bà cố thân sinh rất hiền lành, đạo đức và giàu lòng bác ái. Vừa lên 10 tuổi, mẹ đã được Chúa gọi dâng mình cho Chúa trong đệ tử viện Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm, tại Lưu Phương. Trong thời gian ở đệ tử, mẹ luôn là một đệ tử gương mẫu, đứng đầu về học cũng như về hạnh. Năm 1938, mẹ được Bề trên chọn cho đi học tại Hà Nội.
Ngày 01.01.1944 mẹ được khấn lần đầu. Sau đó, với nhiệm vụ chị giáo 1 đệ tử viện, kiêm việc đào tạo văn hóa cho đệ tử sinh. Năm 1949, mẹ khấn trọn đời, năm sau lãnh chức vụ Giám đốc Trường Đệ tử Lưu Phương, đồng thời làm giáo sư Pháp văn tại trường Trung học Trần Lục, Phát Diệm.
1.1. Từ 1918 - 1954
Mẹ Êlisabeth Trần Thị Nhẫn sinh ngày 10.05.1918, tại giáo xứ Hòa Lạc, địa phận Phát Diệm, Ninh Bình. Mẹ là người con thứ sáu trong gia đình bảy người con (1 nam, 6 nữ). Ông bà cố thân sinh rất hiền lành, đạo đức và giàu lòng bác ái. Vừa lên 10 tuổi, mẹ đã được Chúa gọi dâng mình cho Chúa trong đệ tử viện Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm, tại Lưu Phương. Trong thời gian ở đệ tử, mẹ luôn là một đệ tử gương mẫu, đứng đầu về học cũng như về hạnh. Năm 1938, mẹ được Bề trên chọn cho đi học tại Hà Nội.
Ngày 01.01.1944 mẹ được khấn lần đầu. Sau đó, với nhiệm vụ chị giáo 1 đệ tử viện, kiêm việc đào tạo văn hóa cho đệ tử sinh. Năm 1949, mẹ khấn trọn đời, năm sau lãnh chức vụ Giám đốc Trường Đệ tử Lưu Phương, đồng thời làm giáo sư Pháp văn tại trường Trung học Trần Lục, Phát Diệm.
1.2. Từ 1954 - 1984
Di cư vào Nam, từ năm 1954-1956, mẹ dạy Pháp văn tại trường Thánh Linh, Chợ Quán. Cuối năm 1956, Hội dòng mở thêm một tu viện tại Hòa Hưng, mẹ được bổ nhiệm làm bề trên, kiêm Hiệu trưởng trường Thánh Mẫu, trường trung học đầu tiên của Hội dòng. Ngày 11.10.1960, mẹ đắc cử làm Bề trên Cả, rồi liên tiếp bốn khóa liền trong 24 năm cho tới khi qua đời.
2. Mẫu gương sống đời thánh hiến
56 năm trong đời tu, đặc biệt trong 24 năm lãnh đạo Hội dòng, mẹ đã dốc toàn lực lo cho Hội dòng. Có thể nói, Thiên Chúa đã ban cho mẹ tài đức song toàn, có đủ mọi tư cách của một Bề trên: đạo đức, khiêm nhường, khôn ngoan, sáng suốt, cương quyết và biết dung hòa, giàu tinh thần dòng, cẩn thận giữ luật. Mẹ lại rất tế nhị, kính tr?ng và vâng phục các đấng Bề trên.
Tuy hăng say với các hoạt động bên ngoài, nhưng mẹ luôn luôn đề cao và nhắc nhở cho con cái phải chú trọng đến đời sống nội tâm, và giữ đúng tinh thần Dòng. Quả thật, có thể nói: mẹ là một người luôn sống tốt đời đẹp đạo, lo cho chị em ngày càng sống tốt trong hoàn cảnh mới của đất nước. Trong những ngày cuối đời trên giường bệnh, mẹ vẫn hằng để tâm theo dõi từng người con trong gia đình Hội dòng, nhất là khi có dịp gặp gỡ.
Sống bác ái là đỉnh cao trong cuộc đời hoạt động tông đồ của mẹ: chăm lo người nghèo, tận tình giúp đỡ những người túng thiếu, khốn khó. Lòng bác ái của mẹ đã rập khuôn đức ái của Thánh bổn mạng Elisabeth.
Tất cả những ai đã sống bên mẹ, hoặc có dịp tiếp xúc với mẹ, đều nhận rõ điều này: không ai đến với mẹ mà lúc ra về không thán phục, và không được hài lòng. Dù chỉ với một vài viên thuốc bổ, hay một vài trái cây vườn nhà trao vào tay những người gặp gỡ, mẹ đã dễ dàng chiếm được cảm tình của mọi người. M? luôn nghĩ đến người khác hơn là nghĩ đến bản thân.
Dù làm Bề trên Cả, tuổi đời đã cao nhưng mẹ luôn có một tâm hồn trẻ trung, vui tươi, và tràn đầy âm nhạc, lúc nào cũng chỉ muốn đem niềm vui đến cho mọi người, bởi vậy, khi có giờ rảnh rỗi, mẹ luôn thư giãn trên phím đàn piano hay với cây đàn ghita. Mẹ rất thích hòa tấu, do đó, các ngày lễ trọng bao giờ cũng mở đầu một bài hòa tấu hoành tráng trước khi Thánh Lễ bắt đầu. Và chính mẹ cũng không ngại trình diễn những màn song ca hoặc hòa tấu trong những buổi văn nghệ của cộng đoàn và những buổi văn nghệ chào đón Đức Cố Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình. Tinh thần vui tươi của mẹ đã làm cho cộng đoàn tràn đầy niềm vui và trẻ trung.
Trong cơn bệnh đau đớn cuối cùng, mẹ đã nêu cao gương phó thác, hy sinh và nhẫn nại chịu đựng. Suốt sáu tháng trời, cơn bệnh đã đục khoét thân xác mẹ, nhiều lúc bứt rứt khó chịu muốn như ngộp thở, thế mà không ai thấy mẹ than thở hay kêu ca đau đớn bao giờ. Trong cuộc giải phẫu tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, suốt hai giờ nằm trên bàn mổ, mặc dầu chỉ có một chút thuốc tê, mẹ không quằn quại, không tỏ ra dấu chỉ đau đớn, điều này đã làm cho các bác sĩ và y tá phụ trách thán phục. Thực mẹ đã chịu đựng một cách can đảm, anh hùng.
Nhân dịp Xuân Giáp Tý 1984, mẹ đã viết trong bức thư chúc Tết toàn Dòng: “... Trọn vẹn con người con trong mọi chi tiết cuộc đời lúc thụ bệnh, con đã hiến dâng lên Chúa, để Chúa nhận lấy của lễ của con kết hợp với thử thách của toàn thể Hội dòng, do cơn bệnh của con, để hiến dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi, như một hiến lễ đầy tình tuân phục và yêu mến, để cầu cho nhân loại, cho Hội Thánh, cho Nước Việt Nam thân yêu, cho các Đức cha các Giáo phận mà chị em đang phục vụ, cho toàn thể Hội dòng và cho các linh hồn cần ơn cứu chuộc”.
Ngày 24.04.1984, lúc 0giờ 30 thứ Ba Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Chúa đã gọi mẹ về giữa những tiếc thương vô vàn của đoàn con với 66 tuổi đời và 56 năm trong nhà Chúa. Mẹ nằm đó bình an, sau một đời “kiên Nhẫn” hiến dâng cho Thiên Chúa và phục vụ hạnh phúc cho mọi người. Nhìn những thành quả tinh thần cũng như vật chất mẹ đã gầy dựng cho Hội dòng, ai cũng phải nghiêng mình trước tài năng điều hành và lãnh đạo rất khôn khéo của mẹ. Có thể nói, từ 1960-1975, mẹ đã đưa Hội dòng đến đỉnh cao trong sự phát triển. Và tài năng lãnh đạo của mẹ càng thể hiện rõ nét từ biến cố 1975 tới khi mẹ qua đời, một giai đoạn đầy gian nan thử thách.
Cuộc đời của mẹ có thể tóm gọn trong câu: YÊU MẾN và HY SINH, bởi mẹ đã tận tụy chăm chút cho sự lớn lên của Hội dòng. Mẹ khuất đi, là một mất mát lớn lao nhất cho Hội dòng. Mẹ không còn nữa, nhưng công ơn và sự nghiệp của mẹ vẫn còn sống mãi trong mỗi người con của mẹ. Xin tri ân mẹ và ước mong mỗi người chúng con sẽ nhìn lên mẹ như mẫu gương sống động cho cuộc đời tận hiến của người nữ tu Mến Thánh Giá Gò Vấp.
Lời Kết
Trong tình Chúa yêu thương quan phòng, Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp đã trải qua 108 năm hiện diện giữa lòng dân tộc: 52 năm tại quê mẹ Phát Diệm và 56 năm nơi miền Nam thân thương. Nhìn lại dòng lịch sử để thêm một lần nữa xác tín và cảm nhận hồng ân bao la Chúa đã tràn đổ trên Hội dòng thân yêu, nỗ lực sống trọn vẹn ơn gọi Mến Thánh Giá để có thể tiếp bước viết nên những trang sử hào hùng của người nữ tu Mến Thánh Giá Gò Vấp. 108 năm với biết bao thăng trầm đổi thay, nhưng ơn Chúa vẫn luôn luôn tràn đầy trên những nữ tỳ khiêm hạ của Ngài. Với tâm tình thảo kính biết ơn, chúng con tưởng nhớ và tri ân quý Đức Hồng Y, quý Đức Cha, quý Cha, quý ân nhân, quý Mẹ Bề trên và các thế hệ chị em đã gầy dựng nên cơ nghiệp của ngày hôm nay. Mãi mãi xin được cất cao lời TẠ ƠN, vì “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 117).
Di cư vào Nam, từ năm 1954-1956, mẹ dạy Pháp văn tại trường Thánh Linh, Chợ Quán. Cuối năm 1956, Hội dòng mở thêm một tu viện tại Hòa Hưng, mẹ được bổ nhiệm làm bề trên, kiêm Hiệu trưởng trường Thánh Mẫu, trường trung học đầu tiên của Hội dòng. Ngày 11.10.1960, mẹ đắc cử làm Bề trên Cả, rồi liên tiếp bốn khóa liền trong 24 năm cho tới khi qua đời.
2. Mẫu gương sống đời thánh hiến
56 năm trong đời tu, đặc biệt trong 24 năm lãnh đạo Hội dòng, mẹ đã dốc toàn lực lo cho Hội dòng. Có thể nói, Thiên Chúa đã ban cho mẹ tài đức song toàn, có đủ mọi tư cách của một Bề trên: đạo đức, khiêm nhường, khôn ngoan, sáng suốt, cương quyết và biết dung hòa, giàu tinh thần dòng, cẩn thận giữ luật. Mẹ lại rất tế nhị, kính tr?ng và vâng phục các đấng Bề trên.
Tuy hăng say với các hoạt động bên ngoài, nhưng mẹ luôn luôn đề cao và nhắc nhở cho con cái phải chú trọng đến đời sống nội tâm, và giữ đúng tinh thần Dòng. Quả thật, có thể nói: mẹ là một người luôn sống tốt đời đẹp đạo, lo cho chị em ngày càng sống tốt trong hoàn cảnh mới của đất nước. Trong những ngày cuối đời trên giường bệnh, mẹ vẫn hằng để tâm theo dõi từng người con trong gia đình Hội dòng, nhất là khi có dịp gặp gỡ.
Sống bác ái là đỉnh cao trong cuộc đời hoạt động tông đồ của mẹ: chăm lo người nghèo, tận tình giúp đỡ những người túng thiếu, khốn khó. Lòng bác ái của mẹ đã rập khuôn đức ái của Thánh bổn mạng Elisabeth.
Tất cả những ai đã sống bên mẹ, hoặc có dịp tiếp xúc với mẹ, đều nhận rõ điều này: không ai đến với mẹ mà lúc ra về không thán phục, và không được hài lòng. Dù chỉ với một vài viên thuốc bổ, hay một vài trái cây vườn nhà trao vào tay những người gặp gỡ, mẹ đã dễ dàng chiếm được cảm tình của mọi người. M? luôn nghĩ đến người khác hơn là nghĩ đến bản thân.
Dù làm Bề trên Cả, tuổi đời đã cao nhưng mẹ luôn có một tâm hồn trẻ trung, vui tươi, và tràn đầy âm nhạc, lúc nào cũng chỉ muốn đem niềm vui đến cho mọi người, bởi vậy, khi có giờ rảnh rỗi, mẹ luôn thư giãn trên phím đàn piano hay với cây đàn ghita. Mẹ rất thích hòa tấu, do đó, các ngày lễ trọng bao giờ cũng mở đầu một bài hòa tấu hoành tráng trước khi Thánh Lễ bắt đầu. Và chính mẹ cũng không ngại trình diễn những màn song ca hoặc hòa tấu trong những buổi văn nghệ của cộng đoàn và những buổi văn nghệ chào đón Đức Cố Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình. Tinh thần vui tươi của mẹ đã làm cho cộng đoàn tràn đầy niềm vui và trẻ trung.
Trong cơn bệnh đau đớn cuối cùng, mẹ đã nêu cao gương phó thác, hy sinh và nhẫn nại chịu đựng. Suốt sáu tháng trời, cơn bệnh đã đục khoét thân xác mẹ, nhiều lúc bứt rứt khó chịu muốn như ngộp thở, thế mà không ai thấy mẹ than thở hay kêu ca đau đớn bao giờ. Trong cuộc giải phẫu tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, suốt hai giờ nằm trên bàn mổ, mặc dầu chỉ có một chút thuốc tê, mẹ không quằn quại, không tỏ ra dấu chỉ đau đớn, điều này đã làm cho các bác sĩ và y tá phụ trách thán phục. Thực mẹ đã chịu đựng một cách can đảm, anh hùng.
Nhân dịp Xuân Giáp Tý 1984, mẹ đã viết trong bức thư chúc Tết toàn Dòng: “... Trọn vẹn con người con trong mọi chi tiết cuộc đời lúc thụ bệnh, con đã hiến dâng lên Chúa, để Chúa nhận lấy của lễ của con kết hợp với thử thách của toàn thể Hội dòng, do cơn bệnh của con, để hiến dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi, như một hiến lễ đầy tình tuân phục và yêu mến, để cầu cho nhân loại, cho Hội Thánh, cho Nước Việt Nam thân yêu, cho các Đức cha các Giáo phận mà chị em đang phục vụ, cho toàn thể Hội dòng và cho các linh hồn cần ơn cứu chuộc”.
Ngày 24.04.1984, lúc 0giờ 30 thứ Ba Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Chúa đã gọi mẹ về giữa những tiếc thương vô vàn của đoàn con với 66 tuổi đời và 56 năm trong nhà Chúa. Mẹ nằm đó bình an, sau một đời “kiên Nhẫn” hiến dâng cho Thiên Chúa và phục vụ hạnh phúc cho mọi người. Nhìn những thành quả tinh thần cũng như vật chất mẹ đã gầy dựng cho Hội dòng, ai cũng phải nghiêng mình trước tài năng điều hành và lãnh đạo rất khôn khéo của mẹ. Có thể nói, từ 1960-1975, mẹ đã đưa Hội dòng đến đỉnh cao trong sự phát triển. Và tài năng lãnh đạo của mẹ càng thể hiện rõ nét từ biến cố 1975 tới khi mẹ qua đời, một giai đoạn đầy gian nan thử thách.
Cuộc đời của mẹ có thể tóm gọn trong câu: YÊU MẾN và HY SINH, bởi mẹ đã tận tụy chăm chút cho sự lớn lên của Hội dòng. Mẹ khuất đi, là một mất mát lớn lao nhất cho Hội dòng. Mẹ không còn nữa, nhưng công ơn và sự nghiệp của mẹ vẫn còn sống mãi trong mỗi người con của mẹ. Xin tri ân mẹ và ước mong mỗi người chúng con sẽ nhìn lên mẹ như mẫu gương sống động cho cuộc đời tận hiến của người nữ tu Mến Thánh Giá Gò Vấp.
Lời Kết
Trong tình Chúa yêu thương quan phòng, Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp đã trải qua 108 năm hiện diện giữa lòng dân tộc: 52 năm tại quê mẹ Phát Diệm và 56 năm nơi miền Nam thân thương. Nhìn lại dòng lịch sử để thêm một lần nữa xác tín và cảm nhận hồng ân bao la Chúa đã tràn đổ trên Hội dòng thân yêu, nỗ lực sống trọn vẹn ơn gọi Mến Thánh Giá để có thể tiếp bước viết nên những trang sử hào hùng của người nữ tu Mến Thánh Giá Gò Vấp. 108 năm với biết bao thăng trầm đổi thay, nhưng ơn Chúa vẫn luôn luôn tràn đầy trên những nữ tỳ khiêm hạ của Ngài. Với tâm tình thảo kính biết ơn, chúng con tưởng nhớ và tri ân quý Đức Hồng Y, quý Đức Cha, quý Cha, quý ân nhân, quý Mẹ Bề trên và các thế hệ chị em đã gầy dựng nên cơ nghiệp của ngày hôm nay. Mãi mãi xin được cất cao lời TẠ ƠN, vì “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 117).