Thánh Gioan Tiền Hô làm nhiệm vụ dọn đường cho Chúa Giêsu thật đúng nghĩa: Kẻ dọn đường đi trước loan tin với thái độ đầy tin tưởng và khiêm tốn: Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Gioan cũng chuẩn bị tâm hồn con người qua phép rửa của ông trên sông Giođan, nhưng cùng cung cách loan tin khiêm tốn: Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.
Sự khiêm tốn của Thánh Gioan phát xuất từ tâm hồn đạo đức chìm sâu trong suy niệm, ăn chay sám hối và đợi chờ Đấng Cứu Thế. Ngài biết rõ mình chỉ là tạo vật nhỏ bé ẩn dật trong rừng sâu để trở thành dụng cụ loan tin của Chúa, đóng góp vào công cuộc cứu chuộc của Ngài. Chúa đã cho ông được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Ba Ngôi vĩ đại khi Chúa Giêsu đến với ông để chịu phép rửa: Chúa Thánh Thần trong hình bồ câu đậu trên mình Chúa Giêsu, cùng với tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha. Phép rửa của Chúa Giêsu với Gioan Tiền Hô là khởi đầu công cuộc rao giảng của Ngài về Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm này đã không được Thiên Chúa mạc khải trong Cựu Ước, phải chờ đến Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người giáng trần, loài người mới được Ngài dạy cho để họ không bị lầm lạc.
Qủa thật, hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong Phép Rửa tội qúa vĩ đại, nên Gioan Tiền Hô đã phải chuẩn bị cả đời mình trong khiêm tốn, mới xứng đáng được chiêm ngưỡng sự huy hoàng và tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà Gioan được soi sáng gọi là Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian. Với chi tiết này, Phép Rửa được báo hiệu như Bí Tích Thanh Tẩy tội lỗi: Tội tổ tông và tội riêng mỗi cá nhân qua muôn thế hệ. Sự vĩ đại của huyền nhiệm Phép Rửa đã khiến Gioan Tiền hô xác nhận: Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần. Do đó, các yếu tố, Nước, Thánh Thần, và thân phận Đức Kitô đã làm nên mầu nhiệm Phép Rửa.
Suy niệm về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan, chúng ta cũng hỏi lại tính cách nhân chứng của mình trong Bí Tích Rửa tội đã lãnh nhận: Hình ảnh Chúa Ba Ngôi có sáng ngời và trở thành ưu tiên cho mọi hơi thở và mọi hoạt động trong hành trình đức tin và cuộc sống của mình không? Hãy sống khiêm tốn như Gioan Tiền hô, chúng ta sẽ nhận được sức mạnh và ơn Chúa để chu toàn nhiệm vụ rao giảng Chúa Ba Ngôi, là khởi sự và cũng là cùng đích cuộc đời chúng ta.
Lm. Raphel Xuân Nguyên CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐẾN MÀ XEM
Khi lòng đang ấp ủ theo đuổi một lý tưởng, bỗng dưng gặp được người giúp đỡ hay giới thiệu để đạt được lý tưởng đó, lập tức ta sẽ lao về phía trước để biến giấc mơ thành hiện thực, cho dù phải đánh đổi cả cuộc đời. Trường hợp này qúa đúng với hai môn đệ của Gioan Tiên Hô, vừa thoáng nghe ông giới thiệu: Đây là Chiên Thiên Chúa, cả hai ông đã vội bỏ lại Thầy Gioan để theo Đức Giêsu, Chiên Thiên Chúa. Nhưng để ăn chắc đúng với sự thật, hai ông đã đến và xem nơi Chúa Giêsu ở để có thể định Ngài là ai, bởi việc theo Chúa Giêsu là việc đánh đổi cả cuộc đời.
Chúa Giêsu qủa thực hết sức tâm lý khi nói: Hãy đến mà xem. Ngài không ép buộc hai môn đệ đầu tiên ấy, nhưng cho họ hoàn toàn tự do khi gợi trực tiếp vào sự tò mò và niềm khát khao đi tìm Đấng Messiah của Thiên Chúa. Nét tâm lý mời gọi ấy đã chinh phục hai môn đệ lúc khởi đầu, nhưng điều quan trọng nhất để họ theo Chúa là nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messiah Con Thiên Chúa. Thánh Gioan không nói rõ Chúa Giêsu đã tỏ ra hay làm gì để họ nhận ra tước vị Messiah, nhưng ta có thể hiểu việc gặp gỡ Thiên Chúa của các ông phải là dịp vô cùng vinh dự, hấp dẫn và đạt trọn vẹn ước mơ bấy lâu của mình. Đấng Messiah trong quan niệm Thánh Kinh là Đấng đầy tình thương, nhân ái, hiền hòa, hy sinh và quyền năng vô biên. Tiên tri Isaia tả Người là thái tử an bình; Ngài không dập tắt ngọn đèn leo lét hay bẻ gẫy cây sậy dập nát; Ngài chịu đựng và hiến mạng đền tội như con chiên hiền lành bị đem đi giết . . . Tình yêu vô biên của Chúa Giêsu, Đấng Messiah chắc chắn đã chinh phục các môn đệ tiên khởi một cách mãnh liệt. Họ gặp Ch1ua Giêsu, rồi lại tiếp tục giới thiệu Người cho các bạn mình. Tất cả đều từ bỏ hết để bước vào hành trình lý tưởng mới trong cuộc đời: Từ những kẻ đánh cá đã trở nên những tay thợ lưới người.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Đến mà xem qủa có một sức mạnh phi thường, nhưng để lời mời ấy được trọn vẹn, các môn đệ cần phải đáp lại tiếng gọi mời của Chúa. Cuộc sống và thực tại cuộc đới theo Chúa của các ông đã chứng mình điều đó: Tất cả đã dần dần hiểu sức mênh Messiah của Chúa Giêsu, để rồi đã cùng tiếp tay loan truyền sứ mệnh ấy. Họ đã buớc đi trên cùng hành trình ơn cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. Nghĩ về việc mau mắn đáp lại tiếng Chúa kêu mời của các môn đệ, chúng ta cảm nhận được gì trong ơn kêu gọi Chúa dành cho chúng ta hôm nay? Con Chiên Thiên Chúa vẫn còn đó, nhưng có mấy ai đã thục sự đến mà xem nơi Chúa ở. Và đây cũng là thách đố mà Chúa Giêsu đang đặt trong tâm hồn và cuộc đời của chúng ta đó.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
ƠN GỌI CÁ NHÂN THEO CHÚA
Nhìn quang cảnh các môn đệ đầu tiên theo Chúa trong Phúc âm thánh Gioan hôm nay, người ta nhận ra một điểm rất quan trọng trong việc quyết định ơn kêu gọi theo Chúa của mình: Ơn kêu gọi là vấn đề hết sức riêng tư của mỗi cá nhân và hoàn toàn do mình quyết định khi nhận ra tiếng gọi ấy. Dĩ nhiên khi gọi là "ơn" thì phải được ban tặng từ Đấng kêu gọi, và Đấng ấy là Thiên Chúa. Do đó, ơn kêu gọi nằm trong tương quan cá nhân với Chúa, Đấng kêu gọi ta làm môn đệ Ngài.
Đã gọi là việc riêng tư cá nhân, nên không thể áp dụng cho tất cả mọi người, cho dù có cùng ơn kêu gọi theo Chúa. Hai môn đệ của Gioan nghe ông nói về Chúa Giêsu, đã tự tìm đến với Chúa để quan sát xem Ngài là ai, có thực sự đúng là Đấng Messia các tiên tri đã nói trong Thánh Kinh không. Họ chỉ theo Chúa khi chính họ tự mình nhận ra Ngài là Chúa, tuy việc giới thiệu của Gioan cũng rất quan trọng. Họ đã nghe lời Chúa Giêsu mời đến mà xem Người là ai và đang làm gì. Việc họ thấy đã giúp họ nhận ra để theo Người. Có thể nói tình yêu từ trái tim họ dành cho Chúa Giêsu hết sức cá nhân và chân thành của người môn đệ. Đến trường của Simon theo Chúa do em mình là Anđrê giới thiệu cũng thật sự riêng tư cá nhân. Việc giới thiệu là môi trường thuận tiện như một dấu chỉ, nhưng tình yêu Chúa dành cho Simon khi đặt tên ông là Phêrô cho thấy ơn kêu gọi của ông thật đặc biệt. Phêrô nhận ra tình yêu ấy nên chính mình đã trả lời gắn bó cuộc đời theo Chúa khi bỏ lại sau lưng gia đình và nghề nghiệp đánh cá.
Như thế, khi muốn tìm hiểu ơn gọi theo Chúa, trước hết hãy quan sát các hoàn cảnh của ơn gọi qua các dấu chỉ đời mình. Những dấu chỉ chính là hồng ân Chúa ban tặng riêng cho mình và rất khác với tha nhân. Khi chấp nhận trả lời theo Chúa là chấp nhận để Chúa hành động trong ơn kêu gọi Ngài ban. Con người luôn có tự do: "Hãy đến mà xem" để tự mình quyết định. Nhưng khi đã theo rồi, thì buộc phải thuận theo ý Chúa hơn là ý mình. Các môn đệ bỏ lại tất cả để theo Chúa là minh chứng cho tình yêu phó thác hoàn toàn họ dành cho Người. Ơn gọi theo Chúa là cuộc phiêu lưu đời sống cá nhân cho một định mệnh tương lai hoàn toàn nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Đó là một tình yêu tuyệt đối cá nhân hiến tặng cho Đấng mình yêu thương. Một khi ơn gọi cá nhân trờ thành tình yêu tuyệt đối, nó sẽ đi vào quỹ đạo của bất cứ thứ tình yêu song phương nào nơi trái tim con người dành cho nhau cũng như nơi trái tim con người dành cho Thiên Chúa. Đó là quỹ đạo của tự hiến, cho đi và hạnh phúc.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TIN VÀO TIN MỪNG
Sau khi chịu phép rửa của Gioan trên sông Giođan, Chúa Giêsu bước ngay vào sứ điệp rao giảng Tin Mừng tình thương của Ngài để cứu nhân loại khỏi tội và sự chết: Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm. Kèm theo lời kêu gọi khẩn cấp này là việc thiết lập Giáo Hội của Chúa qua hình thức Nhóm Mười Hai. Những người theo Chúa đầu tiên xuất hiện trong Phúc Âm hôm nay là Simon (Phêrô), Anđrê, Giacôbê và Gioan (tông đồ). Tất cả đều trả lời Chúa một cách rất nhanh chóng và dứt khoát: Họ bỏ mọi sự, kể cả cha già đề theo Ngài. Có gì liên quan giữa sứ điệp thời giờ đã mãn, Nước Chúa gần đến ... và việc theo Chúa Giêsu của các tông đồ?
Nhìn lại bối cảnh lúc đó, chúng ta nhận ra một vài sự kiện quan trọng đóng góp vào việc theo Chúa của các tông đồ. Trước hết là hình ảnh Gioan Tiền Hô loan báo Đấng Cứu Thế đã thu hút rất nhiều người đến với ông. Sự mong mỏi Đấng Cứu Thế, cho dù dưới quan điểm nhân loại pha lẫn chính trị trong hoàn cảnh lịch sử người Do Thái bị Roma thống trị lúc đó, vẫn vang lên trong mỗi trái tim linh hồn đang cần được giải phóng. Thứ đến, ít nhất hai trong bốn người đó đã là môn đệ Gioan, hoặc có tương quan trực tiếp liên hệ đến, đó là Anđrê và Simon; các ông chẳng những nghe lời thầy Gioan đi theo Chúa, mà còn giới thiệu các bạn khác nữa. Điều đó cho thấy việc mong mỏi Đấng Cứu Thế của các ông hết sức mãnh liệt. Sau cùng, yếu tố thúc đẩy các tông đồ bỏ mọi sự để theo Chúa chính là con người và tư cách Đấng Cứu Thế (tức Messiah) của Chúa Giêsu. Ở nơi Ngài có gì đó quyến rũ và hấp dẫn quá, cả trong lời nói lẫn việc làm, nhất là thiên tính của Ngài đã thu hút các ông như tạo vật đến gần Đấng Tạo Hóa. Chính Anđrê đã tuyên bố: Chúng tôi đã gặp được Đấng Kitô! (Jn 1:41) Trong khung cảnh Bài Phúc âm này, chúng ta nhận thấy sứ điệp của Chúa Giêsu như gói ghém tất cả con đường cứu độ nhân loại của Ngài. Con đường ấy là con đường dẫn về Nước Chúa; nhưng muốn đạt được thì cần phải từ bỏ tội lỗi và tin vào giáo huấn và sứ điệp mà Chúa rao truyền.
Dù ảnh hưởng cách này hay cách khác, hoặc đã được Chúa Giêsu thương yêu gọi cách riêng, các tông đồ tiên khởi đã nhận ra con đường chính trực của mình. Họ bỏ tất cả để theo Chúa. Họ đã chứng minh cho chúng ta đức tin mạnh mẽ và tình mến sắt son vào Đấng Cứu Thế. Gương sáng ấy nhắc lại cho chúng ta lời kêu mời của Chúa Giêsu: Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy tin vào Tin Mừng. Chúng ta nghĩ sao về lời kêu gọi và sứ điệp của Chúa Giêsu?
Lm. Raphael Xuân Nguyên
THEO CHÚA
Có thể nói, ai sống trên đời cũng chọn cho mình một lý tưởng cuộc sống. Việc hướng dẫn và hun đúc lý tưởng khởi sự có thể do tha nhân, chính mình hoặc các hoàn cảnh cuộc đời mang lại. Có nhiều người tự nhiên chọn lý tưởng hay nghề nghiệp theo khuynh hướng có sẵn trong gia đình, khi họ thấy cha mẹ hay anh chị em sống như vậy; cũng có những người đạt đến lý tưởng hay sự nghiệp qua tháng năm miệt mài đèn sách; lại có những người bôn ba lăn lộn trong đời, để sau cùng nhờ vào chính những kinh nghiệm khổ đau của mình đạt đến lý tưởng ước mơ; nhưng cũng có những người học trực tiếp với thầy mình, gọi là sư phụ, để tìm ra ý nghĩa cho đời mình. Họ giống những môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu hay các đồ đệ của các triết gia trước hay cùng thời với Ngài, vv... Dĩ nhiên các lý tưởng cuộc sống đều khác nhau nơi mỗi cá nhân, nhưng có cùng điểm chung là những nỗ lực vất vả tiêu hao trong đời để đạt đến lý tưởng hay sự nghiệp.
Nhìn cách trả lời theo Chúa của các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, người ta có thể nghĩ các ngài không cần phải phấn đấu nhiều mấy, vì Phúc âm không mô tả thời gian tìm hiểu của các ngài về Chúa Giêsu. Tuy nhiên khi nghe lời Chúa Giêsu mời gọi Hãy đến mà xem, đã chứng tỏ sự đắn đo của các môn đệ trước khi trả lời theo Chúa. Sở dĩ, các môn đệ nhận ra ơn gọi theo Chúa Giêsu mau mắn, là vì lịch sử chờ mong Đấng Cứu Thế, tức Messia, hàng ngàn năm nơi dân Do thái đã chín mùi trong lòng các ngài. Khi đến quan sát Chúa Giêsu và các việc Ngài làm, các môn đệ nhận ra Ngài là Đấng Messia các tiên tri loan báo, nên các nỗ lực phấn đấu cá nhân như từ bỏ gia đình và nghề nghiệp riêng tư để theo Chúa có phần dễ dàng hơn. Điều chúng ta học được nơi các môn đệ trước hết là tâm hồn sẵn sàng tìm Chúa và phó thác cuộc sống cho Ngài. Theo ai là gắn bó và phó thác cuộc sống nơi người ấy. Những người yêu nhau chân thành đều làm như vậy.
Thêm vào đó, lý tưởng nào ở trần gian rồi cũng mai một và trả lại thế giới này trong nấm tro tàn cuộc đời. Người ta vất vả cả đời cho những điều qua mau vì họ chọn là lý tưởng và sự nghiệp. Nhưng các môn đệ chọn theo Chúa vì các ngài nhìn thấy Ngài là Đấng Cứu Thế và Nước của Ngài sẽ vô cùng tận. Đời theo Chúa của các môn đệ xem ra không mấy huy hoàng trước loài người, nhưng lại vinh quang thiên thu trước thiên nhan Chúa. Trả lời theo Chúa là một ơn gọi Chúa ban, nhưng đòi hỏi nơi con người nỗ lực phấn đấu và cộng tác không ngừng trên hành trình đức tin vào lý tưởng, bởi theo Chúa là từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo Ngài suốt đời! vì ta tin Ngài là tất cả hạnh phúc cho ta.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN NĂM B
KIÊN NHẪN CẬY TRÔNG
Để củng cố các môn đệ tiên khởi tin vào giáo lý tình yêu, tin vào con đường cứu rỗi, tin vào Nước Trời và tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu bắt đầu ngay với việc tiêu diệt quỷ dữ và tà thần. Thánh Marcô trong Phúc hôm nay tường thuật lại việc một người bị thần ô uế ám ảnh được Chúa Giêsu chữa lành. Phép lạ đó diễn ra ở trong hội đường Capharnaum của người Do Thái, nơi có nhiều người đang tụ họp để nghe giảng. Điều gì đã xẩy ra sau đó?
Trước hết có thể nói, việc có khả năng làm phép lạ là một chuyện rất phi thường đối với con người nói chung, và đối với những người Do Thái lúc đó nói riêng. Suốt dọc các tường trình của bốn Phúc âm, chúng ta nhận thấy có nhiều người bị ma quỷ ám hại sống lang thang đó đây, nhất là ở các nghĩa địa vắng người qua lại. Anh chàng bị thần ô uế ám ảnh này có lẽ là một trong số những người ấy, nhưng may mắn vẫn còn cơ hội lảng vảng trong hội đường để nghe giảng hoặc ăn xin. Có lẽ không ai có khả năng chữa lành những người bị ma quỷ ám hại từ trước tới nay, nên việc Chúa Giêsu chữa lành đã làm cho dân chúng kinh ngạc cả trên phương diện giáo lý và quyền năng của Ngài. Thánh Marcô đã ghi lại: Việc này làm danh tiếng của Chúa Giêsu đồn ra khắp nơi và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa. Lập tức có nhiều người tin theo Ngài.
Nhưng sự kiện ấy ngay từ đầu có thể đã làm giảm dần uy tín và sự tin tưởng của dân chúng trên những người Pharisiêu, vì họ không thể thực hiện được những điều Chúa Giêsu đã làm; do đó sau này mỗi lần chữa một người vào ngày lễ nghỉ, Ngài đều bị họ vặn vẹo bẻ méo sự thật, đến nỗi có lần đã gán cho Ngài lấy quyền tướng quỷ Ben-de-bút để trừ các quỷ con. Tệ hơn nữa Ngài còn bị coi là người không đến từ Thiên Chúa và với lý do đó họ đã kết án Ngài lộng ngôn phạm thượng trong bản án tử hình thập giá trước mặt quan Philatô.
Con đường của Chúa Giêsu là đến trần gian để cứu độ chúng sinh, Ngài cứ đi và đi hết tận con đường tình bằng việc giảng dạy Tin Mừng, chữa lành và cuộc khổ nạn chết treo thập hình. Ngài chiến đấu cho Nước Trời, nên lũ quỷ dữ chắc chắn phải tìm mọi cách để tấn công Ngài. Chúng không làm gì được Ngài thì quay sang dùng loài người như chúng một lần đã thành công với Adam và Eva. Những ai theo Chúa và tin tưởng nơi Ngài phải luôn bền vững và vui mừng, vì Chúa đã chiến thắng quỷ dữ, tội lỗi và tử thần. Với lòng kiên nhẫn cậy trông, chúng ta sẽ được Chúa cứu độ như Ngài đã cứu chữa người bị thần ô uế ám ảnh.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
NGHE VÀ GIẢNG LỜI CHÚA
Lời Chúa Giêsu là Lời đầy quyền năng, khác xa với những lời dạy phát ra từ miệng con người. Những người Do Thái nghe Chúa Giêsu dạy trong hội đường đã nói như vậy. Lời quyền năng của Chúa chẳng những khiến họ khâm phục và biến đổi, mà còn bắt ma quỷ phải cúi lạy vâng theo qua việc Người trục xuất quỷ khỏi kẻ quỷ ám. Quyền năng của Chúa Giêsu là quyền năng của Thiên Chúa. Nhờ chứng kiến của những kẻ nghe lời Chúa trong Phúc âm hôm nay, người ta có thể liên tưởng đến hai vấn đề rất thiết thực trong đời sống đạo: Thái độ lắng nghe lời Chúa và việc rao giảng lời của Người.
Về thái độ lắng nghe lời Chúa, Chúa Giêsu đã chỉ rõ trong dụ ngôn người gieo giống. Những kẻ nghe lời Người có thể so sánh với hạt giống rơi trên vệ đường, rơi trên đá sỏi, rơi vào bụi gai và rơi nhằm đất tốt. Dĩ nhiên ai cũng muốn chọn thái độ lời Chúa rơi vào đất tốt trong lòng mình. Tuy nhiên trước hết phải biết bỡ ngỡ trước lời Chúa để có thể phân biệt với lời nhân loại. Lời Chúa vì quyền năng, nên luôn luôn biến đổi. Lời Chúa rất ngọt ngào nhưng cũng hết sức sắc bén, nên có thể làm tim loài người rỉ máu trước những thói quen xấu hay tội lỗi quyện vương trong lòng. Lắng nghe lời Chúa để phân biệt lối đi chân lý cho cuộc đời mình. Phân biệt đòi buộc chọn lựa và từ bỏ. Từ bỏ nào cũng day dứt và rỉ máu trong tim để lời Chúa có thể mọc lên trong đất lòng mình. Ngược lại lời nhân loại chỉ phảng phất ngoài da và thoảng qua như gió.
Đến việc rao giảng lời Chúa sẽ gay gắt hơn trong cuộc sống chứng nhân. Trước hết cần phản ảnh được quyền năng trong Lời của Người. Kẻ rao giảng lời Chúa phải xác tín Lời Người chứ không không phải lời mình. Lời Chúa biến đổi người nghe và giúp họ tôn thờ, yêu mến và khâm phục Người. Nếu kẻ rao giảng Lời Chúa tìm vinh danh cho mình trong việc rao giảng, thì sẽ trở thành những kẻ ăn cắp lời Chúa để tô điểm cho mình. Lời họ rao giảng sẽ trở thành lời tiêu diệt vì bị quỷ dữ lợi dụng phá huỷ nước trời trong lòng người nghe. Kẻ rao giảng lời Chúa luôn nhớ mình chỉ là dụng cụ, giống như người đi gieo giống. Họ mang trên mình sứ điệp chứng nhân của Lời Chúa, nên cuộc đời họ và lời rao giảng cần phải phù hợp ở mức độ tương đối để quyền năng của Chúa có thể biến đổi lời Người từ miệng họ rao giảng. Và vì mang tính cách chứng nhân, nên sự kết hiệp giữa họ và Chúa luôn phải thân tình để mang sức sống thần linh của Người trên mình lưu chuyển đến lòng người nghe. Như thế, cả thái độ lắng nghe và việc rao giảng lời Chúa sẽ nhận được Lời quyền năng biến đổi. Nếu không, lời Chúa sẽ không rơi trên đất tốt, mà chỉ rơi vào quên lãng hư vô.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN KẾT HIỆP
Ngay sau khi chữa lành anh chàng bị thần ô uế trong hôi đường Capharnaum, Chúa Giêsu tiếp tục một chuỗi những phép lạ khác bằng quyền năng Thiên Chúa nơi Ngài: Chữa bà nhạc ông Simon Phêrô khỏi bệnh trước mặt các môn đệ, chữa nhiều bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ ra nhiều người do dân chúng nghe tiếng đồn đem đến. Việc làm của Chúa Giêsu vừa củng cố đức tin, vừa rao truyền và ban ơn cứu rỗi cho nhân loại. Trong Bài Phúc âm này, có một chi tiết khác hết sức quan trọng nối kết Chúa Giêsu với việc làm các phép lạ: Đó là tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha trong việc cầu nguyện. Thánh Marcô ghi lại: Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Gương sống của Chúa Giêsu thật hết sức tuyệt vời cho đời sống tinh thần, đức tin và tình yêu đối với Thiên Chúa.
Đúng vậy, hãy thử tưởng tượng sau một vài ngày làm việc liên tục và vất vả tiếp xúc dân chúng, chữa lành vô số bệnh nhân cũng như xua trừ ma quỷ, chắc chắn con người Đức Giêsu đã thấm mệt rã rời. Để lấy lại sức mạnh tinh thần, Ngài đã vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện với Thiên Chúa, Cha Ngài. Sự thanh vắng là môi trường tốt nhất để tinh thần thư giãn nghỉ ngơi. Tốt hơn nữa là sự nghỉ ngơi ấy được đặt trong tương quan tình yêu thân tình Cha và Con, tức trong tương quan tình yêu với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dùng phương thức sống đời sống tinh thần này để có đủ sức mạnh đi hết hành trình cứu độ nhân loại của Ngài.
Thứ đến nhờ vào đời sống tinh thần kết hiệp trong tình yêu với Thiên Chúa, sự tin tưởng nơi con người vào Thiên Chúa càng ngày sẽ càng lớn mạnh. Chắc chắn Chúa Giêsu không cần đến đức tin này, bởi chính Ngài là Thiên Chúa, nhưng gương mẫu sống đời sống tinh thần cầu nguyện sẽ giúp các môn đệ và những ai đang theo Chúa tin tưởng cậy trông nhiều hơn vào Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Giêsu luôn tâm sự cũng như kín múc nguồn sức mạnh từ quyền năng Thiên Chúa để chữa lành và tiêu diệt ma quỷ. Có thể nói đời sống cầu nguyện và kết hiệp với Thiên Chúa sẽ củng cố đức tin con người đến độ không gì có thể lay chuyển được.
Sau cùng gương sống kết hiệp với Thiên Chúa qua việc cầu nguyện trong thinh lặng của Chúa Giêsu sẽ giúp các môn đệ và con người yêu mến Thiên Chúa hơn. Kết hiệp với Thiên Chúa trong suy niệm và cầu nguyện là sự kết hiệp tuyệt với nhất của tình yêu, bởi vì chỉ nhờ phương cách này mà tinh thần nhân loại mới có thể hòa nhập trọn vẹn trong Tinh Thần của Thiên Chúa. Cầu nguyện vừa mang tính kết hiệp lại vừa mang đến sự giải thoát và ơn cứu độ từ Thiên Chúa. Chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu và sẽ hiểu được mục đích cuộc sống của mình là gì.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CẦU NGUYỆN VÀ TỪ BỎ
Bài Phúc âm hôm nay giới thiệu hai cách sống chứng nhân Tin Mừng mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người thực hiện: Phải năng cầu nguyện và xa tránh những hư danh trần thế trong việc rao giảng Tin Mừng. Hai cách sống ấy được tường thuật như sau: Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: Mọi người đều đi tìm Thầy. Nhưng Người đáp: Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa. Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ. Hai cách sống ấy chắc chắn làm các môn đệ và những ai theo Chúa phải ngạc nhiên và phấn đấu không ngừng.
Đúng vậy, việc cầu nguyện đối với Chúa Giêsu chính là lẽ sống của Người. Ngay từ sáng sớm tinh sương lúc mọi người còn say giấc điệp, thì Chúa đã đi cầu nguyện tâm sự và kết hiệp với Cha Người. Sự sống của Người và Chúa Cha cũng là một và được thông chuyển sang nhau bằng hơi thở linh thiêng cầu nguyện. Đọc Phúc âm, người ta thấy Chúa Giêsu cầu nguyện hầu như mọi lúc và mọi nơi. Ngay trong việc chữa lành và xua trừ ma quỷ, Người cũng kết hiệp với Chúa Cha để sự sống và quyền năng Thiên Chúa được thể hiện. Vì thế muốn theo Chúa rao giảng Tin Mừng, đời sống cầu nguyện sẽ trở nên ưu tiên then chốt: Cầu nguyện chính là lẽ sống để có thể nhận được sự sống và sức mạnh của Chúa trong lời mình rao giảng, nhất là trong những việc mình làm, vì cầu nguyện làm cho ta trở nên người đích thực trước mặt Thiên Chúa.
Thứ đến, Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ từ bỏ những danh vọng hão huyền thế gian ban tặng. Có lần Người từ chối dân chúng tôn Người làm vua sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Hôm nay, có lẽ dân chúng tìm Người vừa để xin Người tiếp tục chữa lành bệnh nhân, và vừa ca tụng cám ơn Người. Chúa Giêsu liền dạy các môn đệ bỏ nơi đó để đi sang các thành khác rao giảng, vì Lời Người cần được lan tỏa khắp nơi, nhất là đến những nơi chưa nhận biết Người. Các môn đệ dần dần thấm nhuần giáo lý của Chúa, để sau cùng có thể học được bài học từ bỏ Người dạy: ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta... Quả thực có từ bỏ được chính mình, mới có thể công bố Tin Mừng của Chúa và vì Chúa; bởi trong thực tế, các cám dỗ về danh vọng cũng như tiền bạc sẽ rất ngọt ngào, mạnh mẽ và chiếm đoạt, khiến kẻ rao giảng Tin Mừng bị sống trong ảo tưởng: Tưởng mình rao giảng lời Chúa, trong khi họ chỉ rao giảng lời của mình, vì mình và cho mình. Do đó, các môn đệ và những người theo Chúa rất cần sống đời cầu nguyện liên lỉ và từ bỏ chính mình hằng ngày như Chúa dạy, mới có thể xứng đáng theo Người loan báo Tin Mừng!
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TIN YÊU VÀ BIẾT ƠN
Mở đầu Phúc Âm, Thánh Marcô đã tường thuật tới tấp những phép lạ Chúa Giêsu làm. Ngài cũng tinh tế nhận ra động lực của các phép lạ ấy: Đó là lòng nhân từ yêu thương của Chúa Giêsu đối với con người nói chung, nhất là đối với các bệnh nhân và tội nhân nói riêng. Bên cạnh đó là lòng tin tưởng cậy trông và van xin của những người này vào quyền năng và tình thương của Chúa. Thánh Marcô đã viết ra bài học thần học về ân sủng cứu độ: Đó là tình thương của Chúa và sự cộng tác của con người để ơn cứu độ được thực hiện. Hình ảnh người mắc bệnh cùi van xin Chúa Giêsu chữa lành trong đoạn Phúc âm này là một minh chứng cụ thể.
Người mắc bệnh cùi đến van xin Chúa. Chúa động lòng thương và chữa anh lành sạch bằng ngón tay quyền năng đụng vào anh. Phép lạ dạy chúng ta những chân lý này: Muốn được Chúa cứu chữa bệnh tật, con người phải đến với Chúa và tha thiết kiên nhẫn van xin Người. Thái độ của anh cùi quỳ trước mặt Chúa Giêsu nói lên tất cả tấm lòng khiêm tốn và cậy trông của anh vào tình thương của Chúa, Chúa nỡ nào từ chối một con người xấu số và đau khổ như anh! Thánh Marcô kể lại: Chúa động lòng thương, đưa bàn tay uy quyền lên cao và nói: Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh. Quả thực tình thương của Chúa quá bao dung và nhân từ đối với loài người sầu khổ. Mỗi phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu lại gợi lên những lần động tình thương của Ngài phát xuất từ trái tim của Thiên Chúa, nhưng cũng là trái tim bằng thịt hết sức nhân loại, đầy cảm thông và chia sẻ.
Người mắc bệnh cùi được chữa lành. Anh không cầm nổi sự vui mừng khôn xiết trong lòng, cho dù Chúa Giêsu bảo anh đừng nói với ai, chi cần đi trình diện vị tư tế để được chứng thực mình khỏi bệnh là đủ rồi. Anh vui chẳng những vì khỏi bệnh thể xác, nhưng niềm vui còn lớn lao hơn vì anh được khỏi bệnh tinh thần, thoát khỏi sự cô đơn xa cách thế giới loài người. Từ nay anh sẽ được anh em bà con thân thuộc và xã hội nhận lại anh trong gia đình của họ. Niềm vui vô cùng lớn lao ấy đã khiến anh công bố khắp nơi quyền năng và tình thương của Chúa Giêsu dành cho anh.
Suy nghĩ về hoàn cảnh và cách thức phản ứng của người mắc bệnh cùi trước phép lạ chữa lành anh nhận được từ Chúa Giêsu, chúng ta chắc không khỏi vui lây niềm vui của anh; nhưng có lẽ cũng sẽ tự hỏi mình: Trong đời sống tôi đã nhận được vô số ơn lành và phép lạ hằng ngày, tôi có cảm nghiệm niềm hạnh phúc sung sướng vô biên và có biết công bố những ơn lành của Thiên Chúa cho tha nhân không? Lòng biết ơn của tôi đang đạt đến mức độ nào? Ơn thánh Chúa có còn hữu hiệu trong tôi nữa không?. . .
Lm. Raphael Xuân Nguyên
YÊN BÌNH CỦA TÌNH YÊU
Một văn sĩ nào đó đã nhận định: Lòng ghen tương ganh tị của con người đã phá đổ biết bao ước mơ và dự án to lớn xây dựng hạnh phúc cho đời sống nhân loại. Quả thực chẳng những sự ghen tương ganh tị giết chết các uớc mơ và dự án to lớn, mà còn phá đổ và tiêu diệt ngay cả chút mơ ước hạnh phúc cỏn con còn đọng lại trong tim con người. Chỉ cần một ánh mắt liếc nhìn xỉa xói cũng khiến con tim tha nhân quằn quại xót xa. Chỉ một lời bóng gió khía cạnh cũng đủ kéo mây mù sầu héo phủ kín tâm tư ai đó đang ước mơ hạnh phúc... Nếu nơi một con người bình thường đã có thể cảm nghiệm nhậy bén sâu sắc nỗi sầu trước tình cảm bâng khuâng ghen tương ganh tị, thì trái tim người cùi trong phúc âm hôm nay làm sao có thể thở đều đặn những nhịp đập căng thẳng trước sự khinh khi miệt thị của đám người tàn nhẫn vô lương!
May thay, họ đã được trái tim tình yêu bao la của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế cảm thông đón nhận. Thánh Marcô kể: Chúa động lòng thương, đưa bàn tay uy quyền lên cao và nói: Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh. Tình thương của Chúa Giêsu đã biến đổi hoàn toàn tâm thức khổ sầu của người cùi, khiến anh thấy bừng lên trong tim mình chỉ duy nhất tình cảm biết ơn, an bình, và muốn hét to cho loài người quanh anh chia sẻ niềm vui vô cùng lớn lao mình nhận được. Và anh đã làm như thế, mặc dù Chúa Giêsu cấm không muốn cho anh tiết lộ với ai, ngoại trừ đi trình diện với thầy trưởng tế minh chứng đã được lành bệnh theo luật Maisen. Việc làm của anh một lần nữa khiến Chúa Giêsu, và ngay cả những người được Người chữa lành, trở nên mục tiêu ghen tị của con người. Thánh Marcô kể: ... nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người. Có lẽ lời Chúa Giêsu là lời tình yêu, tha thứ và chữa lành, nên không thể trở thành phương tiện bênh vực hay hòa nhập với những tình cảm ganh tị của con người; nếu vậy sẽ mất đi tính cách hiệu nghiệm của lòng nhân từ bao dung tha thứ.
Ở một góc cạnh nào đó diễn đạt tình yêu qua quyền năng chữa lành người cùi của Chúa Giêsu, người ta có thể tinh tế nhận ra sự đối đầu của Người chỉ với ma quỷ, kẻ thù của nhân loại, chứ tuyệt đối không hề chống lại bất cứ ai, kể cả những kẻ do lòng ghen tương ganh tị muốn làm hại Người và những người được Người chữa lành. Bởi đó, ta hiểu tại sao ngay từ đầu đời rao giảng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. Nước đó là Nước của tình yêu, hạnh phúc. Chỉ đạt đến Nước Trời khi tâm hồn an bình trong tình yêu, thoát khỏi ràng buộc của những tình cảm ghen tương ganh tị. Ta hãy bắt chước người cùi ca ngợi tình thương của Chúa bằng những cảm nghiệm của lòng biết ơn trước bao kỳ công và ơn thánh của Người, để nhờ đó trái tim ta thở được những nhịp đập bình yên yêu thương như những giọt sương mai long lanh cành lá trước ánh bình minh nhiệm mầu trong nắng.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TỘI VÀ ƠN CHỮA LÀNH
Có lẽ nhiều người cũng như tôi, đều thắc mắc như những người Do Thái là tại sao Chúa Giêsu không chữa lành ngay cho người bất toại, mà lại nói vòng vo tam quốc: tội con đã được tha, vv... Điều Người trả lời trực tiếp cho những người Do Thái và tôi là quyền tha tội của Người cũng đồng nghĩa với quyền chữa lành: Vậy để chứng tỏ Con Người có quyền tha tội dưới đất, Ta truyền cho anh hãy vác chõng mà về. Và người bất toại đã được lành bệnh, đứng dậy, vác chõng về nhà. Chúng ta tự hỏi: Có gì liên quan giữa việc chữa lành bên trong với bên ngoài? Giữa tinh thần và thể xác?
Về phương diện tâm lý, chúng ta thấy hết sức rõ ràng: Khi buồn, nghĩa là tinh thần ở trạng thái không bình thường, đi xuống, thì lập tức cơ thể bị ảnh hưởng không nhiều thì ít, như ăn không thấy ngon, làm việc không còn hăng hái; và nếu qúa buồn thì có thể dẫn đến bệnh tật thể xác, vv... Ngược lại, nếu tâm lý được chữa lành, thì cơ thể cũng biến đổi theo. Hãy nghĩ lại lúc đến bờ tự do sau thời gian vượt biển dài với bao nắng mưa, khổ cực, lo sợ, cảm giác sung sướng của chúng ta thế nào đã được diễn ta qua thân xác lúc đó? Những tình trạng thể xác và tinh thần liên đới chặt chẽ cho thấy một chân lý quan trọng của Chúa Giêsu: tội được tha dẫn đến việc thể xác được lành. Nói cách khác, tội cũng chính là nguyên nhân làm thân xác yếu đau bại liệt, và phải chết. Đó là tình trạng của loài người sau khi mắc tội tổ tông và các tội riêng mình.
Điều bài học Tin Mừng Marcô hôm nay hối thúc chúng ta là phải ăn năn sám hối, tin vào Phúc âm, nghĩa là tin vào Chúa Giêsu quyền năng có quyền tha tội và phục hồi tình trạng tốt lành của cả tinh thần và thể xác. Người bại liệt có lẽ cũng đã ở trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, nhưng được Chúa Giêsu chữa lành nhờ vào lòng tin và sự tuyên xưng của những người đưa anh đến. Họ không thể vào nhà được vì qúa đông, nên gỡ một lỗ trên mái nhà để hạ anh xuống trước mặt Chúa Giêsu. Việc làm của họ như muón nói với Người rằng: Chúng tôi tin Người có quyền chữa lành kẻ bất toại này. Tin và sám hối luôn đi đôi với nhau để có thể biến đổi tình trạng tâm lý và tinh thần yếu liệt của con người, để từ đó họ có đủ sức mạnh và can đảm tìm đến với Chúa Giêsu. Người đang hiện diện thực sự trong Bí Tích Thánh Thể, trong các linh mục mà Người ban cho họ quyền tha tội, trong lời quyền năng Tin Mừng của Người, và trong mọi người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Tạo vật và các biến cố cuộc đời riêng ta cũng như của nhân loại đang nói lên tình trạng yếu liệt tê bại qua những bất toàn, giới hạn và yếu đuối của họ. Hãy nhận ra quyền năng Chúa thể hiện hằng ngày trong ta và trong thế giới, để có thể khiêm nhường chạy đến với Chúa Giêsu xin ơn chữa lành.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐỨC LANG QUÂN VĨNH CỬU
Gần đây một bản nhạc nội dung Việt, nhạc và lời Pháp mang tên Bonjour Vietnam xuất hiện như một hiện tượng nhạc trong thế giới người Việt Hải Ngoại. Chính tiếng hát ngọt ngào truyền cảm, sống động và như mang ngập tràn hồn Việt của của một cô gái Việt, dù sinh ra nơi đất khách, đã diễn tả niềm mơ ước dạt dào của tình yêu nồng nàn được hôn lên, được chào đón quê hương Mẹ như rất xa lạ, vì chỉ biết qua những nét phác họa đậm hình màu sắc trong phim Cappola... Cái hiện tượng Bonjour Vietnam như đặt trọn vẹn cuộc sống mới vào ký ức xa xưa, nhưng lại rất gần và thân thương của một Việt Nam luôn hiện thực sống động trong lòng người Việt hải ngoại xa xứ. Tiếng hát Phạm Quỳnh Anh đang đưa tất cả qúa khứ Việt hiện hình trong trái tim người Việt và quê hương Việt Nam. Hình như hiện tượng này có gì hơi giống với điều Đức Kitô so sánh rượu mới và bầu cũ trên nét hình thức, dù rất khác về mặt nội dung và chiều kích tư tưởng.
Với Đức Kitô, Ngài muốn dân Ngài trong giáo hội mới phải sống hoàn toàn tinh thần mới: tinh thần của Chúa Cứu Thế trong Tân Ước, của Đức Tân Lang trong Tiệc Cưới Nước Trời Tân Ước, thứ rượu mới duy nhất không thể thay thế hoặc pha trộn trong bầu da cũ. Họ chỉ có thể ăn chay khi thấy mình trở nên cũ kỹ, nghĩa là bị bọc trong lớp sương mù dầy đặc của tội lỗi và đam mê... , lúc mà Đức Lang Quân bị đem đi, nghĩa ra ra khỏi lòng họ. Đúng hơn họ không nên mơ về quê hương cũ sau khi đã thoát khỏi kiếp lưu đầy Ai Cập tượng trưng cho sự kìm kẹp của Satan và sự chết. Khi mang Chúa Kitô, Đức Lang Quân của Tiệc Cưới Tân Ước, tâm hồn họ sẽ luôn phấn khởi vui mừng, vì tương lai hạnh phúc cũng đồng nghĩa với hiện tại hạnh phúc. Ngài xuất hiện, lập tức biến đổi mọi đời sống con người trong mọi chiều kích, cho dù có những người chưa một lần được nghe hay đụng đến Người, bởi ơn cứu độ của Người là ơn cứu độ bao phủ cả hoàn vũ qua không gian và thời gian.
Với thân phận con người, người Việt chúng ta hôm nay đã sống những cảm nghiệm cũ của một quê hương nghèo khó, chiến tranh, rách nát, nhưng đầy yêu dấu mỹ miều khó quên. Chỉ một tiếng hát dịu êm truyền cảm sống động ở góc trời xa lạ nào đó, cũng đủ khuấy lên tất cả âm vang của một vùng trời dấu yêu qúa khứ, đôi khi đã bị lãng quên. Những tình cảm nồng nàn yêu dấu ấy có thể là một bầu da cũ khó chứa nổi rượu mới trong cuộc sống ảnh hưởng tràn đầy cái mới hôm nay trong mọi chiều kích khuynh hướng cuộc đời. Sự dung hòa gần như chỉ là niềm mơ ước thoáng qua trong khoảnh khắc thời gian, cho dù tình cảm hay tình yêu ký ức vẫn còn đó. Cuối cùng người ta lại đành phải chọn cái mới đã hóa thân hay nhập thể thành cuộc sống hôm nay. Và nếu không dứt khoát, sẽ trở nên tha hóa trong tâm thức phản kháng day dứt nội tâm khôn nguôi! Riêng khi chọn Đức Kitô, chúng ta không thể đổ rượu mới vào bầu da cũ như Người nói, nghĩa là không thể mộng mơ, dù chỉ thoáng qua trong chốc lát, với đời sống cũ. Vì Người đã phục sinh hướng niềm mơ ước của chúng ta vào quê hương hạnh phúc vĩnh cửu của Người; và như Thánh Phaolô quả quyết: Người không còn chết nữa, cái chết không còn làm chủ được Người. (Rm 3:8-9) Hãy hướng mắt nhìn lên Người, đôi chân bước theo Người, và đôi tay nắm lấy Người, để hồn ta chìm đắm trong tình yêu bao la vĩnh cửu của Người, sẽ thấy cuộc sống cũ lập tức biến thành hư vô của qúa khứ, vì Người là Đức Lang Quân trong Tiệc Cưới Nước Trời hạnh phúc viên mãn của hồn ta hôm nay và vĩnh cửu.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BỠ NGỠ TRƯƠC TÌNH THƯƠNG VÀ QUYỀN NĂNG CHÚA
Đoạn Tin Mừng của Thánh Marcô hôm nay có lẽ đem đến một vài thắc mắc và phản ứng khác nhau đối với những người không tin Chúa Kitô, đối với các môn đệ trong cuộc, và đặc biệt đối với những người đang tin vào Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế.
Thắc mắc hoặc phản ứng trước tiên có thể là: Làm sao Chúa Giêsu có thể ngủ giữa cơn bão lớn đến nỗi nước đã trào vào thuyền rất nhiều, trong khi bên tai vang lên những tiếng kêu cứu vì sợ hãi của các môn đệ? Thắc mắc này rất hợp lý và tự nhiên cả cho những người không tin lẫn những ai tin vào Chúa Giêsu. Câu trả lời có thể cũng rất hợp lý là: Sau một ngày dài làm việc và giảng dạy cho một đám đông theo Chúa Giêsu, chắc chắn Người vất vả và mệt lắm. Thử tưởng tượng trong hoàn cảnh thiên nhiên mà phải giảng lớn liên miên suốt ngày, không có hệ thống âm thanh, bạn sẽ cảm thấy thế nào? Lại nữa, ở giữa thời đại mà thức ăn cũng như nước uống không mấy thuận tiện, thì chắc chắn người rao giảng như Chúa Giêsu sẽ hết sức vất vả và kiệt sức khi chiều đến! Khi có dịp nghỉ ngơi là giấc ngủ tự nhiên đến. Người ngủ trong hoàn cảnh ấy sẽ ngủ như chết, bằng chứng là Chúa Giêsu ngồi ôm gối ngủ tỉnh bơ, kệ cho bão táp sóng gió nổi lên. Những ai đã từng đi vượt biên và gặp sóng gió bão táp, có thể cũng đã trải qua kinh nghiệm ngủ này.
Phản ứng thứ hai trước bão táp là của các môn đệ Chúa Giêsu trong cuộc rất thực: Họ sợ hãi vừa kêu cứu vừa trách Thầy mình: Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao? Và sau khi Chúa Giêsu chỗi dậy truyền cho sóng gió im lặng, các ông kinh hãi nói với nhau: Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người? Tính cách thực ở đây là diễn tả sự yếu đuối trong thân phận con người. Khi bất lực trước các nguy hiểm đến tính mạng, tự nhiên bản tính con người rơi vào trạng thái sợ hãi và la hét kêu cứu. Và trước các phép lạ vượt ngoài tầm tự nhiên, con người tự nhiên bỡ ngỡ và thán phục, tin cậy và phó thác. Cả hai phản ứng của các môn đệ đều được Chúa Giêsu đáp lại bằng việc truyền cho sóng gió im lặng để trả lại sự an bình cho các ông, và nhất là chuẩn bị cho các ông nhận ra Người là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa thiên hạ đợi trông, để tiếp tục loan bào Tin Mừng cứu độ thay cho Người.
Và phản ứng thứ ba là thái độ của những người tin Chúa Giêsu khi suy niệm về quyền năng của Người trước sóng gío bão táp. Họ không có cơ hội chứng kiến quyền năng Chúa như các môn đệ, nhưng họ lại có rất nhiều cơ hội sống những hoàn cảnh đời mình trước tình thương và quyền năng của Chúa an bài cho họ. Những kinh nghiệm đau khổ của đời sống con người thường dẫn họ chiêm ngưỡng tình thương và quyền năng của Chúa, nếu họ luôn biết cậy trông và phó thác cuộc sống nơi Người. Những kinh nghiệm thường thấy nhất là sự chào đời của một đời sống mới. Người mẹ cảm nghiệm tuyệt vời bàn tay Chúa an bài cho mình và cho đứa con yêu dấu của mình. Sự chào đời của nó sẽ chấm dứt nỗi nhọc nhằn cưu mang và nuôi dưỡng, để nhường lại cho những niềm vui vô hạn trong tâm hồn và cuộc đời mà không một món quà nào có thể so sánh. Hoặc có thể cụ thể hơn khi nghĩ đến cảnh vượt biển một sống hai chết để đi tìm tự do. Với tâm tình thống thiết van xin Thiên Chúa cứu giúp, tất cả chúng ta đã đến bến bờ tự do và hôm nay đang có một cuộc sống tương đối hạnh phúc. Chúng ta có thể so sánh những kinh nghiệm này với kinh nghiệm thực của các môn đệ cùng với Chúa Giêsu trong cơn bão táp.
Điều quan trọng trong đời sống đức tin là luôn biết kêu cứu phó thác và bỡ ngỡ trước quyền năng và tình thương của Chúa. Giữa đêm tối đức tin, chúng ta đang có một cơ hội chứng tỏ niềm tin và tình yêu của mình đối với Chúa. Luôn nhớ rằng, các kinh nghiệm của đức tin luôn dẫn đến những món quà quí giá mới để chúng ta có thể chia sẻ với anh chị em đồng loại. Đây cũng là cách biết bỡ ngỡ trước tình thương và quyền năng của Chúa, vì Người luôn dùng những kẻ yếu đuối và khiêm nhường như những dụng cụ rao giảng tình thương và quyền năng ấy trong vụ trụ và trên thế giới này.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
SỐNG ĐẠO TIN YÊU VÀ PHÓ THÁC
Tường thuật trong Bài Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu trong một thời gian ngắn đã làm tới hai phép lạ: Phép lạ chữa cho một phụ nữ bị bệnh xuất huyết nhiều năm, và phép lạ lớn hơn là làm cho một bé gái mười hai tuổi con ông trường hội đường đã chết được sống lại. Chúng ta không lạ lắm vì quyền năng Thiên Chúa tỏ hiện qua các phép lạ, nhưng đúng hơn vô cùng cảm phục trước tình thương Thiên Chúa đối với nhân loại đau khổ và tội lỗi; và đồng thời học được cách diễn tả niềm tin yêu phó thác từ nơi người phụ nữ mắc bệnh và nhất là từ người cha của bé gái mười hai tuổi.
Cùng với tâm tình tin yêu phó thác và tạ ơn của người phụ nữ và gia đình ông trưởng hội đường, chúng ta tự nhìn lại đời sống giữ đạo của mình bằng những câu hỏi đơn sơ như: Tương quan đức tin của tôi với Chúa như thế nào? Tôi có cảm nghiệm được thực sự tình yêu giữa tôi với Chúa không? Trong các hoàn cảnh khó nguy cuộc đời, thái độ sống đạo của tôi thế nào trong việc cầu xin và phó thác theo ý Chúa? Sẽ còn rất nhiều những câu hỏi tương tự khác để chúng ta có thể thẩm vấn đức tin và tình yêu của mình đối với Ngài. Điểu quan trọng hơn trong đời sống đạo vẫn là: Tôi có nhận ra quyền năng và tình yêu Chúa trong đời mình qua mọi biến cố và góc cạnh cuộc sống không? Tôi có thấy sự hiện diện của Chúa bao trùm cuộc sống và vũ trụ này không?
Những câu hỏi ấy có thể sẽ dẫn chúng ta đến những cách chọn lựa để có thể khám phá trực tiếp được quyền năng và tình thương Chúa trong đời mình, chẳng hạn chọn những giây phút yên lặng trầm tĩnh để cầu nguyện một mình trước Thánh Thể, hoặc trong không khí thinh lặng của sa mạc, của biển cả mênh mông, của trời rộng bao la, hay trước sự hùng vĩ của đồi núi thiên nhiên bất tận ... để từ đó nhận ra sự tương quan giữa các chi thể trong thân thể mình, nhận ra tương quan của mình với tha nhân, tương quan của mình với các tạo vật, và cũng từ giây phút cảm nghiệm thánh thiện trong các tương quan ấy, sẽ khám phá và cảm nghiệm được Thiên Chúa và tình yêu sâu thẳm của Ngài ngay trong nội tâm mình.
Cách diễn tả đức tin của người phụ nữ mắc bệnh xuất huyết và của ông trưởng hội đường là cách cảm nghiệm tình thương và quyền năng Chúa hết sức đơn sơ. Quyền năng và tình thương Chúa có sẵn đó, cứ việc chạm đến là tuôn chảy như giòng suối mát ân huệ chữa lành. Việc chạm đến này chính là cuộc gặp gỡ của hai tâm tình yêu thương giữa ta và Chúa, khác hẳn với những cách van xin diễn t? một chiều ý muốn của ta. Và đây cũng là cách thức tốt đẹp nhất trong việc diễn tả niềm tin và tình yêu của chúng ta trong đời sống đạo: sống đạo vì yêu Chúa, từ đó biết phó thác hoàn toàn đời sống chúng ta trong tay Ngài.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM B
KIÊU CĂNG VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Những thắc mắc của những người đồng hương với Chúa Giêsu: Sao ông ta có thể khôn ngoan và làm được những phép lạ cả thể như vậy? biểu lộ sự ngạc nhiên về một người từ một gia đình tầm thường mà họ thường gặp. Nhưng Phúc âm lại kết luận: Và họ vấp phạm về Ngài! khiến Chúa Giêsu đã lên tiếng: Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương xứ sở mình! Hành động của họ biểu lộ một tính xấu rất thông thường tận thâm tâm con người: đó là tính kiêu căng.
Kiêu căng vừa là tính xấu nhất phá đổ hạnh phúc nhân loại và vừa là cội rễ tiêu diệt các nhân đức và Nước Thiên Chúa. Từ đầu Khởi Nguyên, Satan vì kiêu căng đã bị Chúa đày xuống hỏa ngục. Tổ tông loài người vì muốn hiểu biết bằng Thiên Chúa, nghe theo cám dỗ của Satan, nên đã chịu hình phạt đau khổ và chết chóc hiện nay. Bất cứ nơi nào có sự hiện diện của kiêu căng, thì ở đấy có chia rẽ, hận thù! Quỷ dữ dùng chính con người làm khổ con người khi kích thích tính kiêu căng trong lòng họ để khoe khoang, để chiếm đoạt và tiêu diệt. Những người đồng hương với Chúa Giêsu, vì kiêu căng, nên đã không thể chấp nhận được sự khôn ngoan rao giảng, và khả năng làm phép lạ chữa lành của Người! Kiêu căng đã che mắt không cho họ thấy được bản tính và vinh quang Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô.
Thay thế cho kiêu căng chính là đức Khiêm Nhường. Khiêm nhường thật là một hành trình dài phấn đấu với chính mình, với thế gian và với ma quỷ. Phấn đấu với chính mình để nhận ra những yếu đuối của mình, giúp mình biết cậy trông vào Chúa và luôn hướng về điều thiện. Từ nhận thức yếu đuối, sẽ dễ cảm thông, chia sẻ, chấp nhận và giúp đỡ tha nhân, nhất là luôn biết sám hối và thờ phượng tạ ơn Chúa. Phấn đấu với thế gian để loại trừ những thói xấu lẫn trong các việc đạo đức thường tạo ra những vinh quang giả do ảo tưởng tự tạo gây ra. Và phấn đấu với ma quỷ để luôn biết canh chừng không tiếp tay với chúng phá hoại nước Thiên Chúa.
Những ai khiêm nhường thật thường có sự an bình nội tâm, có tâm tình sẵn sàng vâng nghe và thực hành Lời Chúa và các giáo huấn của giáo hội; luôn biết tự trọng chính đáng, nghĩa là biết nhận chân những giá trị mình có, không khoe khoang thêm bớt sự thật và các thực tại nơi mình. Người khiêm nhường do đó không độc tài trong các quyết định, nhưng dễ cộng tác với tha nhân trong các công cuộc xây dựng cũng như tạo sự hài hòa giữa các bất đồng trong mọi hoàn cảnh sống. Nhờ sống khiêm nhường, họ sẽ được Chúa thương yêu và tha nhân kính trọng. Họ sẽ trở thành những sứ giả của tình thương và hòa bình. Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều cao cả nơi những ai khiêm nhường. (Magnificat)
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN NĂM B
PHÓ THÁC VÀ TIN TƯỞNG
Kinh nghiệm nhân loại cho biết bất cứ chuyến đi xa nào cũng cần chuẩn bị kỹ lưỡng và đầy đủ mới thấy an tâm. Về phương diện tinh thần, hoặc thiêng liêng thuộc phạm vi tôn giáo, người ta cũng sẽ hỏi mình cần gì cho những chuyến đi cuộc đời? Tin Mừng hôm nay nói về những bước chân rao giảng của người môn đệ Chúa Kitô. Chúa xem ra ngược lại dạy họ chuẩn bị hết sức sơ sài và khiêm tốn trên đường: Không được mang bị và túi tiền; chỉ cần một cây gậy, đôi dép và bộ quần áo trên người; tới đâu thì sống nhờ thiên hạ tới đó. Như thế, Chúa muốn họ cần biết nương tựa hoàn toàn vào Chúa, phó thác cho tình yêu và sự quan phòng của Người, và cậy nhờ vào lòng tốt của tha nhân.
Phải, trên thân kẻ rao giảng Tin Mừng phải hết sức nhẹ nhàng và trút bỏ vật chất, vì họ theo gương Chúa rao giảng sự sám hối và tin vào Tin Mừng. (Mc 6:12) Sám hối là một việc rất khó thực hiện đối với con người. Nếu người rao giảng sám hối mà tâm hồn luôn bận rộn với các nhu cầu vật chất, thì chẳng ai nghe và tin họ cả, bởi có khi họ còn tham lam và lo lắng với cuộc sống trần gian hơn cả những người nghe họ giảng là đàng khác! Chúa dạy họ chỉ cần một ít tối thiểu cho mình: một cây gậy để bảo vệ mình khỏi thú dữ, một đôi dép để có sức chịu đựng lâu dài trên đường đi, và một bộ quần áo để che mưa che nắng. Thân phận họ sẽ giống với thân phận của Chúa: Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Bề ngoài không đáng kể, bề trong mới quan trọng. Một khi trong lòng có Chúa, đến đâu và ở đâu họ cũng tràn đầy hạnh phúc và được kính trọng yêu thương.
Ngày nay, hình ảnh kẻ rao giảng Tin Mừng có lẽ khác với các môn đệ thời Chúa Giêsu rất nhiều. Những bóng dáng nghèo nàn như Chúa dạy càng ngày càng thưa thớt, vì dù ngay nơi những tu hội khấn đức khó nghèo, thì cách này hay cách khác, người ta cũng tìm để có một đời sống tương đối dễ chịu! Ấy là chưa kể đến đa số đời sống sung túc của những người đi tu trong các xã hội văn minh vật chất. Phải chăng vì nhu cầu cuộc sống mà họ không thể có lối sống phó thác và nghèo nàn như Chúa dạy nơi những kẻ rao giảng Tin Mừng? Điều này đúng hay sai còn tuỳ thuộc vào tâm hồn, ý hướng và ý chí muốn sống lý tưởng cuộc đời hiến dâng của những người theo Chúa. Gương sáng đời sống tin tưởng, phó thác, nghèo hèn và phục vụ gần đây của thánh nữa Têrêsa Hài đồng Giêsu, hoặc Mẹ Têrêxa Calcutta, vv... là những tấm gương sáng ngời mời gọi những ai đang hiến thân vì Nước Trời trở về với cuộc sống phó thác và tin tưởng thực tình nơi Chúa, nếu muốn cho Chúa thực hiện công trình cứu độ của Ngài trong các tâm hồn.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN NĂM B
NGHỈ NGƠI VÀ CẦU NGUYỆN
Sống ở những nước văn minh như nước Mỹ, người ta sẽ thắc mắc tại sao ở đây lại có quá nhiều khu vực và các phương tiện giải trí như vậy! Những khu vực và các phương tiện giải trí có khi là nhân tạo, có khi là thiên nhiên đã được cải tiến và chăm sóc để làm tăng thêm nét đẹp và hấp dẫn các du khách thưởng ngoạn. Dân chúng ở các nước nghèo có thể coi đó là việc ăn chơi phí phạm, nhưng đối với những công dân sinh sống ở Mỹ, câu trả lời sẽ khác và dễ dàng: Nhờ các khu vực và phương tiện giải trí, con người sẽ bớt đi những căng thăng đủ loại trong cuộc sống, sẽ bớt đi con số những người điên do căng thẳng từ công việc và hoàn cảnh gây ra, vv... Đúng vậy, việc giải trí cần giúp thư giãn cuộc sống; nhưng thực ra nó mới chỉ được coi như sự chuyển tiếp từ một sinh hoạt ồn ào của công việc sang một sinh hoạt ồn ào khác của giải trí, chúng ta tạm coi đó như việc đánh lừa tâm lý. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một phương pháp tuyệt vời để quân bình hóa và giúp cuộc sống thăng tiến hơn: ''Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghi ngơi một chút.'' Nơi vắng vẻ là nơi yên tĩnh sẽ giúp tâm hồn thanh thản, bình lặng và cảm nghiệm được sự ngọt ngào của thinh lặng trước các vẻ đẹp của tâm hồn, cuộc sống, thiên nhiên và nhất là sự bao la của tình yêu Thiên Chúa.
Tuy nhiên, có rất nhiều Kitô hữu đã không cảm nghiệm được sự ngọt ngào và phong phú của sự yên tĩnh trong đời sống đạo, vì những thời giờ thờ phượng và cầu nguyện trong nhà thờ thường làm họ buồn tẻ và ngủ gục. Tình trạng đó gợi chúng ta suy tư về sự yên tĩnh: thế nào là sự yên tĩnh ngọt ngào và phong phú? Trước hết nếu chỉ trốn chạy náo động để tìm yên tĩnh, giải trí, trong khi đã qúa quen với náo động, thì nhiều người sẽ không thể chịu nổi được sự yên lặng. Yên lặng lúc đó sẽ giết chết họ vì buồn chán. Hoặc cũng có những người chỉ biết đi tìm sự yên tĩnh trống rỗng vô vị. Cuộc sống đã hoang vắng, sự yên tĩnh trong tâm hồn sẽ càng trở nên hoang vu trống rỗng hơn! Cuối cùng, chỉ có yên tĩnh do chính mình chọn lựa, tự nguyện đi vào chiều sâu thăm thẳm trầm mặc yên tĩnh nội tâm, để khám phá chính mình, và để tâm hồn chìm vào tình yêu Thiên Chúa trong cảm xúc của tình yêu, mới thấy được giá trị của yên tĩnh nội tâm ngọt ngào và phong phú mà Chúa Giêsu giới thiệu. Sự yên tĩnh nghỉ ngơi đó sẽ giúp chúng ta đi xa hơn trong cuộc sống, trong các công việc và dự định tương lai. Trên hành trình tiến về quê trời, chắc chắn mỗi người Kitô hữu rất cần dừng lại nghỉ ngơi nhiều mới có đủ sức đi hết con đường vừa dài, vừa dốc và vừa ngược lại với chính bản tính của mình. Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi ...
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN NĂM B
PHÉP LẠ VÌ TÌNH THƯƠNG
Mỗi lần nghe Phép Lạ Hóa Bánh ra nhiều, có lẽ nhiều người có khuynh hướng nhìn nó dưới khía cạnh vật chất kinh tế, chẳng hạn coi đó như việc tăng cấp số nhân từ 5 chiếc bánh thành 10, 10 thành 20, vv..., hoặc từ 2 con cá thành 4, 4 thành 6, vv... cho đến khi đủ cho trên 5000 người ăn no. Chúng ta không biết cách thức Chúa làm phép lạ, chỉ biết từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, Người đã khiến cho trên 5000 người ăn no mà vẫn còn dư. Khi nhận bánh và cá, có lẽ mỗi người đều nhận được nguyên vẹn những chiếc bánh và cá đủ phần cho họ được no nê. Hình ảnh này gợi chúng ta manna trong sa mạc người Do Thái nhận trên hành trình tiến về đất hứa. Phép lạ Chúa làm cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước đều chúng tỏ một chân lý tuyệt đối: Thiên Chúa rất yêu thương loài người, nhất là những người bơ vơ, đói khát, và cùng khổ.
Đúng vậy, người Do Thái xưa đói khát trong sa mạc, nên Chúa thường ban manna cho họ làm của ăn. Những người theo Chúa Giêsu ngày đêm để nghe Người giảng dạy, quên ăn quên ngủ đến khi mệt nhoài đói lả, Người đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một chú bé. Những chi tiết như Philipphê thấy được chú bé có 5 chiếc bánh và hai con cá, và nhất là bản thân chú bé đó, nói lên sự tế nhị của tâm hồn Philipphê và tình yêu đơn sơ quảng đại của chú bé trong phép lạ, càng tăng thêm nét đẹp duyên dáng và bao la của tình yêu thoát ra từ trái tim đầy tình thương xót của Chúa Cứu Thế và sự cộng tác với tình yêu ấy của con người. Tình ấy không dừng lại ở bánh và cá, nhưng qua đó, Chúa Giêsu đã hiến mình và máu người qua những phép lạ nhãn tiền mỗi ngày trong các Thánh Lễ hiến tế trên toàn thế giới để nuôi sống muôn triệu con tim và tâm hồn đang khao khát sự sống trường sinh qua mọi thời đại.
Đó chính là tình Chúa dành cho nhân loại. Nhưng Ngài rất cần những tâm hồn tế nhị và quảng đại giới thiệu và chia sẻ tình Ngài cho tha nhân, như Philipphê, chú bé và các tông đồ trao bánh và cá cho đám dân đang đói khát của ăn vật chất và của ăn Lời Chúa. Bánh Thánh Thể là nguồn sống vô tận, dù có ban phát mãi cũng vẫn luôn tràn đầy, giống như tình yêu bao la vô bờ vô bến của Chúa. Mỗi người nhận lấy Chúa trong hồn mình sẽ cảm nhận Người trọn vẹn no nê tràn đầy. Tình Chúa cho riêng mình mà không hề bị chia sẻ. Nhưng mấy khi chúng ta cảm nhận được điều đó một cách trọn vẹn! Hãy hỏi xem mình có thái độ nào trước phép lạ tình thương bánh và rượu biến thành Mình và Máu Chúa dành riêng cho chúng ta.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN NĂM B
THỎA MÃN ĐÓI VÀ KHÁT
Chúa Giêsu nhìn rõ động lực của dân chúng đang theo Người: Các người đến với Ta vì đã được ăn bánh no nê; vì thế Người đã khuyên họ hãy làm việc để có lương thực không hề hư nát: Đó là tin vào Người, Đấng Chúa Cha sai đến. Tin vào Chúa Giêsu, cũng chính là tin vào Bánh ban sự sống đời đời, vì như lời Người phán: Bất cứ ai đến với Ta sẽ không còn bị đói, và bất cứ ai tin vào Ta sẽ không hề khát nữa.
Những lời Chúa Giêsu phán ám chỉ trực tiếp đến Bí Tích Thánh Thể, nguồn sự sống đời đời. Vì tầm quan trọng của Bí Tích này, nên cả bốn Phúc âm đều tường thuật phép lạ Hóa Bánh ra nhiều của Chúa Giêsu. Nét đẹp tuyệt vời của phép lạ là đem đến sự sống thể xác, để rồi từ sự kiện ấy, Chúa ban chính mình máu Người cho con người làm sự sống trường sinh. Điều Chúa nhấn mạnh là loài người cần phải ra sức làm việc cho sự sống đời đời. Muốn được như vậy thì trước hết phải tin vào Người là bánh hằng sống. Đức tin ở đây không còn là một định nghĩa vu vơ, mơ hồ hoặc trừu tượng khó hiểu; nhưng hướng trực tiếp vào Đấng là sự sống vĩnh cửu. Người Do Thái lúc đó khó tin vào Chúa Giêsu là Bánh hằng sống, vì họ chỉ nhìn thấy có bản tính nhân loại trong Chúa Giêsu. Đối với chúng ta hôm nay, có lẽ điều làm khó tin là cứ muốn tìm phép lạ trong Bí Tích Thánh Thể, cứ muốn Chúa tỏ dấu lạ hoặc hiện ra để mình dễ tin hơn. Đức tin thực ra thuộc phạm vi siêu nhiên, tinh thần. Nó chính là con mắt thiêng liêng giúp ta nhìn thấy Chúa, là cánh tay vô hình để ta nắm lấy Chúa, và là sức mạnh siêu việt giúp ta vượt mọi khó khăn và thử thách trên đời.
Những lời sau cùng của Phúc âm hôm nay là lời Chúa Giêsu mời gọi hãy đến và tin vào Chúa để không còn bị đói và khát nữa. Bất cứ sự thỏa mãn nào về phương diện vật chất đều gợi lên những đòi hỏi khác khiến cuộc sống luôn bị trống rỗng và khát khao thêm. Điều này là kinh nghiệm thực của Thánh Augustinô đến nỗi Ngài đã khẳng định: Con sẽ bất an mãi cho đến khi nào được nghỉ yên trong lòng Chúa mới thôi! Đúng vậy, trước những lo âu và thất vọng, trước những khao khát của đời sống tinh thần, con người chỉ được an bình và vui thỏa khi đến và nhận lấy Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, rồi trao cho Người quyền hoàn toàn hành động. Các Thánh khi còn trên dương thế đều trải qua kinh nghiệm này. Đó chính là kinh nghiệm hạnh phúc thiên đàng của những linh hồn có Thiên Chúa với mình. Chúng ta nhớ khắc ghi lời Chúa Giêsu dạy: các ngươi hãy ra sức làm việc cho sự sống đời đời.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐỨC TIN TIÊU DIỆT SỢ HÃI
Một thực tế bi thảm thường xuất hiện trong tâm thức con người: Đó là sự sợ hãi. Con người sợ hãi đủ điều từ cuộc sống vật chất đến đời sống tinh thần. Có những nỗi sợ hãi vu vơ vô lý, nhưng cũng có những nỗi sợ hãi biến thành những cơn ác mộng dính liền thân phận con người: Đó là sợ chết. Từ đó giấc mơ trường sinh như niềm khát khao vô tận nảy sinh sâu kín trong mỗi tâm hồn nhân loại qua mọi thời đại, cho dù biết rằng sau cùng phải chết, họ vẫn mơ được sống vĩnh cửu. Quả thực giấc mơ ấy rất chính đáng và hữu lý, vì khi con người bất lực trước cái chết, thì Chúa Giêsu chẳng những đã hứa ban, lại còn cho họ phương cách để đạt đến phúc trường sinh khi Người phán: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ được sống đời đời. Là người với những kinh nghiệm giới hạn trước bao nỗi sợ hãi, nhất là sợ chết, có lẽ ai cũng có thể hỏi như những người Do Thái thời Chúa Giêsu: Làm sao có thể tin được điều này? Làm sao ông ấy có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? vv...
Những thắc mắc ấy là những thực tại của sợ hãi do sự yếu đuối trong thân phận con người. Yếu đuối là hậu quả trực tiếp của tội lỗi, nhưng sự yếu đuối không đi ngược lại đức tin. Yếu đuối có thể do tội lỗi gây ra làm ý chí trở nên mềm yếu, nhưng cũng có thể vì giới hạn trong thân phận con người, khiến không thể thấu hiểu các thực tại thiêng liêng, nhất là thực tại liên quan đến sự sống trường sinh; từ đó cảm nghiệm rõ ràng hơn sự yếu đuối của niềm tin, và mất dần đi sức mạnh tinh thần, một động lực vô cùng quan trọng để chiến thắng sợ hãi. Như thế, sự yếu đuối chỉ đi ngược lại đức tin khi con người không muốn hoặc không cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Để đức tin được vững mạnh, con người phải luôn biết nương tựa và cậy trông vào Chúa, nhất là vào Lời của Người. Khi Chúa Giêsu nói và hứa ban Bánh Sự Sống Trường Sinh, Người không chỉ hứa suông, nhưng đã làm những phép lạ để chưng minh, trong đó có cả phép lạ cải tử hoàn sinh cho Lazarô và cho chính Người sau ba ngày đã chết. Việc ban sự sống trường sinh cho con người là món quà quý giá nhất, vì nó chính là sự sống thật của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Chỉ Mình và Máu Chúa Kitô mới có thể tiêu diệt các nỗi sợ hãi sâu kín trong tâm hồn nhân loại, nhất là cơn mê hoảng sợ chết. Tin vào Lời Chúa sẽ là động lực chính giúp con người nhận ra các thực tại chân thật thuộc thế giới siêu nhiên, sẽ khám phá và đón nhận dễ dàng hơn sự gần gũi với Thiên Chúa, nhất là sự sống thật của Người trong Bí Tích Thánh Thể, khiến họ càng mê say muốn kết hiệp với Người để thoả mãn giấc mơ được sống trường sinh của mình.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÁNH BAN SỰ SỐNG
Nhiều nhạc sỹ thường diễn tả những kỷ niệm tình đẹp đã qua phảng phất trong những dòng thơ trữ tình nuối tiếc: như còn chút gì để nhớ để thương; hoặc gợi lại cả một mối tình đẹp dưới tháp chuông mùa Giáng sinh: Bài thánh ca đó còn nhớ không em; lại có khi bâng khuâng như chút ít thất tình yêu dấu: Anh đi rồi còn ai tình tự...'' Những tâm tình ấy như muốn nói lên một quãng đời quá khứ, rồi một quãng đời hiện tại, hoặc một khúc quanh quá khứ mở ra một khúc ngoặc tương lai trong tình tự yêu đương. Với đời người Kitô hữu, Chúa Giêsu cũng xác định còn chút gì cao quí, còn chút gì để nhớ để thương hơn cuộc đời thường lăn lộn với miếng cơm manh áo, tiền tài, chức quyền và danh vọng: Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra. (Mt 4:4) Như thế, sự sống thể xác sẽ lệ thuộc vật chất, còn sự sống tinh thần sẽ lệ thuộc vào Lời Chúa. Tin Mừng hôm nay qủa quyết rõ ràng hơn điều một người Kitô hữu phải lựa chọn: Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống... Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời... Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy...Chọn lựa này sẽ biến đổi cuộc đời.
Cuộc đời dưới cái nhìn của Nhà Phật là một biển khổ. Những giọt nước mắt khổ đau của kiếp làm người hình như gắn liền với định mệnh của nó, bởi nó từ vật chất sinh ra, nên nhân sinh quan tạo ra nước mắt cũng nằm trong những lựa chọn bị lệ thuộc bởi vật chất. Muốn có chút gì để nhớ để thương, và nhất là muốn có chút gì cao quí hơn đời sống vật chất, con người cần phải tìm về của ăn tinh thần không thể hư nát: đó là Mình và Máu Chúa Kitô. Chúa Kitô dám xác định thịt máu Người sẽ đem lại sự sống trường sinh cho nhân loại, bởi vì sự sống từ thịt máu ấy chính là sự sống thật của Thiên Chúa. Sự sống ấy sẽ lau khô những giọt nước mắt tủi hờn, bởi nó được ban tặng nhưng không cho hết mọi người, nó đến trong tư thế bình đẳng, danh dự, tôn trọng và đầy yêu dấu. Khi người ta cảm nghiệm giới hạn mình trong những giành giựt, hắt hủi, lầm than, đau khổ, thì chính Chúa Kitô trong Nhiệm tích Thánh Thể là phương tiện duy nhất đón nhận họ trong vòng tay yêu thương nâng đỡ vỗ về, và mở ra một con đường mới cho một khúc quanh của đời hạnh phúc mới. Đức tin và tình yêu dành cho Chúa Kitô Thánh Thể đang mời gọi nhân loại bước vào một quyết định tự nguyện, nhưng cũng đầy dứt khoát: Hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo dường bao! (Tv 33:8-9) Bởi vì Thịt Chúa thực là của ăn và máu Chúa thực là của uống, ai ăn thịt máu ấy sẽ biến đời mình trở nên bất tử.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TÌNH THÂN TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Qua những kinh nghiệm sống trong cuộc sống nhân loại, các mối tương quan thân tình luôn là nơi nương náu sau cùng để tạo dựng hạnh phúc cho cá nhân cũng như tập thể. Thiếu vắng các mối dây thân tình ấy, đời sống con người sẽ đi đến bế tắc và đổ bể, chẳng hạn, gia đình sẽ kết thúc trong ly dị, tan vỡ; niềm tin tôn giáo sẽ bị hủy diệt hoặc chuyển hướng; xã hội bị rơi vào khủng hoảng vì thiếu vắng niềm tin và sự đỡ nâng... Chúa Giêsu hiểu rõ điều đó, nên Người đã ban chính Thịt Máu Người để hoàn hảo hóa các mối dây thân tình ấy, nhất làgiúp họ ý thức sâu xa hơn mục đích đời mình trong tương quan tình thân sau cùng khi ra khỏi cuộc sống này.
Qu? thực, sống mối tương quan thân tình đến mức độ đồng hóa và kết hiệp nên một không phải dễ cả về chiều dài và chiều sâu của nó. Lý do chính yếu phát sinh từ sự giới hạn của con người. Sự giới hạn ấy không cho họ nhìn thấy xa hơn cuộc sống hiện tại với những ý thức hệ và quan niệm liên quan trực tiếp đến vật chất, kể cả những ý thức hệ thuộc các lãnh vực khoa học, kinh tế, chính trị và xã hội. Từ sự giới hạn ấy, con người hầu như đang bị chi phối rất mạnh mẽ bởi các cám dỗ đầy dẫy và chằng chịt phát sinh từ hạnh phúc sai lầm do vật chất tạo nên, khiến họ rút vào vỏ ốc ích kỷ sẵn có trong não trạng và ước mơ hạn hẹp của mình, rồi đặt niềm tin sai chỗ. Một khi rơi vào tình trạng này, sẽ tạo nên sự đổ bể giữa các mối tương quan thân tình đã được xây dựng rất sâu xa bởi Thiên Chúa trong trái tim nhân loại, tức tương quan tình yêu như chính Thiên Chúa là tình yêu.
Chúa Giêsu khi tuyên bố Thịt Máu Người làm cho nhân loại trường sinh bất tử, thì chính Người xác định Thịt Máu ấy sẽ xây dựng các mối tương quan thân tình, hay đúng hơn là tương quan tình yêu vững bền giữa con người với nhau và với Thiên Chúa. Đến ăn Thịt và Máu ấy là đi vào chiều kích bao la của tình yêu Thiên Chúa, để từ đó họ có thể hiện hữu với đầy đủ ý nghĩa của sự sống chung mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho riêng họ. Người ta mất đức tin và tình yêu là vì xa rời sự sống của Thịt Máu Chúa Kitô. Chính vì thế, Thánh Phêrô đã mạnh mẽ tuyên xưng: Bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời..., Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (Jn 6:69-70). Do đó, con người khi xây dựng mối thân tình với Chúa Giêsu là đang xây dựng sự hiện hữu của mình trong tương quan tình yêu với nhau và với chính Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc sung mãn và đời đời cho muôn tạo vật.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN NĂM B
LUẬT CHÚA VÀ LUẬT NHÂN LOẠI
Nghe cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với những người Biệt Phái trong Phúc âm hôm nay, người ta có cảm tưởng con người nói chung, và ngay cả các nhà lãnh đạo tôn giáo nói riêng (mà những người Pharisiêu đại diện) đã xây dựng đời mình trên những giá trị luân lý giả tạo, ngay cả khi họ nhân danh luật pháp. Như thế, đâu là quan niệm và đường lối đứng đắn đúng nhất cho chúng ta theo?
Có hai điều quan trọng trong giáo thuyết của Chúa Giêsu hôm nay: Trước hết Người chưng dẫn lời tiên tri Isaia để nói lên quan niệm sống sai lầm của con người: Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người.'' (Mc 7:6-7) Điều thứ hai Chúa Giêsu minh họa như một chân lý bảo vệ sự trong sạch ngay thẳng nội tâm: Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ bên trong con người xuất ra mới làm cho họ ra ô uế: như ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cướp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, ngông cuồng. (Mc 7:15)
Chiếu theo những nguyên tắc của Chúa Giêsu dạy, có lẽ không mấy ai thấy mình trong sạch cả. Việc giữ đạo là con đường sống còn của các tín hữu, trước hết thường hay bị chi phối và hướng dẫn bởi ý muốn và luật pháp của con người hơn là của Thiên Chúa. Một khi là của con người, việc giữ đạo sẽ bị lệ thuộc vào phần thưởng, danh vọng cá nhân, dư luận, thói quen vô ý thức và sự sợ hãi hơn là vì yêu mến Thiên Chúa một cách chân thành và thiết tha. Riêng những người dạy đạo vì những ảnh hưởng ấy cũng hay làm cho qua lần chiếu lệ, cứng ngắc trong nguyên tắc hoặc vì mục đích cá nhân của riêng mình: dân này thờ Ta bằng môi bằng miệng... Thứ đến, việc giữ đạo sẽ ít chân thành, ngay thẳng và trung tín khi trong lòng đầy dẫy những tư tưởng xấu xa được bao phủ bởi lớp son bóng loáng của các việc đạo đức bên ngoài giả tạo. Kết quả sẽ phát sinh thái độ độc đoán, khép kín và thiếu hẳn chiều sâu bác ái. Chúa Giêsu quả quyết chính những điều đó làm họ ra ô uế!
Giữ đạo thuộc về lãnh vực tâm linh được thể hiện bằng những hành động bên ngoài, nên trước hết rất cần sự thanh tẩy sám hối nội tâm, một sự trở về liên tục để có thể nhận ra đường lối chính trực trong luật Chúa và trong các giáo huấn của Người. Đời sống đạo nội tâm với đức tin mạnh mẽ và đức mến nồng nàn sẽ giúp dễ dàng phân biệt đâu là luật và đường lối của nhân loại và đâu là luật lệ của Thiên Chúa để bước theo.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN NĂM B
CA NGỢI KỲ CÔNG PHÉP LẠ
Con người thường hay ngủ quên trước muôn vàn phép lạ trong chính bản thân và chung quanh mình; ngược lại lại thích tò mò trước những lời đồn đãi về những phép lạ xẩy ra đó đây. Đọc Phúc âm, chẳng hạn phúc âm hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa một người bị câm và điếc, người ta khám phá nét chân thành của dân chúng trước phép lạ họ chứng kiến: lòng họ đầy sự thán phục, ca tụng và muốn loan truyền, dù họ bị Chúa Giêsu cấm không được nói ra nói. Lý do đơn giản là lòng họ không thể câm nín trước những việc cao cả mà họ đã xem thấy; và riêng bản tính sự thiện hảo thì tự ban phát và tỏa lan.
Đúng vậy, nếu quan sát và suy nghĩ về bản thân và các sự vật quanh mình, người ta sẽ khám phá ra rất nhiều phép lạ đang xẩy ra từng giây phút trên đời. Chẳng hạn mỗi khi thức giấc sau một đêm dài, bạn thấy mình vẫn còn đang sống và hình như sự sống ấy lại hoàn hảo hơn. Sự sống ấy tự mình không thể tồn tại, nên đã được Thiên Chúa đặt vào trong những tương quan liên quan đến sự sống, nhất là tương quan tình yêu để làm cho sự sống nẩy sinh, phát triển và trường tồn. Đó là phép lạ kỳ diệu và vĩ đại của sự sống mà Thiên Chúa an bài không ngừng từng mỗi phút giây. Tuy nhiên, con người lại hay coi thường phép lạ này, họ hình như đang bị câm và điếc, và chỉ bị đánh thức khi nhận ra sự sống của mình hoặc của tha nhân đang ở bờ vực thẳm trước các tai nạn khủng khiếp hay biên giới giữa sự sống và sự chết. Ngoài ra, muôn muôn tạo vật đẹp tuyệt vời và thay đổi không ngừng do tham dự vào sự sống của Thiên Chúa đang làm cho thế giới và đặc biệt đời sống con người tốt đẹp hơn, cũng là những bằng chứng sống động của các phép lạ vĩ đại nhãn tiền.
Để có thể cảm nghiệm được hạnh phúc chân thật là những phép lạ Thiên Chúa thực hiện trong ta và trong muôn tạo vật, thái độ đầu tiên cần phải từ bỏ: đó là từ bỏ bệnh câm và điếc trong tâm hồn và suốt dọc đời sống mình. Từ bỏ thái độ câm và điếc cũng trực tiếp nói lên lòng biết ơn trước muôn ơn lành Thiên Chúa đổ xuống trên đời. Quả thực biết ơn các phép lạ Chúa làm sẽ làm cho lòng ta bừng cháy và muốn loan truyền như dân chúng ca ngợi Chúa Giêsu hôm nay: Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được! (Mc 7:37)
Nguyện xin Chúa hãy chữa con khỏi bệnh câm và điếc, để con biết ca tụng muôn ơn lành và các kỳ công của Chúa trong con và trong muôn tạo vật của Ngài.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
XIN CHỮA BỆNH CÂM ĐIẾC
Những mạc khải của Chúa Giêsu về “Bánh Hằng Sống” đã không được dân chúng và những người Biệt Phái cũng như luật sỹ chấp nhận, ngay cả đa số các môn đệ chối từ; rồi đến những tranh luận về “Sạch và Dơ” đã làm nhức óc những người Biệt Phái chống đối các môn đệ của Chúa Giêsu không theo tập tục tiền nhân, Chúa Giêsu trở về với con đường riêng của mình: Con đường mang Tin Mừng Cứu Độ cho toàn thể nhân loại qua ngả đường dân ngoại. Ngài muốn Đạo của Ngài vượt khỏi biên giới Do Thái Giáo, để tình yêu Thiên Chúa nơi Ngài tràn đế muôn dân. Để thực hiện điều đó, Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã đến Tia và Siđon, thuộc Libăng ngày nay, một quãng đường thật dài trên các sườn núi đến tận sa mạc thuộc các vùng đất Iran và Irac, (miền thập tỉnh) để huấn luyện các môn đệ và loan báo Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa.
Ngài bắt đầu tỏ thiên chức Thiên Sai của Ngài cho các môn đệ, những người chưa thể nhìn và nghe rõ những lời Ngài giảng dạy, bằng thực hiện những phép lạ hiển nhiên, mà một trong những phép lạ đó là chữa lành một người câm và điếc trong Tin Mừng hôm nay, để các ông nhận ra thiên tính của Ngài. Cách thức Chúa Giêsu chữa lành chứng minh cả nhân tính và thiên tính của Ngài. Ngài đặt tay vào lỗ lai và dùng nước miếng thoa trên lưỡi người câm và điếc, cộng với một tiếng thở dài kêu gọi quyền năng từ trời. Tất cả như dạy các môn đệ và con người về sự hiện diện của Ngài bằng nhân tính và thiên tính của Đấng Thiên Sai. Người câm và điếc được chữa lành, và cả nhân loại cũng được chữa lành bằng các dấu chỉ của các Bí Tích sau này.
Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là Thiên Chúa. Ngài nhìn thấy nhân loại hôm nay vẫn còn câm điếc trước Lời hằng sống và các phương tiện thánh chữa lành của Ngài trong Giáo Hội. Dựa vào phép lạ chữa lành người câm và điếc trong Tin Mừng hôm nay, con người cần nhận ra sự bất lực của mình, để trước hết chạy đến với Chúa. Chỉ có Chúa mới đưa con người ra khỏi những cảnh câm và điếc thiêng liêng như đưa người câm và điếc ra một nơi riêng biệt để ban ơn chữa lành. Đây là ân huệ đặc biệt của đức tin vào Thiên Chúa.
Điều quan trọng đối với chúng ta, những Kitô hữu là làm cách nào nhận ra tính cách Thiên Sai cả Chúa Giêsu để xin Ngài chữa chúng ta khỏi bệnh câm và điếc trước quyền năng Lời Ngài. Chúng ta có thể cảm nhận sự câm và điếc đó qua thái độ ơ hờ lắng nghe Lời Chúa, trước sự vô cảm của mình khi tham dự Thánh Lễ, trước những đau khổ qua việc dửng dưng trong những cái nhìn, những phê bình chỉ trích, những thóa mạ danh dự qua việc nói hành nói xấu tha nhân, hoặc có khi bè đảng làm khổ những người thấp mũi bé miệng, những cô nhi qủa phụ, một loại đại diện câm điếc đáng thương không được tỏ bày! Ai có thể nói những Kitô hữu ngày nay không bị câm và điếc!
Chắc chắn Chúa Giêsu còn phải vượt biên giới hoài để loan truyền Tin Mừng cứu độ tình thương của Người ngay trong tâm hồn các môn đệ Kitô hữu, để họ có thể mở tai và miệng rao truyền và sống Lời tình thương ấy. Đó cũng là cách giúp họ nhận ra tính Thiên Sai của Ngài hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, xin Chúa thương chữa lành tất cả chúng con, nhất là bệnh câm và điếc thời đại làm chúng con lãnh đạm trước sự cô đơn và khổ đau của tha nhân, để chúng con xứng đang hơn trong danh nghĩa Kitô hữu, những người con mang trên mình tên của Chúa và dấu chứng tình yêu mà chính Chúa đã âu yếm khắc ghi trong linh hồn chúng con. Amen
Lm. Raphael Xuân nguyên
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TÌNH YÊU THẬP TỰ
Lời Chúa Giêsu kết luận với ông Nicôđêmô như mở ra một chân trời bao la vô tận của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, nhất là với các tội nhân: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Người Con ấy đã chứng minh tình yêu của Cha mình dành cho loài người qua cái chết trên thập tự giá. Ta tự hỏi cây thập tự ấy có ý nghĩa gì trong đời sống nhân loại? Tại sao con người vẫn không thể nhận ra dấu chỉ yêu thương qua cây thập tự của Người?
Có thể nói cây thập tự của Chúa Giêsu dù có đẹp mấy trong ý nghĩa yêu thương, nó vẫn chỉ là biểu tượng, trừ khi con người tự nguyện nhận vác lấy và sống khía cạnh yêu thương bao la của nó mang lại. Quả thực, cây thập tự tự nó sẽ không có ý nghĩa nếu Chúa Giêsu đã không nằm trên đó để chết. Khi nhìn lên thập tự là ta nhìn vào Đức Kitô với các dấu đinh trên chân tay và cạnh sườn Người, và qua các chứng tích đó, ta có thể đọc được một tình yêu bao la cao vời trong những giọt máu sau cùng rớt xuống từ trái tim tràn đầy yêu thương của Người. Vác thập tự để theo Chúa là mang trên mình trọn vẹn con đường yêu thương mà Người đã đi qua, là vác thánh giá đời mình cùng với sự hiện diện của Đức Kitô chịu đóng đinh trên đó. Cái khía cạnh của tình yêu thật sự luôn kèm theo những hy sinh khổ đau như bài ngợi ca tự hiến trọn tình.
Nhìn vào đời sống con người như thấy đan kín những dấu vết tình yêu thập tự. Người ta chỉ suy tôn thánh giá của Chúa Kitô đúng nghĩa khi biết suy tôn thánh giá đời mình trong khía cạnh yêu thương và cho đi hết mình, điều mà Chúa Kitô đã làm. Suy tôn thánh giá đời mình cũng chính là nhận ra các dấu thánh giá trong đời là những dấu chỉ yêu thương của Chúa dành riêng cho ta. Do đó hiểu được tại sao Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô: Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Thánh giá lúc đó sẽ không còn là hình phạt, nhưng sẽ là dấu chỉ dành cho những ai biết nhờ vào nó để nhận lấy ơn cứu độ mà Chúa đã hứa và ban tặng. Hãy âu yếm ôm lấy cây thập tự của Chúa Giêsu dành cho riêng mình, và sẽ khám phá ra trọn vẹn ý nghĩa, bổn phận và phần thưởng của nó dành cho ta trong hành trình tình yêu thập tự.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN NĂM B
PHỤC VỤ KHIÊM TỐN
Mang thân phận con người, không ít thì nhiều, chúng ta cũng thường hay đo các giá trị hoặc đánh giá người khác dựa trên những vẻ bề ngoài hơn là thực chất trong tâm hồn, nhất là những giá trị đích thực của họ trước mặt Thiên Chúa. Không lạ gì khi các môn đệ Chúa Giêsu mới chỉ vỏn vẹn có mười hai người, mà cũng tranh luận xem ai sẽ là người làm lớn nhất trong họ. Chắc chắn các đánh giá về con người của các ông khác xa với điều Chúa Giêsu truyền dạy, nên Người đã tụ họp cả mười hai vị lại và phán: Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.'' Mức thang giá trị mà Chúa Giêsu đưa ra để đánh giá một người lãnh đạo: đó là sự khiêm tốn phục vụ anh chị em mình như người đầy tớ.
Thoáng lướt qua nguyên tắc này, chúng ta cảm nhận dễ dàng trong lời nói; nhưng nếu đem áp dụng vào thực tế cuộc sống trong tiến trình phục vụ thực sự một cách khiêm tốn thì không phải dễ. Nguyên việc phục vụ anh chị em mình mà thôi thì đã tốt lắm. Tuy nhiên nguyên nhân và động lực của việc phục vụ trong tâm thức của con người có thể đổi thay tuỳ theo tâm trạng và mục đích của họ. Có người thích phục vụ vì bản tính tự nhiên; có người thích phục vụ vì muốn được tha nhân để ý, nhất là trước đám đông hay tập thể; có người thích phục vụ vì muốn có quyền lợi và danh dự hơn người; lại có người muốn phục vụ để lợi dụng người khác đạt đến mục tiêu của riêng mình, vv... Nguyên tắc của Chúa Giêsu muốn làm lớn thì hãy tự làm người rốt hết'' trực tiếp nhấn mạnh đến việc phục vụ trong khiêm tốn. Bản chất của nguyên tắc này tự nó xóa đi cái ý định 'làm lớn' của người phục vụ. Làm người rốt hết là để có thể phục vụ hết mọi người một cách hiệu qủa. Sự phục vụ ấy xóa đi khoảng cách và mặc cảm giữa tha nhân và chính mình. Làm kẻ rốt hết để phục vụ cũng nói lên ý chí từ bỏ chính mình để làm theo ý và lợi ích của tha nhân. Nó hình như xóa hết cái tôi của kẻ phục vụ. Điều này rất đúng khi Thánh Phao Lô viết cho giáo hữu ở Philipphê về thân phận tôi tớ của Đức Kitô trong việc phục vu: Chúa Kitô vì chúng ta đã tự hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Phi 2:8-9)
Như thế, việc phục vụ tha nhân trong khiêm tốn như Chúa dạy đòi hỏi con người phải thực sự từ bỏ chính mình; nó cũng đồng nghĩa với việc đóng đinh mình vào thập giá. Từ bỏ cái tôi và nhân cách trong việc phục vụ không có nghĩa nhục mạ nhân phẩm, nhưng chính là bước vào con đường cứu độ của thập gía Đức Kitô, để nhờ đó hoàn hảo nhân phẩm đích thực của mình trong tư cách làm con Thiên Chúa.
Lm Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐƯỜNG HẸP
Để lãnh nhận nước trời với những điều kiện trong Phúc âm hôm nay: đó là thà mất một tay, một chân, một mắt, vv... nếu các phần thân thể ấy gây dịp tội, còn hơn là lành lặn hai tay, hai chân, hai mắt mà bị sa hỏa ngục! Việc đánh mất này do mình tự nguyện chứ không phải do tha nhân áp đặt; nói cách khác, muốn vào Nước Trời, mỗi cá nhân phải tự khép mình đi vào cửa hẹp như Chúa Giêsu đã dạy (Mt 7:13-14)
Đường hẹp dưới ánh sáng Tin Mừng có nhiều hướng đi: hướng đi mang tính tiêu cực như sám hối từ bỏ tội lỗi (Mt 3:2; Mc 6:12), sống tinh thần đạo dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (2 Cor 4:6) hơn là các hình thức bên ngoài của đạo (Mt 6:1; 2-4; 5-6; 16-18), luôn tìm sống theo ý Chúa hơn là sống theo ý mình (Mt 7:21-23). Hướng đi mang tính tích cực như phát triển bản thân với việc tăng gấp các khả năng Chúa ban (Mt 25:14-30), chọn đúng cách sống đạo phục vụ và yêu thương tha nhân nói chung, và ưu tiên riêng cho những người kém may mắn, bị ức hiếp, bóc lột, bỏ rơi... (Lc 10:29-37; Mt 25:31-46), và nhất là tìm sống gương mẫu và kết hiệp đời sống đạo thực tế với đời Chúa Giêsu trên dương thế đã đi qua.
Con đường Chúa Giêsu đã đi qua được tóm gọn trong con đường thánh giá. Lúc sinh ra Chúa đã nằm trên nôi thánh gía nghèo hèn hang lừa tuyết lạnh; lúc rao giảng Tin Mừng, Chúa đã hiến thân gắn đời mình với thập giá của đời nhân loại qua những chia sẻ đau thương trong giới hạn của họ, kể cả gánh lấy tội lỗi là nguyên nhân của sự chết; đồng thời Chúa cũng gánh lấy những rắc rối khó khăn và chống đối do con đường chia sẻ tình thương với con người; và sau cùng lúc chết, Chúa đã chọn chết trên thập tự, một con đường rất hẹp của thân phận con người, vì ở đó Chúa hầu như mất hết uy tín, mất hết quyền năng, mất luôn cả tình thân của các môn đệ, mất đoàn lũ dân chúng theo mình, và cô đơn nhất là mất luôn sự đỡ nâng của Thiên Chúa Cha rất dấu yêu của mình. Người đã tự nguyện đi vào con đường hẹp ấy để mở ra cửa trời cho tất cả nhân loại. Người đã đánh đổi đời mình trong con đường hẹp thánh gía để đem lại thênh thang hạnh phúc của ơn cứu độ cho mọi tội nhân.
Chúa Giêsu đã mất tất cả thân phận mình trong con đường hẹp để đổi lấy nước trời cho mỗi cá nhân con người, nếu hôm nay Người nói với tôi chỉ từ bỏ một phần thân thể để đổi lấy Nước Trời, tôi sẽ nghĩ sao? Đâu là con đường hẹp tôi đang chọn sống để mởi ra lối vào Nước Trời cho tôi?
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN NĂM B
NHÂN DANH TÌNH YÊU
Tiếng nói của con tim như vô hình nhưng vô cùng mãnh liệt. Nó cứ âm thầm thúc đẩy để chủ thể tự nhiên tìm về đối tượng yêu đương, bất kể giới hạn tuổi tác, địa vị, hoàn cảnh hoặc ngay cả thời gian và không gian. Chẳng lạ gì vì yêu con người, Thiên Chúa đã xuống thế làm người và điên dại chết trên thập giá. Riêng về những tương quan tình yêu giữa con người với nhau, nhất là tình yêu đôi lứa, vợ chồng, tiếng nói tình yêu đã khiến họ bị hút lại gần nhau, yêu nhau, cho nhau, xâm nhập nhau đến nỗi Thánh Kinh đã diễn tả: Người ta sẽ bỏ cha mẹ mà kết hiệp với vợ (chồng) mình, họ không còn là hai, nhưng là một huyết nhục. Đó là sức mạnh của sự quyến rũ và hấp dẫn của tình yêu, nhất là ở thuở ban đầu khi mới yêu nhau.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác của tình yêu thể hiện trong đời người, rất nhiều người đã bị mù quáng không thể phân biệt được tình yêu thật và tình yêu giả. Họ chỉ biết nhân danh tình yêu để vượt qua những biên giới của văn hóa, đạo lý, luật pháp, truyền thống và ngay cả luật Thiên Chúa. Khi vượt qua các giới hạn này, tình yêu không còn tinh tuyền và đẹp đẽ với những nét đẹp mẫu của tình yêu Thiên Chúa khắc ghi trong tim nhân loại. Nó thường hay bị hướng dẫn và nhuộm kín màu sắc của tội lỗi. Bởi thế, vì nhân danh tình yêu nên xã hội con người tràn đầy những nạn nhân thê thảm của tình yêu ngang trái. Người ta không thể tưởng tượng được một người cha có thể phạm tội dâm dục với con gái mình, hoặc người vợ hay chồng dám vô tình liều bỏ lũ con thơ dại để ích kỷ sống với người khác! Những thảm họa ấy đã và đang xẩy ra trong rất nhiều xã hội hôm nay. Chúng cũng xẩy ra thời Mai sen khi ông cho phép làm giấy ly dị. Điều thay đổi đó mà chính Chúa Giêsu xác định là do sự cứng lòng của con người, chứ từ đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng con người thì không có như vậy. Và ngày nay, vì hạnh phúc con người, Giáo hội Công Giáo cũng tháo gỡ nhiều trường hợp hôn nhân không thành với hy vọng cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn cả đạo lẫn đời. Tuy nhiên, ân huệ ấy sẽ không bao giờ trở thành sự khuyến khích ly dị, mà chỉ muốn xác định tính cách bất hợp pháp của hôn nhân cũ mà thôi; đồng thời cũng nhắc lại điều Chúa Giêsu phán: Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân rẽ.
Bạn và tôi đều biết, theo triết gia Pascal, thì con tim mình có lý lẽ riêng của nó, đôi lúc không thể hiểu và cũng không thể kiểm soát hay điều khiển nổi những đam mê khi con tim say đắm. Vào thời điểm nào đó của cuộc đời, khi thức giấc sau những đêm dài tăm tối, chúng ta sẽ hiểu được lý do thực của việc nhân danh tình yêu để làm gì, nhất là việc làm ấy một khi đúng với luật và ý Chúa, nó sẽ kết thúc ở cõi vĩnh hằng nơi chỉ còn đức mến mà thôi.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN NĂM B
GIÁ TRỊ CỦA CẢI VẬT CHẤT
Dưới cái nhìn và mục đích người đời, của cải vật chất được xếp ưu tiên lên hàng đầu. Người ta thường nhắc và kính trọng những người giàu có nhiều tiền tài vật chất, chẳng hạn mỗi năm ở xứ Mỹ này tên tuổi các nhà tỷ phú thường được dành cho một hàng đặc biệt trên báo chí, internet vv... Còn trong sinh hoạt thường ngày như tương quan bạn bè, họ hàng, xóm làng, và nhất là tương quan buôn bán và kinh tế, người ta thích liên lạc và tiếp xúc với những người giàu có. Điều này nhiều khi cũng xẩy ra trong tương quan tôn giáo nữa, nhất là khi cần tiền để làm một công trình nào đó. Dưới ánh sáng Tin Mừng, tức quan niệm và đường hướng của Chúa Giêsu, qua chứng minh về một chàng thanh niên giàu đã từ chối theo Chúa, một kết luận xem ra rất khắt khe về người giàu của cải vật chất đã được đưa ra: Những người giàu có vào Nước Thiên Chúa khó biết bao!.. Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc thật khó mà vào Nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa. Chúng ta nghĩ gì về quan niệm và đường hướng này?
Trước hết xin đừng lẫn lộn và vơ đũa cả nắm tất cả những người giàu, mà phải phân biệt một chi tiết rất quan trọng Chúa Giêsu muốn nói đến: đó là những kẻ chỉ cậy dựa vào tiền bạc vật chất mà thôi mới khó vào Nước Thiên Chúa. Như thế, Chúa Giêsu không kết án người giàu vật chất. Ở một chỗ khác trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc không được làm tôi hai chủ: hoặc chọn tiền tài vật chất hay là chỉ được chọn Thiên Chúa! Đúng hơn, Chúa nhắc con người hãy trở lại với tóm lược căn bản của Mười Giới Răn: Thờ phượng Chúa trên hết mọi sự. Riêng trong trường hợp muốn nên trọn lành, tức cảm nghiệm sự thánh thiện của Thiên Chúa trong tâm hồn mình ngay ở đời này, thì nguyên việc giữ các Điều Răn vẫn chưa đủ. Theo đề nghị của Chúa cho người thanh niên giàu, thì anh phải bán hết gia tài của anh và tặng cho những người nghèo khó, nghĩa là phải xa hẳn tương quan vật chất, không để chúng điều khiển đời mình. Lệ thuộc vật chất sẽ trở nên những kẻ cậy dựa tiền bạc như Chúa nói.
Nếu các tông đồ đã dám bỏ tất cả để theo Chúa, là vì các ông đã tuyệt đối tin vào Người, vào quyền năng cũng như tình thương của Người. Hơn nữa dù giàu hay nghèo, con người đều là con cái Chúa. Nếu biết chia sẻ tình thương cho nhau, thì của cải vật chất sẽ biến thành tiền mua lấy Nước Trời, bởi vì đối với con người nhiều việc không thể được, nhưng đối với Ngài, mọi sự đều có thể, nhất là quyền cho ta vào Nước Trời.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TỪ THU BUỒN ĐẾN XUÂN CỨU ĐỘ
Mùa thu đang len lén vào hồn thi nhân khiến những chiếc lá vàng rơi không khởi đầu một cõi chết, nhưng tô điểm và báo hiệu một sức sống vụt lên khi kết hiệp với những bước chân xào xạc của những chú nai vàng ngơ ngác. Màu trời Mùa Thu có khi trong xanh cao vút niềm hy vọng, nhưng có lúc vẩn đục khói sương của những tâm hồn trĩu nặng u buồn khói mây! Khi màu đen xám chiếm đoạït và loang lổ cõi lòng, hồn ta sẽ mãi là thu buồn bất tận. Màu sắc chiếm đoạt cũng đồng nghĩa với danh vọng hão huyền ngự trị lòng nhân loại. Hai môn đệ Giacôbê và Gioan khi muốn được ngồi bên tả và bên hữu Thầy Giêsu, lập tức mùa thu buồn loang lổ trong lòng những môn đệ khác. Thầy Giêsu lại phải vẽ lại màu sắc cho Mùa Thu cao xanh trong sáng ơn thánh trong hồn các môn đệ: Việc ngồi bên tả hữu trong Nước Chúa sẽ dành cho người Chúa tuyển chọn...Vác thập giá và đóng đinh mình vào đó là bổn phận những người tự nguyện theo Thầy... Cứ tiếp tục phục vụ và hành động như thân phận người đầy tớ để giá trị của nó biến thành Mùa Xuân cứu rỗi.
Có lẽ các môn đệ Đức Giêsu trong thoáng chốc sẽ chẳng thể hiểu cũng như sẽ không thể chấp nhận lý thuyết ngược đời ấy: Ai mà lại dại dột làm đầy tớ kẻ khác! Đúng vậy, khi Thầy Giêsu đang lên Giêrusalem để thực hiện sứ mạng cứu chuộc nhân loại qua cuộc khổ nạn, thì các môn đệ vẫn còn tranh chấp nhau xem ai sẽ là kẻ được làm lớn nhất trong Nước Trời theo kiểu nhân loại! Tâm trạng ấy dù đã qua hơn hai mươi thế kỷ, nó vẫn là những áng mây chiều thu xám ngắt trong tâm hồn các tín hữu Đức Giêsu, và vẫn ngự trị cuộc đời những người hiến dâng cuộc sống theo Ngài. Buồn ơi là buồn! Danh vọng hão huyền thế gian sao mạnh mẽ quá! Những lời khuyên và tiếng nói của Chúa Giêsu như mất hút trong mùa thu ảm đạm đời người dương thế.
Biết thế, Chúa Giêsu vẫn không thất vọng, Ngài tiếp tục đi hết con đường phục vụ như người đầy tớ chết treo thân mình trơ trụi trên cây thập tự. Vừa khi sứ mệnh kết thúc, cả bầu trời đen tối thất vọng lao xuống hồn các môn đệ. Nhưng thoáng chốc, mây mù thu buồn tan biến khi hy vọng của Xuân cứu rỗi vươn lên với bóng dáng Phục sinh thấp thoáng của Thầy Giêsu. Các môn đệ bắt đầu nhận được sức mạnh để loan truyền ơn cứu độ cho thế giới. Qủa thực, đức tin và tình yêu chỉ có thể thực hiện khi các môn đệ Chúa Giêsu tự cảm nghiệm nơi mình: Muốn làm lớn, muốn Nước Chúa trị đến, cần phải phục vụ như người đầy tớ hết lòng hy sinh và hy sinh tận tình.
Xin Chúa hãy biến đổi lòng chúng con như đã biến đổi các môn đệ Chúa, Chúa ơi.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN NĂM B
CẢNH MÙ
Thế giới người mù bị thu hẹp trong những con đường quen thuộc giới hạn và những thói quen cố định với những tương quan rất ngắn ở thế giới bên ngoài. Cái nhìn của người mù bị đóng khung trong bộ óc nhỏ bé bằng những tưởng tượng không đủ phong phú do sự pha chế của hai màu trắng đen hạn hẹp bá chủ! Cuộc đời người mù là những tiếng kêu cứu gần như tuyệt vọng, nên chẳng ai thấy được niềm vui như chính họ không bao giờ nhìn thấy nụ cười trên môi mắt mình. Cứ quan sát mãi thì càng thấy cảnh mù thê thảm mãi! Nhưng nếu đem so sánh với cảnh mù tâm hồn, thì cảnh mù thể xác vẫn bớt thê thảm hơn.
Đúng thế, sự thê thảm của cảnh mù tâm hồn bi đát hơn mù thể xác là vì kẻ mù ít khi hoặc có khi chẳng bao giờ biết mình hay nhận ra mình đang bị mù! Lời Chúa Giêsu nói về cảnh mù này rất đúng: Kẻ mù dắt kẻ mù, cả hai đều rớt xuống hố! Cảnh mù tâm hồn sẽ không cho người mù thấy được vẻ huy hoàng, uy nghi của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình và trong muôn tạo vật. Mù tâm hồn sẽ mất cảm giác và cảm nghiệm của tình thương Chúa và tình yêu nhân loại, nhất là trước những cảnh khổ đau của con người. Mù tâm hồn sẽ giới hạn người mù trong thế giới ích kỷ hưởng thụ vật chất, xác thịt và những thói quen xám đen tội lỗi. Không biết mình mù, bởi vì tội lỗi che khuất tâm hồn và tương lai hạnh phúc thật: Hạnh Phúc thiên đàng. Mất Chúa và mất Nước Trời là sự mất mát thê thảm nhất của cảnh mù tâm hồn.
Phản ứng của người mù trong Tin Mừng hôm nay chiếu sáng anh và chiếu sáng chúng ta. Sự mong mỏi, ước ao được chữa lành đôi mắt đã khiến anh lao tới Đức Giêsu, la to lên và to lên mãi: Lạy ông Giêsu, xin thương đến tôi. Không ai có thể cản ngăn nổi ước vọng và hành động của anh. Đó cũng là đức tin mãnh liệt của anh nơi Đức Giêsu, khiến anh được cứu rỗi. Người mù đã nói lên chân lý vĩ đại: Chỉ có Chúa mới có thể cứu chữa con người khỏi cảnh mù lòa cả thể xác lẫn tâm hồn.
Trong đời sống thiêng liêng, sự trở về với Chúa luôn là một hồng ân của Ngài. Hồng ân ấy tác động hồn ta như nước nhiệm mầu ơn thánh rửa sạch tối tăm tội lỗi và đưa ta trở về hạnh phúc trong tình thương Chúa. Nhưng muốn khỏi sống cảnh mù lòa, lòng phải mỏi mong và hồn phải thét gào như người mù ước muốn cầu xin thoát khỏi cuộc đời thê thảm tăm tối. Sự tỉnh thức thiêng liêng ấy là một hoạt động hai chiều: chiều của Chúa và chiều của ta. Đức tin nơi lòng ta và ơn thánh của Chúa một khi kết hợp, sẽ phá tan mù tối cõi lòng. Ta hãy đứng lên và lao về phía Chúa đi!
Lm. Raphael Xuân Nguyên
MÙ VÀ SÁNG
Phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù tên Batimê là phép lạ sau cùng trước khi Ngài tiến vào thành Giêrusalem hoàn tất sứ mạng cứu chuộc nhân loại. Phép lạ này được lồng trong khung cảnh địa lý, lịch sử và Kinh Thánh, đưa đến những ý nghĩa biểu tượng trong sứ mạng của Chúa Giêsu, và soi sáng cho các môn đệ cũng như tất cả những người theo Chúa trên con đường tình yêu cứu độ của Người.
Trước hết, chúng ta được biết phép lạ này xảy ra tại thành phố cổ nhất thế giới mang tên Giêrikhô. Nó nằm dưới mặt biển chết độ trên dưới 250 mét. Giêrikhô cũng là thành phố cổ nhất có người cư ngụ gần 8000 năm trước Chúa Giáng Sinh. Đối với người Do Thái, thành phố này như một biểu tượng giải phóng trước khi tiến vào Đất Hứa mà Giêrusalem là thành trì ánh sáng của họ.
Riêng về mặt Thánh Kinh, thì thành phố này cũng là chặng dừng chân cho các cuộc hành hương của những người Do Thái tiến về Giêrusalem để tham dự các Ngày lễ trọng đại của họ. Và với Chúa Giêsu, thì nơi đây đã ghi dấu một phép lạ của Người phá tan bóng tối nhân loại qua việc ban ánh sáng cho người mù tên Batimê. Cái ý nghĩa của tên thành phố Giêrikhô thật ý vị, vì Giêrikhô theo tiếng Do Thái là thành phố mặt trăng, thành phố của ban đêm. Nó rất hợp và giải thích được ý nghĩa trong phép lạ phá tan bóng tối trong mắt người mù.
Chính phép lạ này của Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ và những ai theo Chúa khám phá ra cảnh mù lòa tâm hồn của mình, cho dù luôn nghĩ mình đã quyết tâm theo Người với đôi mắt sang của thể xác. Tại sao vậy?
Chúng ta để ý trong Tin Mừng thánh Marcô, Chúa Giêsu đã loan báo cho các môn đệ đến ba lần về cuộc thương khó của Người, cách thức mà Chúa dùng để cứu chuộc nhân loại: đó là đường thập giá và phục sinh, nhưng các môn đệ “vẫn mù” không thể nhận ra sứ điệp ấy, vì họ luôn từ chối đau khổ, và chỉ chấp nhận quan niệm vinh quang phục sinh theo nghĩa nhân loại, một loại vinh quang thống trị lẫn nhau. Những sứ điệp khác nhau của Chúa Giêsu mà chúng ta được nghe thật rõ ràng trong các Chúa Nhật trước đó, tất cả đều quy về cùng một mục đích: phải "mất mạng sống mình" (Mc. 8,35), phải trở nên "người rốt hết" (Mc. 9,35), phải tự "móc mắt, chặt tay, chân" để khỏi phạm tội (Mc. 9,47), phải sống "trung thành trong bí tích hôn phối" đến độ anh hùng (Mc. 10,9), phải "uống chén đắng và chịu phép rửa", phải trở nên "đầy tớ của mọi người" (Mc.10,38-44). Với sức loài người, cho dù các môn đệ đã theo Chúa gần hết ba năm, và cho dù ngay cả ngững ai đã tận hiến cho Chúa hôm nay suốt cả cuộc đời, cũng không thể theo và giữ được những mệnh lệnh ấy, nếu không được Chúa giúp đỡ bằng quyền năng và sức mạnh tình yêu của Người. Có thể nói đây chính là cảnh mù của những con mắt tâm hồn trong những đôi mắt sang của thể xác! Người ta hay chọn lối sống giả hình để che lấp những hành động mù tối!
Dựa trên Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng nhận thấy người mù có một thính giác đặc biệt hơn những người bình thường, vì bằng lỗ tai của ông, ông đã nhận ra Chúa Giêsu con vua Đavít. Có thể nói đây là thính giác của đức tin, một sự nhạy cảm của niềm tin do lòng khát khao mong mỏi của ông được gặp Chúa Giêsu từ rất lâu khi nghe nói về Người. Không may cho ông, vì vào chính lúc ông la to lên câu điệp khúc mà chúng ta nài van vào đầu mỗi Thánh Lễ: Kirie, eleison “ lạy Ông Giêsu, xin thương xót tôi, thì có những kẻ uy thế sáng mắt bắt ông phải im đi. Đúng là thực tế phũ phàng trong nhân loại mà thời nào cũng có: Đó chính là cảnh những kẻ nắm quyền hành, luôn bắt những kẻ thấp cổ bé miệng và xấu số phải im đi trước những bất công mà những con người ngạo mạn đó tạo ra cho những kẻ xấu số! Họ chính là những kẻ mù tình thương trong đôi mắt sáng thể xác, trong khi người mù không trông thấy, thì linh hồn hồn ông lại rực sáng niềm tin yêu và cậy trông nơi Đấng Cứu Thế.
Bài Tin Mừng kết thúc bằng thái độ đầy nhân từ yêu thương của Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên lành đi tìm những chiên lạc, những người tội lỗi, những kẻ xấu số mang đủ loại tật bệnh thể xác và tinh thần. Người nói với ông mù: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Dĩ nhiên ông ta muốn được sáng mắt: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được" Và Đấng chăn chiên lành trìu mến nói với ông ta: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!"
Suy niệm Tin Mừng hôm nay sẽ như sự đánh thức tâm linh cho tất cả những ai đang tin và theo Chúa Giêsu trên đường thập giá tiến đến vinh quang phục sinh với Người. Chính Chúa Giêsu muốn phá tan những bóng tối tội lỗi đủ loại, nhất là lòng hận thù, ganh tỵ và vô cảm do sự ích kỷ tột độ trong tâm hồn con người nói chung, và nơi những môn đệ của Chúa nói riêng. Thành phố Giêrikhô sẽ mãi mãi vang danh sứ điệp sau cùng qua phép lạ mà Chúa Giêsu chữa người mù tên Batimê. Nó cũng là biểu tượng kêu gọi mỗi người chúng ta lao tới tình yêu thương vô bờ bến của Chúa, bằng cách mở lòng đón nhận những lời Chúa dạy từ bỏ chính mình, để cùng vác thập giá với Người trong hành trình đức tin của cuộc sống mình, và nhất là mở lòng đón nhận tất cả những ai xấu số và bất hạnh hôm nay. Đừng chà đạp họ, vì họ là biểu tượng của lòng thương xót Chúa, và cũng là gương sáng của những người có đôi mắt rực sáng tâm hồn.
Lạy Chúa Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót con!
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN NĂM B
LUẬT YÊU
Nói đến tình yêu, thì hình như không thể nói đến luật pháp, bởi tình yêu không thể lý luận, trong khi luật pháp đòi phải dùng lý trí! Vậy mà luật YÊU của Chúa Giêsu lại là luật bó buộc nhất: trước hết đối với Thiên Chúa, con người buộc phải YÊU hết lòng, hết trí khôn và hết sức; còn đối với tha nhân thì buộc phải YÊU mãnh liệt như yêu chính mình. Luật yêu ấy như thế có hai chiều: chiều dọc đi lên Thiên Chúa và chiều ngang đi tới tha nhân. Vấn đề ở đây là nếu đã trở thành luật, thì tình yêu còn có giá trị nữa không? Và làm cách nào để có thể thực hiện được luật YÊU của Chúa?
Thoạt đầu mới đọc luật YÊU này, hình như con người cảm thấy như mình bị gò bó vào tình yêu, không còn lối thoát nào khác, nếu không thi hành, chắc chắn sẽ sống rất xa Nước Thiên Chúa, hay nói cách khác là không được sống trong Nước Chúa! Tuy nhiên trong thực tế, nếu đọc kỹ cách Chúa Giêsu trình bày: Hỡi Israel, hãy nghe đây, Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi,... và hãy yêu mến đồng loại như chính mình. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó, chúng ta nhận ra nét đẹp tuyệt vời hấp dẫn của Tình Yêu, chứ không phải tính bó buộc và lý luận của luật pháp. Yêu Chúa trên hết mọi sự, vì Ngài là Đấng tuyệt đối và duy nhất, không còn Đấng nào khác nữa. Nếu phải so sánh khi yêu, thì con người cũng hay chọn lựa đối tượng nào thích hợp nhất, hấp dẫn nhất, đẹp nhất, tài ba nhất, mạnh mẽ nhất, giàu có nhất, có nhiều khả năng nhất, cái gì cũng nhất, vv... Thiên Chúa là Đấng siêu việt có tất cả những điều kiện nhất đó để đáng được yêu và phải yêu: Ngài là Tình Yêu, tức là nguồn của mọi tình yêu, tự nhiên sẽ thu hút mọi tạo vật yêu Ngài. Nếu con người hiểu biết về Thiên Chúa, có lẽ sẽ tự nhiên yêu Ngài một cách mù quáng, say đắm và mãnh liệt. Họ sẽ không cần lý luận, bởi vì tình yêu của Chúa chiếm đoạt toàn vẹn con người mình mất rồi.
Riêng chiều Yêu ngang đi đến tha nhân, vì là khía cạnh thứ hai của tình yêu mà Chúa liên hệ vào để luật YÊU nên trọn vẹn, xem ra hơi gặp cản trở trước bản tính nhân loại giới hạn và yếu đuối, nhưng thực ra nó có cùng cường điệu hấp dẫn của tình yêu với khía cạnh thứ nhất. Bởi khi yêu ai thực, tự nhiên mọi ranh giới cá nhân bị xóa bỏ, con người muốn đồng hóa mình với đối tượng mình yêu; như thế, chẳng những họ có thể yêu bằng và có khi còn yêu hơn yêu mình nữa là khác. Trong thực tế cuộc sống, vì yêu, ai cũng đều 'bỏ mạng', mất mình: đó là luật của tình yêu. Yêu Chúa và Yêu tha nhân càng nhiều, ta càng giống với nguồn tình yêu của mình là Chúa, cho đến một lúc rồi cũng sẽ 'điên dại' vì yêu, và sẽ luôn hỏi mình tại sao và tại sao!
Lm. Raphael Xuân Nguyên
YÊU HẾT LINH HỒN, HẾT TRÍ KHÔN VÀ HẾT SỨC. . .
Đã nhiều lần tôi tự đặt câu hỏi cho chính mình: Làm sao có thể “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn?” Thực ra con người chỉ là tạo vật rất giới hạn, cho dù có dùng hết khả năng của linh hồn, trí khôn và cả thể xác để yêu Chúa, thì điều gì sẽ xảy ra và bằng cách nào để thực hiện việc yêu đó?
Tạm bỏ qua những cách thức diễn tả tình yêu Chúa như đọc kinh, rước sách, cầu nguyện, và ngay cả việc tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật. Lý do là vì trong khi thực hiện các việc đó, con người thường chia trí và thực hiện vì thói quen hay vì a dua hình thức! Điều quan trọng để tìm ra câu trả lời chính là dựa trên chữ “YÊU”, và yêu hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức.
Khi nói đến yêu, thì lập tức cả chủ thể lẫn đối tượng bị đồng hóa và không còn ranh giới, nghĩa là hiện hữu trong nhau. Để hiểu được tình trạng này, hay đúng hơn không cần lý luận, chúng ta rất cần phải dựa vào Lời Chúa Giêsu trả lời cho vị tiến sỹ luật chất vấn Người: Hỡi Israel, hãy nghe đây, Đức Chúa là Thiên Chúa các người, là Chúa duy nhất (tức là một), hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng. . .” Thiên Chúa là duy nhất, là MỘT, do đó Ngài tự hiện hữu. Sự hiện hữu này đủ cho Ngài và làm phát sinh các sự hiện hữu khác. Những hiện hữu ấy mà chúng ta gọi là các tạo vật, trong đó có con người là chính chúng ta. Hiện hữu của chúng ta chỉ tồn tại khi luân chuyển và tháp nhập, tan biến trong sự hiện hữu của Thiên Chúa. Và để diễn tả hay cảm nghiệm được sự hiện hữu của mình trong Thiên Chúa, Chúa Giêsu dạy phải YÊU hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức. Chúng ta nhớ lại trong Tin Mừng thánh Gioan có lần Chúa Giêsu diễn tả chữ yêu này bằng câu: Thầy ở trong các con và các con ở trong Thầy, sẽ sinh trái. . . Chữ Yêu mà Chúa Giêsu dùng, nói lên bản tính Thiên Chúa, mà Thánh Gioan gọi là Tình Yêu. Như thế khi yêu Chúa, chúng ta tự nhiên hòa nhập vào bản tính của Ngài và hiện hữu trong Ngài. Những chữ hết long, hết linh hồn, trí khôn chỉ là cách diễn tã cường độ hòa nhập trong bản tính tình yêu của Thiên Chúa đó thôi.
Nhưng cường độ hòa nhập ấy sẽ được thực hiện bằng cách nào?
Nếu đọc tiếp Tin Mừng hôm này, chúng ta sẽ nhận ra nhờ câu đối đáp giữa vị tiến sỹ luật và Chúa Giêsu: “Vâng, Thầy dạy đúng lắm . . .” và Chúa Giêsu khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu.” Người Do Thái đã mong đợi Nước Thiên Chúa cả bao ngàn năm. Chúa Giêsu mạc khải cho họ và nhân loại biết về Nước Thiên Chúa này. Khoảng cách giữa vị tiến sỹ và dân Do Thái rất gần với Nước Thiên Chúa đó, bởi vì Nước Đó chính là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà họ đang đối đáp và tiếp xúc. Điều này cũng cắt nghĩa ý nghĩa và bổn phận thờ phượng Thiên Chúa duy nhất trong giới răn thứ nhất mà người Do Thái ôm ấp, nghiền ngẫm và học hỏi trong suốt cuộc đời từ đời nọ qua đòi kia, bởi vì Torah là cả gia sản quí báu Thánh Kinh của họ. Và giờ đây Chúa Giêsu muốn trực tiếp cho họ biết Nuớc Thiên Chúa đang hiện hữu giữa họ khi thi hành giới răn yêu mến Ngài. Nhưng yêu mến cách nào để có thể hòa tan trong sự hiện hữu ấy, điều mà những tạo vật giới hạn như con người được tham dự vào?
Chúng ta lại phải nhờ vào Lời mạc khải của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan: “Hãy yêu như Thầy yêu các con” (Jn 15:12) và yêu như Chúa Giêsu là yêu hết mình, yêu đến độ hiến thân làm hy lễ, đến độ trở nên của ăn của uống tan biến thành sự sống. yêu như Chúa yêu sẽ giúp con người hòa tan trong bản tính Thiên Chúa là tình yêu. Giờ đây thiết tưởng tôi cũng như mọi người hiểu được tại sao những tạo vật như chúng ta lại có thể yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức, cho dù những cách thức diễn tả tình yêu có khiếm khuyết, máy móc và không hoàn hảo như đọc kinh, rước sách hay cầu nguyện, vv. . . Ở một khía cạnh hoặc góc độ khác của tình yêu, chính bản tính nhân loại của Chúa Giêsu đã hoàn hảo việc thờ phượng của chúng ta để diễn tả tình yêu ấy trong hy lễ hiến dâng của Người rồi.
Chúng ta hãy tôn thờ và tri ân tình yêu Chúa mỗi khi muốn nói lên chữ yêu Chúa trong trái tim mình. Những bất toàn trong việc diễn tả tình yêu của chúng ta với Chúa đã được Chúa Giêsu bù lấp. Từ đây, điều còn lại và cũng là tất cả con đường đức tin vào tình yêu Chúa của chúng ta, chính là cảm nghiệm được tình yêu Chúa trong sự hiện hữu của chính mình.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN NĂM B
CHÂN THÀNH VÀ GIẢ TẠO
Lại một khía cạnh khác của tình yêu: Tình yêu thật thì cho đi hết; còn tình yêu giả thì luôn lợi dụng, lừa dối và chiếm đoạt. Hai khía cạnh này nổi bật trong hình ảnh người Pharisiêu lộng lẫy nhung lụa và bà góa đơn sơ nghèo nàn trước sự quan sát và cái nhìn của Chúa Giêsu.
Tài tình và tinh tế quá! Người ta thường bị đánh lừa trước những vẻ hào nhoáng bên ngoài, nhất là trong tình yêu. Không nói đến tương quan tình yêu đôi lứa hoặc vợ chồng, mà trước bất cứ tương quan nào giữa cuộc sống nhân loại, cái nhìn và đánh giá đầu tiên luôn bị lệ thuộc vào vẻ bề ngoài của sự vật cũng như con người. Lâu dần, khi vẻ bên ngoài bị khám phá, bị lột trần, người ta mới thấy được thực chất bên trong. Và trong tình yêu, nếu chỉ dựa trên vẻ bề ngoài, thì trước sau cũng sẽ bị lừa, bị chiếm đoạt và bị lợi dụng. Những người Biệt Phái bề ngoài sạch sẽ, sang trọng trong áo quần, lịch thiệp trong lời nói, trịnh trọng trong dáng vẻ, vì lúc nào họ cũng tỏ ra mình là bậc thầy thiên hạ. Chỉ có Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Thầy duy nhất và thực sự, mới thấy được thực chất xấu xa của những con người giả hình qua bóng dáng và nhãn hiệu bên ngoài của họ: Họ giả bộ đọc kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà góa. Nếu thực như vậy thì bỉ ổi và ghê tởm qúa!
Rồi khi nhìn một bà góa bỏ tiền vào thùng trong đền thờ, Chúa Giêsu nhận ra ngay tính cách chân thành và trung thực của tình yêu: những người bỏ nhiều tiền hơn bà góa nghèo, nhưng là tiền dư; còn bà này bỏ ít, nhưng là cho đi tất cả những gì bà có để nuôi thân. Qủa thực, nhận xét tinh tế của Chúa Giêsu về tính trung thực của tình yêu rất đáng khâm phục và đón nhận. Một đàng nó dạy ta khi yêu là phải cho đi hết mình. Bà góa yêu Đền Thờ, và qua Đền Thờ là yêu chính Thiên Chúa ngự ở đó, nên đã cho đi hết những gì mình có, cho dù nhỏ bé về vật chất, nhưng lại vĩ đại trong tấm lòng và trong tình yêu. Đàng khác, nó cảnh cáo ta đừng bắt chước sự giả tạo của những người Biệt Phái qua cách sống và cư xử của họ: họ dùng vẻ hào nhoáng bên ngoài để lừa đảo và chiếm đoạt tình yêu hay của cải của những người nhẹ dạ, yếu đuối, đơn sơ chân thành và chưa kịp hiểu biết, ngay cả những người góa bụa đáng thương cũng không tha. Bức tranh vẽ người biệt phái giả hình và bà góa nghèo chân thành của Chúa Giêsu sẽ mãi mãi ghi trong tim chúng ta. Nét tài tình và tinh tế của nó vừa đẹp trong luật tình yêu, lại vừa là chân lý cuộc sống dẫn ta đến hạnh phúc thiên thu vĩnh hằng.
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và tất cả chúng ta cách đánh giá con người chân thành hay giả tạo chẳng những qua cách thức họ cho đi, nhưng còn qua chính con người của họ, nghĩa là nhìn từ trong tâm hồn. Người đi ngược lại với cách đánh giá của con người, để mạc khải về chính mình Người qua người đàn bà nghèo khó. Chúng ta biết rằng, chỉ còn vài tuần nữa là Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn cứu chuộc nhân loại. Người đồng hóa mình với người đàn bà nghèo khó khi cho đi tất cả sự sống của Người, nghĩa là tặng cho nhân loại tất cả, không giữ lại gì, dù là một giọt máu sau cùng trong trái tim mình. Giờ đây khi suy gẫm về cách thức cho đi của bà góa, chúng ta chẳng những biết cách tặng ban cho tha nhân khi học nơi bà sự chân thành, nhưng cũng khám phá ra tình yêu bao la vô bờ bến của Chúa Giêsu qua cuộc thương khó của Người: Người trở nên nghèo khó nhất trên thập giá, để chúng ta trở thành giàu có trong Nước Thiên Chúa.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN NĂM B
CÓ GÌ VUI!
Tin Mừng Chúa Nhật 33 Thường Niên luôn nhắc đến cảnh Ngày Tận Thế. Qua tường thuật ấy, người ta tự hỏi Có Gì Vui trong Ngày Tận Thế? Nội dung của ngày ấy được chia ra ba gia đoạn: Giai đoạn báo trước qua cảnh khốn cực của nhân loại, rồi đến cảnh vũ trụ bị tiêu hủy. Giai đoạn thứ hai là cảnh Con Người, tức Vua Giêsu Kitô ngự đến trong quyền uy và vinh quang cùng với muôn vàn thiên binh trên trời. Và cảnh thứ ba là cảnh phán xét của Thiên Chúa trên nhân loại qua việc họ được phân rẽ thành hai phía tốt và xấu. Kết cục của cảnh phán xét là những người tốt được hưởng vinh quang với Chúa; còn những kẻ xấu thì bị đày ải xa cách Thiên Chúa muôn trùng! Nếu phải trả lời câu hỏi Có Gì Vui trong Ngày Tận Thế, người ta sẽ không thể tìm ra giải đáp chung, mà đúng hơn mỗi cá nhân sẽ tự tìm lấy câu trả lời cho chính mình.
Trên quan điểm vật chất kinh tế, thì Ngày Tận Thế là một sự mất mát thiệt hại to lớn của vũ trụ và con người. Sự biến mất của những tinh tú và các hành tinh ngay trong thái dương hệ cũng kèm theo sự tiêu diệt nhân loại, vì mất ánh sáng, không khí và thực phẩm, sự sống vật chất sẽ hết tồn tại. Người ta đã dùng trí tưởng tượng để làm những phim ảnh phản ảnh Ngày Tận Thế để thưởng thức. Sự thưởng thức những hành động mạnh và hồi hộp ấy sẽ chỉ nhất thời, để giúp nhân loại quên đi trong chốc lát sau kết cục của phim ảnh, rằng Ngày đó sẽ còn lâu lắm, hoặc đây chỉ là ảo tưởng hoặc chỉ là sự tiên đoán rất mơ hồ! Tuy nhiên, đối với những ai tin vào Thiên Chúa và tin lời Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, thì Ngày Tận Thế luôn rất gần với thân phận mình. Đúng hơn, ngày đó đang đến với từng cá nhân sau mỗi khoảnh khắc thời gian qua đi,xuất hiện những biến dạng của thân xác, và chứng kiến cảnh ra đi vĩnh viễn của những người người thân yêu cũng như hàng xóm láng diềng!
Nhìn dưới khía cạnh tiêu hủy của vũ trụ, có thể không mấy vui, nhưng nếu nhìn bằng niềm tin vào Thiên Chúa, ta có thể nói Ngày Tận Thế sẽ rất vui cho mỗi cá nhân con người, vì là ngày họ được gặp lại chính thân mình đích thực, ngày họ được tái sinh trong hình ảnh của Thiên Chúa tạo dựng và được hưởng niềm hoan lạc vô tận trong Nhà Cha mình. Chúa Giêsu quyền năng và vinh qiang cùng với muôn vàn thiên thần đến đón họ về Nhà Cha sẽ là cảnh hạnh phúc nhất của nhân loại. Ngày Tận Thế chắc chắn sẽ không vui đối với những cá nhân bất hạnh, vì đã chọn cuộc sống xa Chúa trên dương thế. Như thế, đau khổ và vui mừng sẽ là giải đáp dành cho mỗi cá nhân do những chọn lựa sống của họ. Chúa Giêsu nhắc bảo con người: Nếu muốn có niềm vui trong Ngày Tận Thế, hãy nhìn vào dấu chỉ Cây Vả, để chuẩn bị mình biết đón tiếp Chúa, và ngày ấy sẽ trở thành ngày đợi mong, ngày hạnh phúc và ngày đoàn tụ. Hãy nhớ rằng, mỗi tư tưởng và hành động xấu xa tội lỗi của ta, đều ảnh hưởng đến số phận đời đời trong ngày đoàn tụ vĩnh viễn của chính mình.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT CHÚA KITÔ VUA
CHÂN LÝ LÀ CÁI GÌ?
Ngày xưa, theo cách hiểu bình thường, một người muốn được làm vua, thường phải thuộc về hoàng tộc. Kẻ được làm vua được gọi là thiên tử, tức con của Trời. Tư cách của vị vua cao sang quyền uy trên cả dân tộc mà ngài thống trị. Ông cầm quyền sinh tử con dân trong tay. Có lẽ sống với quan niệm đó, nên quan Philatô đã ngạc nhiên thắc mắc và hỏi Chúa Giêsu: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Câu trả lời của Chúa Giêsu càng làm cho Philatô ngạc nhiên khó hiểu đến thất vọng: Đúng tôi là vua. Nhưng tôi sinh ra là để làm chứng về Chân Lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi... Với trọng trách làm chứng về chân lý, nên Nước của Chúa Giêsu không thuộc về thế gian này, bởi thế gian không có chân lý, còn quyền của vua thế gian thì đồng nghĩa với bạo lực, nhờ đó ông có thể xây dựng tư cách vua của mình.
Chúa Giêsu đã tuyên bố Ngài đích thực là Vua. Tư cách của Ngài là sinh ra để rao giảng và làm chứng sự thật về Nước Trời. Chân lý của Nước Trời là tình thương và hòa bình vĩnh cửu. Những người thuộc về Nước Trời là đoàn chiên đông vô số kể thuộc mọi quốc gia và mọi dân tộc qua muôn thế hệ. Luật của Vua Giêsu là luật yêu thương: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con. Tư cách và bổn phận của những người thuộc về Chân Lý là rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cùng với sự phục sinh và lên trời của Đức Vua Giêsu. Xem ra cuộc sống và sinh hoạt của người dân Nước Vua Giêsu khác xa với đời sống trần gian của những vị vua trần thế. Đối với Philatô, tất cả những điều đó đều là bí mật, nên ông đã thốt lên: Chân lý là cái gì!
Mừng Lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta học được nhiều điều quan trọng trong khung cảnh cuộc đối thoại giữa Ngài với Philatô: Chỉ làm chứng về tư cách của mình khi nào cần tuyệt đối mà thôi, giống như Vua Giêsu không khoe khoang, hoặc bày tỏ quyền uy khi không cần thiết. Cùng với Vua Giêsu, những ai theo Ngài cũng phải sinh ra để làm chứng cho chân lý tình thương như trái tim nhân ái bao la của Ngài luôn rộng mở. Chứng nhân này đòi hỏi sự kiên nhẫn, can đảm, đầy nghị lực và hy sinh đến quên cả mạng sống mình. Và nếu ai tự coi mình thuộc về Nước của Vua Giêsu, người đó tuyệt đối phải chấp nhận vác thập giá và sẵn sàng chịu đóng đinh vào đó, mới có thể giơ cao cờ chiến thắng vinh quang phục sinh mà Vua Giêsu đã dẫn đầu. Có thể nói thập giá là sự khai mở cho những cuộc đời mới trong Nước Trời; và vinh dự của thập giá chính là chân lý sau cùng của tình thương mà Vua Giêsu đã làm chứng. Hiểu được điều đó sẽ giúp chúng ta vừa thuộc về, và vừa bước đi trong chân lý sự sống vĩnh cửu.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
Sự khiêm tốn của Thánh Gioan phát xuất từ tâm hồn đạo đức chìm sâu trong suy niệm, ăn chay sám hối và đợi chờ Đấng Cứu Thế. Ngài biết rõ mình chỉ là tạo vật nhỏ bé ẩn dật trong rừng sâu để trở thành dụng cụ loan tin của Chúa, đóng góp vào công cuộc cứu chuộc của Ngài. Chúa đã cho ông được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Ba Ngôi vĩ đại khi Chúa Giêsu đến với ông để chịu phép rửa: Chúa Thánh Thần trong hình bồ câu đậu trên mình Chúa Giêsu, cùng với tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha. Phép rửa của Chúa Giêsu với Gioan Tiền Hô là khởi đầu công cuộc rao giảng của Ngài về Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm này đã không được Thiên Chúa mạc khải trong Cựu Ước, phải chờ đến Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người giáng trần, loài người mới được Ngài dạy cho để họ không bị lầm lạc.
Qủa thật, hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong Phép Rửa tội qúa vĩ đại, nên Gioan Tiền Hô đã phải chuẩn bị cả đời mình trong khiêm tốn, mới xứng đáng được chiêm ngưỡng sự huy hoàng và tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà Gioan được soi sáng gọi là Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian. Với chi tiết này, Phép Rửa được báo hiệu như Bí Tích Thanh Tẩy tội lỗi: Tội tổ tông và tội riêng mỗi cá nhân qua muôn thế hệ. Sự vĩ đại của huyền nhiệm Phép Rửa đã khiến Gioan Tiền hô xác nhận: Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần. Do đó, các yếu tố, Nước, Thánh Thần, và thân phận Đức Kitô đã làm nên mầu nhiệm Phép Rửa.
Suy niệm về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan, chúng ta cũng hỏi lại tính cách nhân chứng của mình trong Bí Tích Rửa tội đã lãnh nhận: Hình ảnh Chúa Ba Ngôi có sáng ngời và trở thành ưu tiên cho mọi hơi thở và mọi hoạt động trong hành trình đức tin và cuộc sống của mình không? Hãy sống khiêm tốn như Gioan Tiền hô, chúng ta sẽ nhận được sức mạnh và ơn Chúa để chu toàn nhiệm vụ rao giảng Chúa Ba Ngôi, là khởi sự và cũng là cùng đích cuộc đời chúng ta.
Lm. Raphel Xuân Nguyên CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐẾN MÀ XEM
Khi lòng đang ấp ủ theo đuổi một lý tưởng, bỗng dưng gặp được người giúp đỡ hay giới thiệu để đạt được lý tưởng đó, lập tức ta sẽ lao về phía trước để biến giấc mơ thành hiện thực, cho dù phải đánh đổi cả cuộc đời. Trường hợp này qúa đúng với hai môn đệ của Gioan Tiên Hô, vừa thoáng nghe ông giới thiệu: Đây là Chiên Thiên Chúa, cả hai ông đã vội bỏ lại Thầy Gioan để theo Đức Giêsu, Chiên Thiên Chúa. Nhưng để ăn chắc đúng với sự thật, hai ông đã đến và xem nơi Chúa Giêsu ở để có thể định Ngài là ai, bởi việc theo Chúa Giêsu là việc đánh đổi cả cuộc đời.
Chúa Giêsu qủa thực hết sức tâm lý khi nói: Hãy đến mà xem. Ngài không ép buộc hai môn đệ đầu tiên ấy, nhưng cho họ hoàn toàn tự do khi gợi trực tiếp vào sự tò mò và niềm khát khao đi tìm Đấng Messiah của Thiên Chúa. Nét tâm lý mời gọi ấy đã chinh phục hai môn đệ lúc khởi đầu, nhưng điều quan trọng nhất để họ theo Chúa là nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messiah Con Thiên Chúa. Thánh Gioan không nói rõ Chúa Giêsu đã tỏ ra hay làm gì để họ nhận ra tước vị Messiah, nhưng ta có thể hiểu việc gặp gỡ Thiên Chúa của các ông phải là dịp vô cùng vinh dự, hấp dẫn và đạt trọn vẹn ước mơ bấy lâu của mình. Đấng Messiah trong quan niệm Thánh Kinh là Đấng đầy tình thương, nhân ái, hiền hòa, hy sinh và quyền năng vô biên. Tiên tri Isaia tả Người là thái tử an bình; Ngài không dập tắt ngọn đèn leo lét hay bẻ gẫy cây sậy dập nát; Ngài chịu đựng và hiến mạng đền tội như con chiên hiền lành bị đem đi giết . . . Tình yêu vô biên của Chúa Giêsu, Đấng Messiah chắc chắn đã chinh phục các môn đệ tiên khởi một cách mãnh liệt. Họ gặp Ch1ua Giêsu, rồi lại tiếp tục giới thiệu Người cho các bạn mình. Tất cả đều từ bỏ hết để bước vào hành trình lý tưởng mới trong cuộc đời: Từ những kẻ đánh cá đã trở nên những tay thợ lưới người.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Đến mà xem qủa có một sức mạnh phi thường, nhưng để lời mời ấy được trọn vẹn, các môn đệ cần phải đáp lại tiếng gọi mời của Chúa. Cuộc sống và thực tại cuộc đới theo Chúa của các ông đã chứng mình điều đó: Tất cả đã dần dần hiểu sức mênh Messiah của Chúa Giêsu, để rồi đã cùng tiếp tay loan truyền sứ mệnh ấy. Họ đã buớc đi trên cùng hành trình ơn cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. Nghĩ về việc mau mắn đáp lại tiếng Chúa kêu mời của các môn đệ, chúng ta cảm nhận được gì trong ơn kêu gọi Chúa dành cho chúng ta hôm nay? Con Chiên Thiên Chúa vẫn còn đó, nhưng có mấy ai đã thục sự đến mà xem nơi Chúa ở. Và đây cũng là thách đố mà Chúa Giêsu đang đặt trong tâm hồn và cuộc đời của chúng ta đó.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
ƠN GỌI CÁ NHÂN THEO CHÚA
Nhìn quang cảnh các môn đệ đầu tiên theo Chúa trong Phúc âm thánh Gioan hôm nay, người ta nhận ra một điểm rất quan trọng trong việc quyết định ơn kêu gọi theo Chúa của mình: Ơn kêu gọi là vấn đề hết sức riêng tư của mỗi cá nhân và hoàn toàn do mình quyết định khi nhận ra tiếng gọi ấy. Dĩ nhiên khi gọi là "ơn" thì phải được ban tặng từ Đấng kêu gọi, và Đấng ấy là Thiên Chúa. Do đó, ơn kêu gọi nằm trong tương quan cá nhân với Chúa, Đấng kêu gọi ta làm môn đệ Ngài.
Đã gọi là việc riêng tư cá nhân, nên không thể áp dụng cho tất cả mọi người, cho dù có cùng ơn kêu gọi theo Chúa. Hai môn đệ của Gioan nghe ông nói về Chúa Giêsu, đã tự tìm đến với Chúa để quan sát xem Ngài là ai, có thực sự đúng là Đấng Messia các tiên tri đã nói trong Thánh Kinh không. Họ chỉ theo Chúa khi chính họ tự mình nhận ra Ngài là Chúa, tuy việc giới thiệu của Gioan cũng rất quan trọng. Họ đã nghe lời Chúa Giêsu mời đến mà xem Người là ai và đang làm gì. Việc họ thấy đã giúp họ nhận ra để theo Người. Có thể nói tình yêu từ trái tim họ dành cho Chúa Giêsu hết sức cá nhân và chân thành của người môn đệ. Đến trường của Simon theo Chúa do em mình là Anđrê giới thiệu cũng thật sự riêng tư cá nhân. Việc giới thiệu là môi trường thuận tiện như một dấu chỉ, nhưng tình yêu Chúa dành cho Simon khi đặt tên ông là Phêrô cho thấy ơn kêu gọi của ông thật đặc biệt. Phêrô nhận ra tình yêu ấy nên chính mình đã trả lời gắn bó cuộc đời theo Chúa khi bỏ lại sau lưng gia đình và nghề nghiệp đánh cá.
Như thế, khi muốn tìm hiểu ơn gọi theo Chúa, trước hết hãy quan sát các hoàn cảnh của ơn gọi qua các dấu chỉ đời mình. Những dấu chỉ chính là hồng ân Chúa ban tặng riêng cho mình và rất khác với tha nhân. Khi chấp nhận trả lời theo Chúa là chấp nhận để Chúa hành động trong ơn kêu gọi Ngài ban. Con người luôn có tự do: "Hãy đến mà xem" để tự mình quyết định. Nhưng khi đã theo rồi, thì buộc phải thuận theo ý Chúa hơn là ý mình. Các môn đệ bỏ lại tất cả để theo Chúa là minh chứng cho tình yêu phó thác hoàn toàn họ dành cho Người. Ơn gọi theo Chúa là cuộc phiêu lưu đời sống cá nhân cho một định mệnh tương lai hoàn toàn nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Đó là một tình yêu tuyệt đối cá nhân hiến tặng cho Đấng mình yêu thương. Một khi ơn gọi cá nhân trờ thành tình yêu tuyệt đối, nó sẽ đi vào quỹ đạo của bất cứ thứ tình yêu song phương nào nơi trái tim con người dành cho nhau cũng như nơi trái tim con người dành cho Thiên Chúa. Đó là quỹ đạo của tự hiến, cho đi và hạnh phúc.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TIN VÀO TIN MỪNG
Sau khi chịu phép rửa của Gioan trên sông Giođan, Chúa Giêsu bước ngay vào sứ điệp rao giảng Tin Mừng tình thương của Ngài để cứu nhân loại khỏi tội và sự chết: Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm. Kèm theo lời kêu gọi khẩn cấp này là việc thiết lập Giáo Hội của Chúa qua hình thức Nhóm Mười Hai. Những người theo Chúa đầu tiên xuất hiện trong Phúc Âm hôm nay là Simon (Phêrô), Anđrê, Giacôbê và Gioan (tông đồ). Tất cả đều trả lời Chúa một cách rất nhanh chóng và dứt khoát: Họ bỏ mọi sự, kể cả cha già đề theo Ngài. Có gì liên quan giữa sứ điệp thời giờ đã mãn, Nước Chúa gần đến ... và việc theo Chúa Giêsu của các tông đồ?
Nhìn lại bối cảnh lúc đó, chúng ta nhận ra một vài sự kiện quan trọng đóng góp vào việc theo Chúa của các tông đồ. Trước hết là hình ảnh Gioan Tiền Hô loan báo Đấng Cứu Thế đã thu hút rất nhiều người đến với ông. Sự mong mỏi Đấng Cứu Thế, cho dù dưới quan điểm nhân loại pha lẫn chính trị trong hoàn cảnh lịch sử người Do Thái bị Roma thống trị lúc đó, vẫn vang lên trong mỗi trái tim linh hồn đang cần được giải phóng. Thứ đến, ít nhất hai trong bốn người đó đã là môn đệ Gioan, hoặc có tương quan trực tiếp liên hệ đến, đó là Anđrê và Simon; các ông chẳng những nghe lời thầy Gioan đi theo Chúa, mà còn giới thiệu các bạn khác nữa. Điều đó cho thấy việc mong mỏi Đấng Cứu Thế của các ông hết sức mãnh liệt. Sau cùng, yếu tố thúc đẩy các tông đồ bỏ mọi sự để theo Chúa chính là con người và tư cách Đấng Cứu Thế (tức Messiah) của Chúa Giêsu. Ở nơi Ngài có gì đó quyến rũ và hấp dẫn quá, cả trong lời nói lẫn việc làm, nhất là thiên tính của Ngài đã thu hút các ông như tạo vật đến gần Đấng Tạo Hóa. Chính Anđrê đã tuyên bố: Chúng tôi đã gặp được Đấng Kitô! (Jn 1:41) Trong khung cảnh Bài Phúc âm này, chúng ta nhận thấy sứ điệp của Chúa Giêsu như gói ghém tất cả con đường cứu độ nhân loại của Ngài. Con đường ấy là con đường dẫn về Nước Chúa; nhưng muốn đạt được thì cần phải từ bỏ tội lỗi và tin vào giáo huấn và sứ điệp mà Chúa rao truyền.
Dù ảnh hưởng cách này hay cách khác, hoặc đã được Chúa Giêsu thương yêu gọi cách riêng, các tông đồ tiên khởi đã nhận ra con đường chính trực của mình. Họ bỏ tất cả để theo Chúa. Họ đã chứng minh cho chúng ta đức tin mạnh mẽ và tình mến sắt son vào Đấng Cứu Thế. Gương sáng ấy nhắc lại cho chúng ta lời kêu mời của Chúa Giêsu: Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy tin vào Tin Mừng. Chúng ta nghĩ sao về lời kêu gọi và sứ điệp của Chúa Giêsu?
Lm. Raphael Xuân Nguyên
THEO CHÚA
Có thể nói, ai sống trên đời cũng chọn cho mình một lý tưởng cuộc sống. Việc hướng dẫn và hun đúc lý tưởng khởi sự có thể do tha nhân, chính mình hoặc các hoàn cảnh cuộc đời mang lại. Có nhiều người tự nhiên chọn lý tưởng hay nghề nghiệp theo khuynh hướng có sẵn trong gia đình, khi họ thấy cha mẹ hay anh chị em sống như vậy; cũng có những người đạt đến lý tưởng hay sự nghiệp qua tháng năm miệt mài đèn sách; lại có những người bôn ba lăn lộn trong đời, để sau cùng nhờ vào chính những kinh nghiệm khổ đau của mình đạt đến lý tưởng ước mơ; nhưng cũng có những người học trực tiếp với thầy mình, gọi là sư phụ, để tìm ra ý nghĩa cho đời mình. Họ giống những môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu hay các đồ đệ của các triết gia trước hay cùng thời với Ngài, vv... Dĩ nhiên các lý tưởng cuộc sống đều khác nhau nơi mỗi cá nhân, nhưng có cùng điểm chung là những nỗ lực vất vả tiêu hao trong đời để đạt đến lý tưởng hay sự nghiệp.
Nhìn cách trả lời theo Chúa của các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, người ta có thể nghĩ các ngài không cần phải phấn đấu nhiều mấy, vì Phúc âm không mô tả thời gian tìm hiểu của các ngài về Chúa Giêsu. Tuy nhiên khi nghe lời Chúa Giêsu mời gọi Hãy đến mà xem, đã chứng tỏ sự đắn đo của các môn đệ trước khi trả lời theo Chúa. Sở dĩ, các môn đệ nhận ra ơn gọi theo Chúa Giêsu mau mắn, là vì lịch sử chờ mong Đấng Cứu Thế, tức Messia, hàng ngàn năm nơi dân Do thái đã chín mùi trong lòng các ngài. Khi đến quan sát Chúa Giêsu và các việc Ngài làm, các môn đệ nhận ra Ngài là Đấng Messia các tiên tri loan báo, nên các nỗ lực phấn đấu cá nhân như từ bỏ gia đình và nghề nghiệp riêng tư để theo Chúa có phần dễ dàng hơn. Điều chúng ta học được nơi các môn đệ trước hết là tâm hồn sẵn sàng tìm Chúa và phó thác cuộc sống cho Ngài. Theo ai là gắn bó và phó thác cuộc sống nơi người ấy. Những người yêu nhau chân thành đều làm như vậy.
Thêm vào đó, lý tưởng nào ở trần gian rồi cũng mai một và trả lại thế giới này trong nấm tro tàn cuộc đời. Người ta vất vả cả đời cho những điều qua mau vì họ chọn là lý tưởng và sự nghiệp. Nhưng các môn đệ chọn theo Chúa vì các ngài nhìn thấy Ngài là Đấng Cứu Thế và Nước của Ngài sẽ vô cùng tận. Đời theo Chúa của các môn đệ xem ra không mấy huy hoàng trước loài người, nhưng lại vinh quang thiên thu trước thiên nhan Chúa. Trả lời theo Chúa là một ơn gọi Chúa ban, nhưng đòi hỏi nơi con người nỗ lực phấn đấu và cộng tác không ngừng trên hành trình đức tin vào lý tưởng, bởi theo Chúa là từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo Ngài suốt đời! vì ta tin Ngài là tất cả hạnh phúc cho ta.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN NĂM B
KIÊN NHẪN CẬY TRÔNG
Để củng cố các môn đệ tiên khởi tin vào giáo lý tình yêu, tin vào con đường cứu rỗi, tin vào Nước Trời và tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu bắt đầu ngay với việc tiêu diệt quỷ dữ và tà thần. Thánh Marcô trong Phúc hôm nay tường thuật lại việc một người bị thần ô uế ám ảnh được Chúa Giêsu chữa lành. Phép lạ đó diễn ra ở trong hội đường Capharnaum của người Do Thái, nơi có nhiều người đang tụ họp để nghe giảng. Điều gì đã xẩy ra sau đó?
Trước hết có thể nói, việc có khả năng làm phép lạ là một chuyện rất phi thường đối với con người nói chung, và đối với những người Do Thái lúc đó nói riêng. Suốt dọc các tường trình của bốn Phúc âm, chúng ta nhận thấy có nhiều người bị ma quỷ ám hại sống lang thang đó đây, nhất là ở các nghĩa địa vắng người qua lại. Anh chàng bị thần ô uế ám ảnh này có lẽ là một trong số những người ấy, nhưng may mắn vẫn còn cơ hội lảng vảng trong hội đường để nghe giảng hoặc ăn xin. Có lẽ không ai có khả năng chữa lành những người bị ma quỷ ám hại từ trước tới nay, nên việc Chúa Giêsu chữa lành đã làm cho dân chúng kinh ngạc cả trên phương diện giáo lý và quyền năng của Ngài. Thánh Marcô đã ghi lại: Việc này làm danh tiếng của Chúa Giêsu đồn ra khắp nơi và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa. Lập tức có nhiều người tin theo Ngài.
Nhưng sự kiện ấy ngay từ đầu có thể đã làm giảm dần uy tín và sự tin tưởng của dân chúng trên những người Pharisiêu, vì họ không thể thực hiện được những điều Chúa Giêsu đã làm; do đó sau này mỗi lần chữa một người vào ngày lễ nghỉ, Ngài đều bị họ vặn vẹo bẻ méo sự thật, đến nỗi có lần đã gán cho Ngài lấy quyền tướng quỷ Ben-de-bút để trừ các quỷ con. Tệ hơn nữa Ngài còn bị coi là người không đến từ Thiên Chúa và với lý do đó họ đã kết án Ngài lộng ngôn phạm thượng trong bản án tử hình thập giá trước mặt quan Philatô.
Con đường của Chúa Giêsu là đến trần gian để cứu độ chúng sinh, Ngài cứ đi và đi hết tận con đường tình bằng việc giảng dạy Tin Mừng, chữa lành và cuộc khổ nạn chết treo thập hình. Ngài chiến đấu cho Nước Trời, nên lũ quỷ dữ chắc chắn phải tìm mọi cách để tấn công Ngài. Chúng không làm gì được Ngài thì quay sang dùng loài người như chúng một lần đã thành công với Adam và Eva. Những ai theo Chúa và tin tưởng nơi Ngài phải luôn bền vững và vui mừng, vì Chúa đã chiến thắng quỷ dữ, tội lỗi và tử thần. Với lòng kiên nhẫn cậy trông, chúng ta sẽ được Chúa cứu độ như Ngài đã cứu chữa người bị thần ô uế ám ảnh.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
NGHE VÀ GIẢNG LỜI CHÚA
Lời Chúa Giêsu là Lời đầy quyền năng, khác xa với những lời dạy phát ra từ miệng con người. Những người Do Thái nghe Chúa Giêsu dạy trong hội đường đã nói như vậy. Lời quyền năng của Chúa chẳng những khiến họ khâm phục và biến đổi, mà còn bắt ma quỷ phải cúi lạy vâng theo qua việc Người trục xuất quỷ khỏi kẻ quỷ ám. Quyền năng của Chúa Giêsu là quyền năng của Thiên Chúa. Nhờ chứng kiến của những kẻ nghe lời Chúa trong Phúc âm hôm nay, người ta có thể liên tưởng đến hai vấn đề rất thiết thực trong đời sống đạo: Thái độ lắng nghe lời Chúa và việc rao giảng lời của Người.
Về thái độ lắng nghe lời Chúa, Chúa Giêsu đã chỉ rõ trong dụ ngôn người gieo giống. Những kẻ nghe lời Người có thể so sánh với hạt giống rơi trên vệ đường, rơi trên đá sỏi, rơi vào bụi gai và rơi nhằm đất tốt. Dĩ nhiên ai cũng muốn chọn thái độ lời Chúa rơi vào đất tốt trong lòng mình. Tuy nhiên trước hết phải biết bỡ ngỡ trước lời Chúa để có thể phân biệt với lời nhân loại. Lời Chúa vì quyền năng, nên luôn luôn biến đổi. Lời Chúa rất ngọt ngào nhưng cũng hết sức sắc bén, nên có thể làm tim loài người rỉ máu trước những thói quen xấu hay tội lỗi quyện vương trong lòng. Lắng nghe lời Chúa để phân biệt lối đi chân lý cho cuộc đời mình. Phân biệt đòi buộc chọn lựa và từ bỏ. Từ bỏ nào cũng day dứt và rỉ máu trong tim để lời Chúa có thể mọc lên trong đất lòng mình. Ngược lại lời nhân loại chỉ phảng phất ngoài da và thoảng qua như gió.
Đến việc rao giảng lời Chúa sẽ gay gắt hơn trong cuộc sống chứng nhân. Trước hết cần phản ảnh được quyền năng trong Lời của Người. Kẻ rao giảng lời Chúa phải xác tín Lời Người chứ không không phải lời mình. Lời Chúa biến đổi người nghe và giúp họ tôn thờ, yêu mến và khâm phục Người. Nếu kẻ rao giảng Lời Chúa tìm vinh danh cho mình trong việc rao giảng, thì sẽ trở thành những kẻ ăn cắp lời Chúa để tô điểm cho mình. Lời họ rao giảng sẽ trở thành lời tiêu diệt vì bị quỷ dữ lợi dụng phá huỷ nước trời trong lòng người nghe. Kẻ rao giảng lời Chúa luôn nhớ mình chỉ là dụng cụ, giống như người đi gieo giống. Họ mang trên mình sứ điệp chứng nhân của Lời Chúa, nên cuộc đời họ và lời rao giảng cần phải phù hợp ở mức độ tương đối để quyền năng của Chúa có thể biến đổi lời Người từ miệng họ rao giảng. Và vì mang tính cách chứng nhân, nên sự kết hiệp giữa họ và Chúa luôn phải thân tình để mang sức sống thần linh của Người trên mình lưu chuyển đến lòng người nghe. Như thế, cả thái độ lắng nghe và việc rao giảng lời Chúa sẽ nhận được Lời quyền năng biến đổi. Nếu không, lời Chúa sẽ không rơi trên đất tốt, mà chỉ rơi vào quên lãng hư vô.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN KẾT HIỆP
Ngay sau khi chữa lành anh chàng bị thần ô uế trong hôi đường Capharnaum, Chúa Giêsu tiếp tục một chuỗi những phép lạ khác bằng quyền năng Thiên Chúa nơi Ngài: Chữa bà nhạc ông Simon Phêrô khỏi bệnh trước mặt các môn đệ, chữa nhiều bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ ra nhiều người do dân chúng nghe tiếng đồn đem đến. Việc làm của Chúa Giêsu vừa củng cố đức tin, vừa rao truyền và ban ơn cứu rỗi cho nhân loại. Trong Bài Phúc âm này, có một chi tiết khác hết sức quan trọng nối kết Chúa Giêsu với việc làm các phép lạ: Đó là tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha trong việc cầu nguyện. Thánh Marcô ghi lại: Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Gương sống của Chúa Giêsu thật hết sức tuyệt vời cho đời sống tinh thần, đức tin và tình yêu đối với Thiên Chúa.
Đúng vậy, hãy thử tưởng tượng sau một vài ngày làm việc liên tục và vất vả tiếp xúc dân chúng, chữa lành vô số bệnh nhân cũng như xua trừ ma quỷ, chắc chắn con người Đức Giêsu đã thấm mệt rã rời. Để lấy lại sức mạnh tinh thần, Ngài đã vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện với Thiên Chúa, Cha Ngài. Sự thanh vắng là môi trường tốt nhất để tinh thần thư giãn nghỉ ngơi. Tốt hơn nữa là sự nghỉ ngơi ấy được đặt trong tương quan tình yêu thân tình Cha và Con, tức trong tương quan tình yêu với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dùng phương thức sống đời sống tinh thần này để có đủ sức mạnh đi hết hành trình cứu độ nhân loại của Ngài.
Thứ đến nhờ vào đời sống tinh thần kết hiệp trong tình yêu với Thiên Chúa, sự tin tưởng nơi con người vào Thiên Chúa càng ngày sẽ càng lớn mạnh. Chắc chắn Chúa Giêsu không cần đến đức tin này, bởi chính Ngài là Thiên Chúa, nhưng gương mẫu sống đời sống tinh thần cầu nguyện sẽ giúp các môn đệ và những ai đang theo Chúa tin tưởng cậy trông nhiều hơn vào Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Giêsu luôn tâm sự cũng như kín múc nguồn sức mạnh từ quyền năng Thiên Chúa để chữa lành và tiêu diệt ma quỷ. Có thể nói đời sống cầu nguyện và kết hiệp với Thiên Chúa sẽ củng cố đức tin con người đến độ không gì có thể lay chuyển được.
Sau cùng gương sống kết hiệp với Thiên Chúa qua việc cầu nguyện trong thinh lặng của Chúa Giêsu sẽ giúp các môn đệ và con người yêu mến Thiên Chúa hơn. Kết hiệp với Thiên Chúa trong suy niệm và cầu nguyện là sự kết hiệp tuyệt với nhất của tình yêu, bởi vì chỉ nhờ phương cách này mà tinh thần nhân loại mới có thể hòa nhập trọn vẹn trong Tinh Thần của Thiên Chúa. Cầu nguyện vừa mang tính kết hiệp lại vừa mang đến sự giải thoát và ơn cứu độ từ Thiên Chúa. Chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu và sẽ hiểu được mục đích cuộc sống của mình là gì.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CẦU NGUYỆN VÀ TỪ BỎ
Bài Phúc âm hôm nay giới thiệu hai cách sống chứng nhân Tin Mừng mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người thực hiện: Phải năng cầu nguyện và xa tránh những hư danh trần thế trong việc rao giảng Tin Mừng. Hai cách sống ấy được tường thuật như sau: Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: Mọi người đều đi tìm Thầy. Nhưng Người đáp: Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa. Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ. Hai cách sống ấy chắc chắn làm các môn đệ và những ai theo Chúa phải ngạc nhiên và phấn đấu không ngừng.
Đúng vậy, việc cầu nguyện đối với Chúa Giêsu chính là lẽ sống của Người. Ngay từ sáng sớm tinh sương lúc mọi người còn say giấc điệp, thì Chúa đã đi cầu nguyện tâm sự và kết hiệp với Cha Người. Sự sống của Người và Chúa Cha cũng là một và được thông chuyển sang nhau bằng hơi thở linh thiêng cầu nguyện. Đọc Phúc âm, người ta thấy Chúa Giêsu cầu nguyện hầu như mọi lúc và mọi nơi. Ngay trong việc chữa lành và xua trừ ma quỷ, Người cũng kết hiệp với Chúa Cha để sự sống và quyền năng Thiên Chúa được thể hiện. Vì thế muốn theo Chúa rao giảng Tin Mừng, đời sống cầu nguyện sẽ trở nên ưu tiên then chốt: Cầu nguyện chính là lẽ sống để có thể nhận được sự sống và sức mạnh của Chúa trong lời mình rao giảng, nhất là trong những việc mình làm, vì cầu nguyện làm cho ta trở nên người đích thực trước mặt Thiên Chúa.
Thứ đến, Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ từ bỏ những danh vọng hão huyền thế gian ban tặng. Có lần Người từ chối dân chúng tôn Người làm vua sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Hôm nay, có lẽ dân chúng tìm Người vừa để xin Người tiếp tục chữa lành bệnh nhân, và vừa ca tụng cám ơn Người. Chúa Giêsu liền dạy các môn đệ bỏ nơi đó để đi sang các thành khác rao giảng, vì Lời Người cần được lan tỏa khắp nơi, nhất là đến những nơi chưa nhận biết Người. Các môn đệ dần dần thấm nhuần giáo lý của Chúa, để sau cùng có thể học được bài học từ bỏ Người dạy: ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta... Quả thực có từ bỏ được chính mình, mới có thể công bố Tin Mừng của Chúa và vì Chúa; bởi trong thực tế, các cám dỗ về danh vọng cũng như tiền bạc sẽ rất ngọt ngào, mạnh mẽ và chiếm đoạt, khiến kẻ rao giảng Tin Mừng bị sống trong ảo tưởng: Tưởng mình rao giảng lời Chúa, trong khi họ chỉ rao giảng lời của mình, vì mình và cho mình. Do đó, các môn đệ và những người theo Chúa rất cần sống đời cầu nguyện liên lỉ và từ bỏ chính mình hằng ngày như Chúa dạy, mới có thể xứng đáng theo Người loan báo Tin Mừng!
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TIN YÊU VÀ BIẾT ƠN
Mở đầu Phúc Âm, Thánh Marcô đã tường thuật tới tấp những phép lạ Chúa Giêsu làm. Ngài cũng tinh tế nhận ra động lực của các phép lạ ấy: Đó là lòng nhân từ yêu thương của Chúa Giêsu đối với con người nói chung, nhất là đối với các bệnh nhân và tội nhân nói riêng. Bên cạnh đó là lòng tin tưởng cậy trông và van xin của những người này vào quyền năng và tình thương của Chúa. Thánh Marcô đã viết ra bài học thần học về ân sủng cứu độ: Đó là tình thương của Chúa và sự cộng tác của con người để ơn cứu độ được thực hiện. Hình ảnh người mắc bệnh cùi van xin Chúa Giêsu chữa lành trong đoạn Phúc âm này là một minh chứng cụ thể.
Người mắc bệnh cùi đến van xin Chúa. Chúa động lòng thương và chữa anh lành sạch bằng ngón tay quyền năng đụng vào anh. Phép lạ dạy chúng ta những chân lý này: Muốn được Chúa cứu chữa bệnh tật, con người phải đến với Chúa và tha thiết kiên nhẫn van xin Người. Thái độ của anh cùi quỳ trước mặt Chúa Giêsu nói lên tất cả tấm lòng khiêm tốn và cậy trông của anh vào tình thương của Chúa, Chúa nỡ nào từ chối một con người xấu số và đau khổ như anh! Thánh Marcô kể lại: Chúa động lòng thương, đưa bàn tay uy quyền lên cao và nói: Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh. Quả thực tình thương của Chúa quá bao dung và nhân từ đối với loài người sầu khổ. Mỗi phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu lại gợi lên những lần động tình thương của Ngài phát xuất từ trái tim của Thiên Chúa, nhưng cũng là trái tim bằng thịt hết sức nhân loại, đầy cảm thông và chia sẻ.
Người mắc bệnh cùi được chữa lành. Anh không cầm nổi sự vui mừng khôn xiết trong lòng, cho dù Chúa Giêsu bảo anh đừng nói với ai, chi cần đi trình diện vị tư tế để được chứng thực mình khỏi bệnh là đủ rồi. Anh vui chẳng những vì khỏi bệnh thể xác, nhưng niềm vui còn lớn lao hơn vì anh được khỏi bệnh tinh thần, thoát khỏi sự cô đơn xa cách thế giới loài người. Từ nay anh sẽ được anh em bà con thân thuộc và xã hội nhận lại anh trong gia đình của họ. Niềm vui vô cùng lớn lao ấy đã khiến anh công bố khắp nơi quyền năng và tình thương của Chúa Giêsu dành cho anh.
Suy nghĩ về hoàn cảnh và cách thức phản ứng của người mắc bệnh cùi trước phép lạ chữa lành anh nhận được từ Chúa Giêsu, chúng ta chắc không khỏi vui lây niềm vui của anh; nhưng có lẽ cũng sẽ tự hỏi mình: Trong đời sống tôi đã nhận được vô số ơn lành và phép lạ hằng ngày, tôi có cảm nghiệm niềm hạnh phúc sung sướng vô biên và có biết công bố những ơn lành của Thiên Chúa cho tha nhân không? Lòng biết ơn của tôi đang đạt đến mức độ nào? Ơn thánh Chúa có còn hữu hiệu trong tôi nữa không?. . .
Lm. Raphael Xuân Nguyên
YÊN BÌNH CỦA TÌNH YÊU
Một văn sĩ nào đó đã nhận định: Lòng ghen tương ganh tị của con người đã phá đổ biết bao ước mơ và dự án to lớn xây dựng hạnh phúc cho đời sống nhân loại. Quả thực chẳng những sự ghen tương ganh tị giết chết các uớc mơ và dự án to lớn, mà còn phá đổ và tiêu diệt ngay cả chút mơ ước hạnh phúc cỏn con còn đọng lại trong tim con người. Chỉ cần một ánh mắt liếc nhìn xỉa xói cũng khiến con tim tha nhân quằn quại xót xa. Chỉ một lời bóng gió khía cạnh cũng đủ kéo mây mù sầu héo phủ kín tâm tư ai đó đang ước mơ hạnh phúc... Nếu nơi một con người bình thường đã có thể cảm nghiệm nhậy bén sâu sắc nỗi sầu trước tình cảm bâng khuâng ghen tương ganh tị, thì trái tim người cùi trong phúc âm hôm nay làm sao có thể thở đều đặn những nhịp đập căng thẳng trước sự khinh khi miệt thị của đám người tàn nhẫn vô lương!
May thay, họ đã được trái tim tình yêu bao la của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế cảm thông đón nhận. Thánh Marcô kể: Chúa động lòng thương, đưa bàn tay uy quyền lên cao và nói: Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh. Tình thương của Chúa Giêsu đã biến đổi hoàn toàn tâm thức khổ sầu của người cùi, khiến anh thấy bừng lên trong tim mình chỉ duy nhất tình cảm biết ơn, an bình, và muốn hét to cho loài người quanh anh chia sẻ niềm vui vô cùng lớn lao mình nhận được. Và anh đã làm như thế, mặc dù Chúa Giêsu cấm không muốn cho anh tiết lộ với ai, ngoại trừ đi trình diện với thầy trưởng tế minh chứng đã được lành bệnh theo luật Maisen. Việc làm của anh một lần nữa khiến Chúa Giêsu, và ngay cả những người được Người chữa lành, trở nên mục tiêu ghen tị của con người. Thánh Marcô kể: ... nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người. Có lẽ lời Chúa Giêsu là lời tình yêu, tha thứ và chữa lành, nên không thể trở thành phương tiện bênh vực hay hòa nhập với những tình cảm ganh tị của con người; nếu vậy sẽ mất đi tính cách hiệu nghiệm của lòng nhân từ bao dung tha thứ.
Ở một góc cạnh nào đó diễn đạt tình yêu qua quyền năng chữa lành người cùi của Chúa Giêsu, người ta có thể tinh tế nhận ra sự đối đầu của Người chỉ với ma quỷ, kẻ thù của nhân loại, chứ tuyệt đối không hề chống lại bất cứ ai, kể cả những kẻ do lòng ghen tương ganh tị muốn làm hại Người và những người được Người chữa lành. Bởi đó, ta hiểu tại sao ngay từ đầu đời rao giảng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. Nước đó là Nước của tình yêu, hạnh phúc. Chỉ đạt đến Nước Trời khi tâm hồn an bình trong tình yêu, thoát khỏi ràng buộc của những tình cảm ghen tương ganh tị. Ta hãy bắt chước người cùi ca ngợi tình thương của Chúa bằng những cảm nghiệm của lòng biết ơn trước bao kỳ công và ơn thánh của Người, để nhờ đó trái tim ta thở được những nhịp đập bình yên yêu thương như những giọt sương mai long lanh cành lá trước ánh bình minh nhiệm mầu trong nắng.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TỘI VÀ ƠN CHỮA LÀNH
Có lẽ nhiều người cũng như tôi, đều thắc mắc như những người Do Thái là tại sao Chúa Giêsu không chữa lành ngay cho người bất toại, mà lại nói vòng vo tam quốc: tội con đã được tha, vv... Điều Người trả lời trực tiếp cho những người Do Thái và tôi là quyền tha tội của Người cũng đồng nghĩa với quyền chữa lành: Vậy để chứng tỏ Con Người có quyền tha tội dưới đất, Ta truyền cho anh hãy vác chõng mà về. Và người bất toại đã được lành bệnh, đứng dậy, vác chõng về nhà. Chúng ta tự hỏi: Có gì liên quan giữa việc chữa lành bên trong với bên ngoài? Giữa tinh thần và thể xác?
Về phương diện tâm lý, chúng ta thấy hết sức rõ ràng: Khi buồn, nghĩa là tinh thần ở trạng thái không bình thường, đi xuống, thì lập tức cơ thể bị ảnh hưởng không nhiều thì ít, như ăn không thấy ngon, làm việc không còn hăng hái; và nếu qúa buồn thì có thể dẫn đến bệnh tật thể xác, vv... Ngược lại, nếu tâm lý được chữa lành, thì cơ thể cũng biến đổi theo. Hãy nghĩ lại lúc đến bờ tự do sau thời gian vượt biển dài với bao nắng mưa, khổ cực, lo sợ, cảm giác sung sướng của chúng ta thế nào đã được diễn ta qua thân xác lúc đó? Những tình trạng thể xác và tinh thần liên đới chặt chẽ cho thấy một chân lý quan trọng của Chúa Giêsu: tội được tha dẫn đến việc thể xác được lành. Nói cách khác, tội cũng chính là nguyên nhân làm thân xác yếu đau bại liệt, và phải chết. Đó là tình trạng của loài người sau khi mắc tội tổ tông và các tội riêng mình.
Điều bài học Tin Mừng Marcô hôm nay hối thúc chúng ta là phải ăn năn sám hối, tin vào Phúc âm, nghĩa là tin vào Chúa Giêsu quyền năng có quyền tha tội và phục hồi tình trạng tốt lành của cả tinh thần và thể xác. Người bại liệt có lẽ cũng đã ở trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, nhưng được Chúa Giêsu chữa lành nhờ vào lòng tin và sự tuyên xưng của những người đưa anh đến. Họ không thể vào nhà được vì qúa đông, nên gỡ một lỗ trên mái nhà để hạ anh xuống trước mặt Chúa Giêsu. Việc làm của họ như muón nói với Người rằng: Chúng tôi tin Người có quyền chữa lành kẻ bất toại này. Tin và sám hối luôn đi đôi với nhau để có thể biến đổi tình trạng tâm lý và tinh thần yếu liệt của con người, để từ đó họ có đủ sức mạnh và can đảm tìm đến với Chúa Giêsu. Người đang hiện diện thực sự trong Bí Tích Thánh Thể, trong các linh mục mà Người ban cho họ quyền tha tội, trong lời quyền năng Tin Mừng của Người, và trong mọi người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Tạo vật và các biến cố cuộc đời riêng ta cũng như của nhân loại đang nói lên tình trạng yếu liệt tê bại qua những bất toàn, giới hạn và yếu đuối của họ. Hãy nhận ra quyền năng Chúa thể hiện hằng ngày trong ta và trong thế giới, để có thể khiêm nhường chạy đến với Chúa Giêsu xin ơn chữa lành.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐỨC LANG QUÂN VĨNH CỬU
Gần đây một bản nhạc nội dung Việt, nhạc và lời Pháp mang tên Bonjour Vietnam xuất hiện như một hiện tượng nhạc trong thế giới người Việt Hải Ngoại. Chính tiếng hát ngọt ngào truyền cảm, sống động và như mang ngập tràn hồn Việt của của một cô gái Việt, dù sinh ra nơi đất khách, đã diễn tả niềm mơ ước dạt dào của tình yêu nồng nàn được hôn lên, được chào đón quê hương Mẹ như rất xa lạ, vì chỉ biết qua những nét phác họa đậm hình màu sắc trong phim Cappola... Cái hiện tượng Bonjour Vietnam như đặt trọn vẹn cuộc sống mới vào ký ức xa xưa, nhưng lại rất gần và thân thương của một Việt Nam luôn hiện thực sống động trong lòng người Việt hải ngoại xa xứ. Tiếng hát Phạm Quỳnh Anh đang đưa tất cả qúa khứ Việt hiện hình trong trái tim người Việt và quê hương Việt Nam. Hình như hiện tượng này có gì hơi giống với điều Đức Kitô so sánh rượu mới và bầu cũ trên nét hình thức, dù rất khác về mặt nội dung và chiều kích tư tưởng.
Với Đức Kitô, Ngài muốn dân Ngài trong giáo hội mới phải sống hoàn toàn tinh thần mới: tinh thần của Chúa Cứu Thế trong Tân Ước, của Đức Tân Lang trong Tiệc Cưới Nước Trời Tân Ước, thứ rượu mới duy nhất không thể thay thế hoặc pha trộn trong bầu da cũ. Họ chỉ có thể ăn chay khi thấy mình trở nên cũ kỹ, nghĩa là bị bọc trong lớp sương mù dầy đặc của tội lỗi và đam mê... , lúc mà Đức Lang Quân bị đem đi, nghĩa ra ra khỏi lòng họ. Đúng hơn họ không nên mơ về quê hương cũ sau khi đã thoát khỏi kiếp lưu đầy Ai Cập tượng trưng cho sự kìm kẹp của Satan và sự chết. Khi mang Chúa Kitô, Đức Lang Quân của Tiệc Cưới Tân Ước, tâm hồn họ sẽ luôn phấn khởi vui mừng, vì tương lai hạnh phúc cũng đồng nghĩa với hiện tại hạnh phúc. Ngài xuất hiện, lập tức biến đổi mọi đời sống con người trong mọi chiều kích, cho dù có những người chưa một lần được nghe hay đụng đến Người, bởi ơn cứu độ của Người là ơn cứu độ bao phủ cả hoàn vũ qua không gian và thời gian.
Với thân phận con người, người Việt chúng ta hôm nay đã sống những cảm nghiệm cũ của một quê hương nghèo khó, chiến tranh, rách nát, nhưng đầy yêu dấu mỹ miều khó quên. Chỉ một tiếng hát dịu êm truyền cảm sống động ở góc trời xa lạ nào đó, cũng đủ khuấy lên tất cả âm vang của một vùng trời dấu yêu qúa khứ, đôi khi đã bị lãng quên. Những tình cảm nồng nàn yêu dấu ấy có thể là một bầu da cũ khó chứa nổi rượu mới trong cuộc sống ảnh hưởng tràn đầy cái mới hôm nay trong mọi chiều kích khuynh hướng cuộc đời. Sự dung hòa gần như chỉ là niềm mơ ước thoáng qua trong khoảnh khắc thời gian, cho dù tình cảm hay tình yêu ký ức vẫn còn đó. Cuối cùng người ta lại đành phải chọn cái mới đã hóa thân hay nhập thể thành cuộc sống hôm nay. Và nếu không dứt khoát, sẽ trở nên tha hóa trong tâm thức phản kháng day dứt nội tâm khôn nguôi! Riêng khi chọn Đức Kitô, chúng ta không thể đổ rượu mới vào bầu da cũ như Người nói, nghĩa là không thể mộng mơ, dù chỉ thoáng qua trong chốc lát, với đời sống cũ. Vì Người đã phục sinh hướng niềm mơ ước của chúng ta vào quê hương hạnh phúc vĩnh cửu của Người; và như Thánh Phaolô quả quyết: Người không còn chết nữa, cái chết không còn làm chủ được Người. (Rm 3:8-9) Hãy hướng mắt nhìn lên Người, đôi chân bước theo Người, và đôi tay nắm lấy Người, để hồn ta chìm đắm trong tình yêu bao la vĩnh cửu của Người, sẽ thấy cuộc sống cũ lập tức biến thành hư vô của qúa khứ, vì Người là Đức Lang Quân trong Tiệc Cưới Nước Trời hạnh phúc viên mãn của hồn ta hôm nay và vĩnh cửu.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BỠ NGỠ TRƯƠC TÌNH THƯƠNG VÀ QUYỀN NĂNG CHÚA
Đoạn Tin Mừng của Thánh Marcô hôm nay có lẽ đem đến một vài thắc mắc và phản ứng khác nhau đối với những người không tin Chúa Kitô, đối với các môn đệ trong cuộc, và đặc biệt đối với những người đang tin vào Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế.
Thắc mắc hoặc phản ứng trước tiên có thể là: Làm sao Chúa Giêsu có thể ngủ giữa cơn bão lớn đến nỗi nước đã trào vào thuyền rất nhiều, trong khi bên tai vang lên những tiếng kêu cứu vì sợ hãi của các môn đệ? Thắc mắc này rất hợp lý và tự nhiên cả cho những người không tin lẫn những ai tin vào Chúa Giêsu. Câu trả lời có thể cũng rất hợp lý là: Sau một ngày dài làm việc và giảng dạy cho một đám đông theo Chúa Giêsu, chắc chắn Người vất vả và mệt lắm. Thử tưởng tượng trong hoàn cảnh thiên nhiên mà phải giảng lớn liên miên suốt ngày, không có hệ thống âm thanh, bạn sẽ cảm thấy thế nào? Lại nữa, ở giữa thời đại mà thức ăn cũng như nước uống không mấy thuận tiện, thì chắc chắn người rao giảng như Chúa Giêsu sẽ hết sức vất vả và kiệt sức khi chiều đến! Khi có dịp nghỉ ngơi là giấc ngủ tự nhiên đến. Người ngủ trong hoàn cảnh ấy sẽ ngủ như chết, bằng chứng là Chúa Giêsu ngồi ôm gối ngủ tỉnh bơ, kệ cho bão táp sóng gió nổi lên. Những ai đã từng đi vượt biên và gặp sóng gió bão táp, có thể cũng đã trải qua kinh nghiệm ngủ này.
Phản ứng thứ hai trước bão táp là của các môn đệ Chúa Giêsu trong cuộc rất thực: Họ sợ hãi vừa kêu cứu vừa trách Thầy mình: Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao? Và sau khi Chúa Giêsu chỗi dậy truyền cho sóng gió im lặng, các ông kinh hãi nói với nhau: Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người? Tính cách thực ở đây là diễn tả sự yếu đuối trong thân phận con người. Khi bất lực trước các nguy hiểm đến tính mạng, tự nhiên bản tính con người rơi vào trạng thái sợ hãi và la hét kêu cứu. Và trước các phép lạ vượt ngoài tầm tự nhiên, con người tự nhiên bỡ ngỡ và thán phục, tin cậy và phó thác. Cả hai phản ứng của các môn đệ đều được Chúa Giêsu đáp lại bằng việc truyền cho sóng gió im lặng để trả lại sự an bình cho các ông, và nhất là chuẩn bị cho các ông nhận ra Người là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa thiên hạ đợi trông, để tiếp tục loan bào Tin Mừng cứu độ thay cho Người.
Và phản ứng thứ ba là thái độ của những người tin Chúa Giêsu khi suy niệm về quyền năng của Người trước sóng gío bão táp. Họ không có cơ hội chứng kiến quyền năng Chúa như các môn đệ, nhưng họ lại có rất nhiều cơ hội sống những hoàn cảnh đời mình trước tình thương và quyền năng của Chúa an bài cho họ. Những kinh nghiệm đau khổ của đời sống con người thường dẫn họ chiêm ngưỡng tình thương và quyền năng của Chúa, nếu họ luôn biết cậy trông và phó thác cuộc sống nơi Người. Những kinh nghiệm thường thấy nhất là sự chào đời của một đời sống mới. Người mẹ cảm nghiệm tuyệt vời bàn tay Chúa an bài cho mình và cho đứa con yêu dấu của mình. Sự chào đời của nó sẽ chấm dứt nỗi nhọc nhằn cưu mang và nuôi dưỡng, để nhường lại cho những niềm vui vô hạn trong tâm hồn và cuộc đời mà không một món quà nào có thể so sánh. Hoặc có thể cụ thể hơn khi nghĩ đến cảnh vượt biển một sống hai chết để đi tìm tự do. Với tâm tình thống thiết van xin Thiên Chúa cứu giúp, tất cả chúng ta đã đến bến bờ tự do và hôm nay đang có một cuộc sống tương đối hạnh phúc. Chúng ta có thể so sánh những kinh nghiệm này với kinh nghiệm thực của các môn đệ cùng với Chúa Giêsu trong cơn bão táp.
Điều quan trọng trong đời sống đức tin là luôn biết kêu cứu phó thác và bỡ ngỡ trước quyền năng và tình thương của Chúa. Giữa đêm tối đức tin, chúng ta đang có một cơ hội chứng tỏ niềm tin và tình yêu của mình đối với Chúa. Luôn nhớ rằng, các kinh nghiệm của đức tin luôn dẫn đến những món quà quí giá mới để chúng ta có thể chia sẻ với anh chị em đồng loại. Đây cũng là cách biết bỡ ngỡ trước tình thương và quyền năng của Chúa, vì Người luôn dùng những kẻ yếu đuối và khiêm nhường như những dụng cụ rao giảng tình thương và quyền năng ấy trong vụ trụ và trên thế giới này.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
SỐNG ĐẠO TIN YÊU VÀ PHÓ THÁC
Tường thuật trong Bài Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu trong một thời gian ngắn đã làm tới hai phép lạ: Phép lạ chữa cho một phụ nữ bị bệnh xuất huyết nhiều năm, và phép lạ lớn hơn là làm cho một bé gái mười hai tuổi con ông trường hội đường đã chết được sống lại. Chúng ta không lạ lắm vì quyền năng Thiên Chúa tỏ hiện qua các phép lạ, nhưng đúng hơn vô cùng cảm phục trước tình thương Thiên Chúa đối với nhân loại đau khổ và tội lỗi; và đồng thời học được cách diễn tả niềm tin yêu phó thác từ nơi người phụ nữ mắc bệnh và nhất là từ người cha của bé gái mười hai tuổi.
Cùng với tâm tình tin yêu phó thác và tạ ơn của người phụ nữ và gia đình ông trưởng hội đường, chúng ta tự nhìn lại đời sống giữ đạo của mình bằng những câu hỏi đơn sơ như: Tương quan đức tin của tôi với Chúa như thế nào? Tôi có cảm nghiệm được thực sự tình yêu giữa tôi với Chúa không? Trong các hoàn cảnh khó nguy cuộc đời, thái độ sống đạo của tôi thế nào trong việc cầu xin và phó thác theo ý Chúa? Sẽ còn rất nhiều những câu hỏi tương tự khác để chúng ta có thể thẩm vấn đức tin và tình yêu của mình đối với Ngài. Điểu quan trọng hơn trong đời sống đạo vẫn là: Tôi có nhận ra quyền năng và tình yêu Chúa trong đời mình qua mọi biến cố và góc cạnh cuộc sống không? Tôi có thấy sự hiện diện của Chúa bao trùm cuộc sống và vũ trụ này không?
Những câu hỏi ấy có thể sẽ dẫn chúng ta đến những cách chọn lựa để có thể khám phá trực tiếp được quyền năng và tình thương Chúa trong đời mình, chẳng hạn chọn những giây phút yên lặng trầm tĩnh để cầu nguyện một mình trước Thánh Thể, hoặc trong không khí thinh lặng của sa mạc, của biển cả mênh mông, của trời rộng bao la, hay trước sự hùng vĩ của đồi núi thiên nhiên bất tận ... để từ đó nhận ra sự tương quan giữa các chi thể trong thân thể mình, nhận ra tương quan của mình với tha nhân, tương quan của mình với các tạo vật, và cũng từ giây phút cảm nghiệm thánh thiện trong các tương quan ấy, sẽ khám phá và cảm nghiệm được Thiên Chúa và tình yêu sâu thẳm của Ngài ngay trong nội tâm mình.
Cách diễn tả đức tin của người phụ nữ mắc bệnh xuất huyết và của ông trưởng hội đường là cách cảm nghiệm tình thương và quyền năng Chúa hết sức đơn sơ. Quyền năng và tình thương Chúa có sẵn đó, cứ việc chạm đến là tuôn chảy như giòng suối mát ân huệ chữa lành. Việc chạm đến này chính là cuộc gặp gỡ của hai tâm tình yêu thương giữa ta và Chúa, khác hẳn với những cách van xin diễn t? một chiều ý muốn của ta. Và đây cũng là cách thức tốt đẹp nhất trong việc diễn tả niềm tin và tình yêu của chúng ta trong đời sống đạo: sống đạo vì yêu Chúa, từ đó biết phó thác hoàn toàn đời sống chúng ta trong tay Ngài.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM B
KIÊU CĂNG VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Những thắc mắc của những người đồng hương với Chúa Giêsu: Sao ông ta có thể khôn ngoan và làm được những phép lạ cả thể như vậy? biểu lộ sự ngạc nhiên về một người từ một gia đình tầm thường mà họ thường gặp. Nhưng Phúc âm lại kết luận: Và họ vấp phạm về Ngài! khiến Chúa Giêsu đã lên tiếng: Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương xứ sở mình! Hành động của họ biểu lộ một tính xấu rất thông thường tận thâm tâm con người: đó là tính kiêu căng.
Kiêu căng vừa là tính xấu nhất phá đổ hạnh phúc nhân loại và vừa là cội rễ tiêu diệt các nhân đức và Nước Thiên Chúa. Từ đầu Khởi Nguyên, Satan vì kiêu căng đã bị Chúa đày xuống hỏa ngục. Tổ tông loài người vì muốn hiểu biết bằng Thiên Chúa, nghe theo cám dỗ của Satan, nên đã chịu hình phạt đau khổ và chết chóc hiện nay. Bất cứ nơi nào có sự hiện diện của kiêu căng, thì ở đấy có chia rẽ, hận thù! Quỷ dữ dùng chính con người làm khổ con người khi kích thích tính kiêu căng trong lòng họ để khoe khoang, để chiếm đoạt và tiêu diệt. Những người đồng hương với Chúa Giêsu, vì kiêu căng, nên đã không thể chấp nhận được sự khôn ngoan rao giảng, và khả năng làm phép lạ chữa lành của Người! Kiêu căng đã che mắt không cho họ thấy được bản tính và vinh quang Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô.
Thay thế cho kiêu căng chính là đức Khiêm Nhường. Khiêm nhường thật là một hành trình dài phấn đấu với chính mình, với thế gian và với ma quỷ. Phấn đấu với chính mình để nhận ra những yếu đuối của mình, giúp mình biết cậy trông vào Chúa và luôn hướng về điều thiện. Từ nhận thức yếu đuối, sẽ dễ cảm thông, chia sẻ, chấp nhận và giúp đỡ tha nhân, nhất là luôn biết sám hối và thờ phượng tạ ơn Chúa. Phấn đấu với thế gian để loại trừ những thói xấu lẫn trong các việc đạo đức thường tạo ra những vinh quang giả do ảo tưởng tự tạo gây ra. Và phấn đấu với ma quỷ để luôn biết canh chừng không tiếp tay với chúng phá hoại nước Thiên Chúa.
Những ai khiêm nhường thật thường có sự an bình nội tâm, có tâm tình sẵn sàng vâng nghe và thực hành Lời Chúa và các giáo huấn của giáo hội; luôn biết tự trọng chính đáng, nghĩa là biết nhận chân những giá trị mình có, không khoe khoang thêm bớt sự thật và các thực tại nơi mình. Người khiêm nhường do đó không độc tài trong các quyết định, nhưng dễ cộng tác với tha nhân trong các công cuộc xây dựng cũng như tạo sự hài hòa giữa các bất đồng trong mọi hoàn cảnh sống. Nhờ sống khiêm nhường, họ sẽ được Chúa thương yêu và tha nhân kính trọng. Họ sẽ trở thành những sứ giả của tình thương và hòa bình. Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều cao cả nơi những ai khiêm nhường. (Magnificat)
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN NĂM B
PHÓ THÁC VÀ TIN TƯỞNG
Kinh nghiệm nhân loại cho biết bất cứ chuyến đi xa nào cũng cần chuẩn bị kỹ lưỡng và đầy đủ mới thấy an tâm. Về phương diện tinh thần, hoặc thiêng liêng thuộc phạm vi tôn giáo, người ta cũng sẽ hỏi mình cần gì cho những chuyến đi cuộc đời? Tin Mừng hôm nay nói về những bước chân rao giảng của người môn đệ Chúa Kitô. Chúa xem ra ngược lại dạy họ chuẩn bị hết sức sơ sài và khiêm tốn trên đường: Không được mang bị và túi tiền; chỉ cần một cây gậy, đôi dép và bộ quần áo trên người; tới đâu thì sống nhờ thiên hạ tới đó. Như thế, Chúa muốn họ cần biết nương tựa hoàn toàn vào Chúa, phó thác cho tình yêu và sự quan phòng của Người, và cậy nhờ vào lòng tốt của tha nhân.
Phải, trên thân kẻ rao giảng Tin Mừng phải hết sức nhẹ nhàng và trút bỏ vật chất, vì họ theo gương Chúa rao giảng sự sám hối và tin vào Tin Mừng. (Mc 6:12) Sám hối là một việc rất khó thực hiện đối với con người. Nếu người rao giảng sám hối mà tâm hồn luôn bận rộn với các nhu cầu vật chất, thì chẳng ai nghe và tin họ cả, bởi có khi họ còn tham lam và lo lắng với cuộc sống trần gian hơn cả những người nghe họ giảng là đàng khác! Chúa dạy họ chỉ cần một ít tối thiểu cho mình: một cây gậy để bảo vệ mình khỏi thú dữ, một đôi dép để có sức chịu đựng lâu dài trên đường đi, và một bộ quần áo để che mưa che nắng. Thân phận họ sẽ giống với thân phận của Chúa: Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Bề ngoài không đáng kể, bề trong mới quan trọng. Một khi trong lòng có Chúa, đến đâu và ở đâu họ cũng tràn đầy hạnh phúc và được kính trọng yêu thương.
Ngày nay, hình ảnh kẻ rao giảng Tin Mừng có lẽ khác với các môn đệ thời Chúa Giêsu rất nhiều. Những bóng dáng nghèo nàn như Chúa dạy càng ngày càng thưa thớt, vì dù ngay nơi những tu hội khấn đức khó nghèo, thì cách này hay cách khác, người ta cũng tìm để có một đời sống tương đối dễ chịu! Ấy là chưa kể đến đa số đời sống sung túc của những người đi tu trong các xã hội văn minh vật chất. Phải chăng vì nhu cầu cuộc sống mà họ không thể có lối sống phó thác và nghèo nàn như Chúa dạy nơi những kẻ rao giảng Tin Mừng? Điều này đúng hay sai còn tuỳ thuộc vào tâm hồn, ý hướng và ý chí muốn sống lý tưởng cuộc đời hiến dâng của những người theo Chúa. Gương sáng đời sống tin tưởng, phó thác, nghèo hèn và phục vụ gần đây của thánh nữa Têrêsa Hài đồng Giêsu, hoặc Mẹ Têrêxa Calcutta, vv... là những tấm gương sáng ngời mời gọi những ai đang hiến thân vì Nước Trời trở về với cuộc sống phó thác và tin tưởng thực tình nơi Chúa, nếu muốn cho Chúa thực hiện công trình cứu độ của Ngài trong các tâm hồn.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN NĂM B
NGHỈ NGƠI VÀ CẦU NGUYỆN
Sống ở những nước văn minh như nước Mỹ, người ta sẽ thắc mắc tại sao ở đây lại có quá nhiều khu vực và các phương tiện giải trí như vậy! Những khu vực và các phương tiện giải trí có khi là nhân tạo, có khi là thiên nhiên đã được cải tiến và chăm sóc để làm tăng thêm nét đẹp và hấp dẫn các du khách thưởng ngoạn. Dân chúng ở các nước nghèo có thể coi đó là việc ăn chơi phí phạm, nhưng đối với những công dân sinh sống ở Mỹ, câu trả lời sẽ khác và dễ dàng: Nhờ các khu vực và phương tiện giải trí, con người sẽ bớt đi những căng thăng đủ loại trong cuộc sống, sẽ bớt đi con số những người điên do căng thẳng từ công việc và hoàn cảnh gây ra, vv... Đúng vậy, việc giải trí cần giúp thư giãn cuộc sống; nhưng thực ra nó mới chỉ được coi như sự chuyển tiếp từ một sinh hoạt ồn ào của công việc sang một sinh hoạt ồn ào khác của giải trí, chúng ta tạm coi đó như việc đánh lừa tâm lý. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một phương pháp tuyệt vời để quân bình hóa và giúp cuộc sống thăng tiến hơn: ''Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghi ngơi một chút.'' Nơi vắng vẻ là nơi yên tĩnh sẽ giúp tâm hồn thanh thản, bình lặng và cảm nghiệm được sự ngọt ngào của thinh lặng trước các vẻ đẹp của tâm hồn, cuộc sống, thiên nhiên và nhất là sự bao la của tình yêu Thiên Chúa.
Tuy nhiên, có rất nhiều Kitô hữu đã không cảm nghiệm được sự ngọt ngào và phong phú của sự yên tĩnh trong đời sống đạo, vì những thời giờ thờ phượng và cầu nguyện trong nhà thờ thường làm họ buồn tẻ và ngủ gục. Tình trạng đó gợi chúng ta suy tư về sự yên tĩnh: thế nào là sự yên tĩnh ngọt ngào và phong phú? Trước hết nếu chỉ trốn chạy náo động để tìm yên tĩnh, giải trí, trong khi đã qúa quen với náo động, thì nhiều người sẽ không thể chịu nổi được sự yên lặng. Yên lặng lúc đó sẽ giết chết họ vì buồn chán. Hoặc cũng có những người chỉ biết đi tìm sự yên tĩnh trống rỗng vô vị. Cuộc sống đã hoang vắng, sự yên tĩnh trong tâm hồn sẽ càng trở nên hoang vu trống rỗng hơn! Cuối cùng, chỉ có yên tĩnh do chính mình chọn lựa, tự nguyện đi vào chiều sâu thăm thẳm trầm mặc yên tĩnh nội tâm, để khám phá chính mình, và để tâm hồn chìm vào tình yêu Thiên Chúa trong cảm xúc của tình yêu, mới thấy được giá trị của yên tĩnh nội tâm ngọt ngào và phong phú mà Chúa Giêsu giới thiệu. Sự yên tĩnh nghỉ ngơi đó sẽ giúp chúng ta đi xa hơn trong cuộc sống, trong các công việc và dự định tương lai. Trên hành trình tiến về quê trời, chắc chắn mỗi người Kitô hữu rất cần dừng lại nghỉ ngơi nhiều mới có đủ sức đi hết con đường vừa dài, vừa dốc và vừa ngược lại với chính bản tính của mình. Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi ...
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN NĂM B
PHÉP LẠ VÌ TÌNH THƯƠNG
Mỗi lần nghe Phép Lạ Hóa Bánh ra nhiều, có lẽ nhiều người có khuynh hướng nhìn nó dưới khía cạnh vật chất kinh tế, chẳng hạn coi đó như việc tăng cấp số nhân từ 5 chiếc bánh thành 10, 10 thành 20, vv..., hoặc từ 2 con cá thành 4, 4 thành 6, vv... cho đến khi đủ cho trên 5000 người ăn no. Chúng ta không biết cách thức Chúa làm phép lạ, chỉ biết từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, Người đã khiến cho trên 5000 người ăn no mà vẫn còn dư. Khi nhận bánh và cá, có lẽ mỗi người đều nhận được nguyên vẹn những chiếc bánh và cá đủ phần cho họ được no nê. Hình ảnh này gợi chúng ta manna trong sa mạc người Do Thái nhận trên hành trình tiến về đất hứa. Phép lạ Chúa làm cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước đều chúng tỏ một chân lý tuyệt đối: Thiên Chúa rất yêu thương loài người, nhất là những người bơ vơ, đói khát, và cùng khổ.
Đúng vậy, người Do Thái xưa đói khát trong sa mạc, nên Chúa thường ban manna cho họ làm của ăn. Những người theo Chúa Giêsu ngày đêm để nghe Người giảng dạy, quên ăn quên ngủ đến khi mệt nhoài đói lả, Người đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một chú bé. Những chi tiết như Philipphê thấy được chú bé có 5 chiếc bánh và hai con cá, và nhất là bản thân chú bé đó, nói lên sự tế nhị của tâm hồn Philipphê và tình yêu đơn sơ quảng đại của chú bé trong phép lạ, càng tăng thêm nét đẹp duyên dáng và bao la của tình yêu thoát ra từ trái tim đầy tình thương xót của Chúa Cứu Thế và sự cộng tác với tình yêu ấy của con người. Tình ấy không dừng lại ở bánh và cá, nhưng qua đó, Chúa Giêsu đã hiến mình và máu người qua những phép lạ nhãn tiền mỗi ngày trong các Thánh Lễ hiến tế trên toàn thế giới để nuôi sống muôn triệu con tim và tâm hồn đang khao khát sự sống trường sinh qua mọi thời đại.
Đó chính là tình Chúa dành cho nhân loại. Nhưng Ngài rất cần những tâm hồn tế nhị và quảng đại giới thiệu và chia sẻ tình Ngài cho tha nhân, như Philipphê, chú bé và các tông đồ trao bánh và cá cho đám dân đang đói khát của ăn vật chất và của ăn Lời Chúa. Bánh Thánh Thể là nguồn sống vô tận, dù có ban phát mãi cũng vẫn luôn tràn đầy, giống như tình yêu bao la vô bờ vô bến của Chúa. Mỗi người nhận lấy Chúa trong hồn mình sẽ cảm nhận Người trọn vẹn no nê tràn đầy. Tình Chúa cho riêng mình mà không hề bị chia sẻ. Nhưng mấy khi chúng ta cảm nhận được điều đó một cách trọn vẹn! Hãy hỏi xem mình có thái độ nào trước phép lạ tình thương bánh và rượu biến thành Mình và Máu Chúa dành riêng cho chúng ta.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN NĂM B
THỎA MÃN ĐÓI VÀ KHÁT
Chúa Giêsu nhìn rõ động lực của dân chúng đang theo Người: Các người đến với Ta vì đã được ăn bánh no nê; vì thế Người đã khuyên họ hãy làm việc để có lương thực không hề hư nát: Đó là tin vào Người, Đấng Chúa Cha sai đến. Tin vào Chúa Giêsu, cũng chính là tin vào Bánh ban sự sống đời đời, vì như lời Người phán: Bất cứ ai đến với Ta sẽ không còn bị đói, và bất cứ ai tin vào Ta sẽ không hề khát nữa.
Những lời Chúa Giêsu phán ám chỉ trực tiếp đến Bí Tích Thánh Thể, nguồn sự sống đời đời. Vì tầm quan trọng của Bí Tích này, nên cả bốn Phúc âm đều tường thuật phép lạ Hóa Bánh ra nhiều của Chúa Giêsu. Nét đẹp tuyệt vời của phép lạ là đem đến sự sống thể xác, để rồi từ sự kiện ấy, Chúa ban chính mình máu Người cho con người làm sự sống trường sinh. Điều Chúa nhấn mạnh là loài người cần phải ra sức làm việc cho sự sống đời đời. Muốn được như vậy thì trước hết phải tin vào Người là bánh hằng sống. Đức tin ở đây không còn là một định nghĩa vu vơ, mơ hồ hoặc trừu tượng khó hiểu; nhưng hướng trực tiếp vào Đấng là sự sống vĩnh cửu. Người Do Thái lúc đó khó tin vào Chúa Giêsu là Bánh hằng sống, vì họ chỉ nhìn thấy có bản tính nhân loại trong Chúa Giêsu. Đối với chúng ta hôm nay, có lẽ điều làm khó tin là cứ muốn tìm phép lạ trong Bí Tích Thánh Thể, cứ muốn Chúa tỏ dấu lạ hoặc hiện ra để mình dễ tin hơn. Đức tin thực ra thuộc phạm vi siêu nhiên, tinh thần. Nó chính là con mắt thiêng liêng giúp ta nhìn thấy Chúa, là cánh tay vô hình để ta nắm lấy Chúa, và là sức mạnh siêu việt giúp ta vượt mọi khó khăn và thử thách trên đời.
Những lời sau cùng của Phúc âm hôm nay là lời Chúa Giêsu mời gọi hãy đến và tin vào Chúa để không còn bị đói và khát nữa. Bất cứ sự thỏa mãn nào về phương diện vật chất đều gợi lên những đòi hỏi khác khiến cuộc sống luôn bị trống rỗng và khát khao thêm. Điều này là kinh nghiệm thực của Thánh Augustinô đến nỗi Ngài đã khẳng định: Con sẽ bất an mãi cho đến khi nào được nghỉ yên trong lòng Chúa mới thôi! Đúng vậy, trước những lo âu và thất vọng, trước những khao khát của đời sống tinh thần, con người chỉ được an bình và vui thỏa khi đến và nhận lấy Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, rồi trao cho Người quyền hoàn toàn hành động. Các Thánh khi còn trên dương thế đều trải qua kinh nghiệm này. Đó chính là kinh nghiệm hạnh phúc thiên đàng của những linh hồn có Thiên Chúa với mình. Chúng ta nhớ khắc ghi lời Chúa Giêsu dạy: các ngươi hãy ra sức làm việc cho sự sống đời đời.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐỨC TIN TIÊU DIỆT SỢ HÃI
Một thực tế bi thảm thường xuất hiện trong tâm thức con người: Đó là sự sợ hãi. Con người sợ hãi đủ điều từ cuộc sống vật chất đến đời sống tinh thần. Có những nỗi sợ hãi vu vơ vô lý, nhưng cũng có những nỗi sợ hãi biến thành những cơn ác mộng dính liền thân phận con người: Đó là sợ chết. Từ đó giấc mơ trường sinh như niềm khát khao vô tận nảy sinh sâu kín trong mỗi tâm hồn nhân loại qua mọi thời đại, cho dù biết rằng sau cùng phải chết, họ vẫn mơ được sống vĩnh cửu. Quả thực giấc mơ ấy rất chính đáng và hữu lý, vì khi con người bất lực trước cái chết, thì Chúa Giêsu chẳng những đã hứa ban, lại còn cho họ phương cách để đạt đến phúc trường sinh khi Người phán: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ được sống đời đời. Là người với những kinh nghiệm giới hạn trước bao nỗi sợ hãi, nhất là sợ chết, có lẽ ai cũng có thể hỏi như những người Do Thái thời Chúa Giêsu: Làm sao có thể tin được điều này? Làm sao ông ấy có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? vv...
Những thắc mắc ấy là những thực tại của sợ hãi do sự yếu đuối trong thân phận con người. Yếu đuối là hậu quả trực tiếp của tội lỗi, nhưng sự yếu đuối không đi ngược lại đức tin. Yếu đuối có thể do tội lỗi gây ra làm ý chí trở nên mềm yếu, nhưng cũng có thể vì giới hạn trong thân phận con người, khiến không thể thấu hiểu các thực tại thiêng liêng, nhất là thực tại liên quan đến sự sống trường sinh; từ đó cảm nghiệm rõ ràng hơn sự yếu đuối của niềm tin, và mất dần đi sức mạnh tinh thần, một động lực vô cùng quan trọng để chiến thắng sợ hãi. Như thế, sự yếu đuối chỉ đi ngược lại đức tin khi con người không muốn hoặc không cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Để đức tin được vững mạnh, con người phải luôn biết nương tựa và cậy trông vào Chúa, nhất là vào Lời của Người. Khi Chúa Giêsu nói và hứa ban Bánh Sự Sống Trường Sinh, Người không chỉ hứa suông, nhưng đã làm những phép lạ để chưng minh, trong đó có cả phép lạ cải tử hoàn sinh cho Lazarô và cho chính Người sau ba ngày đã chết. Việc ban sự sống trường sinh cho con người là món quà quý giá nhất, vì nó chính là sự sống thật của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Chỉ Mình và Máu Chúa Kitô mới có thể tiêu diệt các nỗi sợ hãi sâu kín trong tâm hồn nhân loại, nhất là cơn mê hoảng sợ chết. Tin vào Lời Chúa sẽ là động lực chính giúp con người nhận ra các thực tại chân thật thuộc thế giới siêu nhiên, sẽ khám phá và đón nhận dễ dàng hơn sự gần gũi với Thiên Chúa, nhất là sự sống thật của Người trong Bí Tích Thánh Thể, khiến họ càng mê say muốn kết hiệp với Người để thoả mãn giấc mơ được sống trường sinh của mình.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÁNH BAN SỰ SỐNG
Nhiều nhạc sỹ thường diễn tả những kỷ niệm tình đẹp đã qua phảng phất trong những dòng thơ trữ tình nuối tiếc: như còn chút gì để nhớ để thương; hoặc gợi lại cả một mối tình đẹp dưới tháp chuông mùa Giáng sinh: Bài thánh ca đó còn nhớ không em; lại có khi bâng khuâng như chút ít thất tình yêu dấu: Anh đi rồi còn ai tình tự...'' Những tâm tình ấy như muốn nói lên một quãng đời quá khứ, rồi một quãng đời hiện tại, hoặc một khúc quanh quá khứ mở ra một khúc ngoặc tương lai trong tình tự yêu đương. Với đời người Kitô hữu, Chúa Giêsu cũng xác định còn chút gì cao quí, còn chút gì để nhớ để thương hơn cuộc đời thường lăn lộn với miếng cơm manh áo, tiền tài, chức quyền và danh vọng: Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra. (Mt 4:4) Như thế, sự sống thể xác sẽ lệ thuộc vật chất, còn sự sống tinh thần sẽ lệ thuộc vào Lời Chúa. Tin Mừng hôm nay qủa quyết rõ ràng hơn điều một người Kitô hữu phải lựa chọn: Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống... Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời... Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy...Chọn lựa này sẽ biến đổi cuộc đời.
Cuộc đời dưới cái nhìn của Nhà Phật là một biển khổ. Những giọt nước mắt khổ đau của kiếp làm người hình như gắn liền với định mệnh của nó, bởi nó từ vật chất sinh ra, nên nhân sinh quan tạo ra nước mắt cũng nằm trong những lựa chọn bị lệ thuộc bởi vật chất. Muốn có chút gì để nhớ để thương, và nhất là muốn có chút gì cao quí hơn đời sống vật chất, con người cần phải tìm về của ăn tinh thần không thể hư nát: đó là Mình và Máu Chúa Kitô. Chúa Kitô dám xác định thịt máu Người sẽ đem lại sự sống trường sinh cho nhân loại, bởi vì sự sống từ thịt máu ấy chính là sự sống thật của Thiên Chúa. Sự sống ấy sẽ lau khô những giọt nước mắt tủi hờn, bởi nó được ban tặng nhưng không cho hết mọi người, nó đến trong tư thế bình đẳng, danh dự, tôn trọng và đầy yêu dấu. Khi người ta cảm nghiệm giới hạn mình trong những giành giựt, hắt hủi, lầm than, đau khổ, thì chính Chúa Kitô trong Nhiệm tích Thánh Thể là phương tiện duy nhất đón nhận họ trong vòng tay yêu thương nâng đỡ vỗ về, và mở ra một con đường mới cho một khúc quanh của đời hạnh phúc mới. Đức tin và tình yêu dành cho Chúa Kitô Thánh Thể đang mời gọi nhân loại bước vào một quyết định tự nguyện, nhưng cũng đầy dứt khoát: Hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo dường bao! (Tv 33:8-9) Bởi vì Thịt Chúa thực là của ăn và máu Chúa thực là của uống, ai ăn thịt máu ấy sẽ biến đời mình trở nên bất tử.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TÌNH THÂN TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Qua những kinh nghiệm sống trong cuộc sống nhân loại, các mối tương quan thân tình luôn là nơi nương náu sau cùng để tạo dựng hạnh phúc cho cá nhân cũng như tập thể. Thiếu vắng các mối dây thân tình ấy, đời sống con người sẽ đi đến bế tắc và đổ bể, chẳng hạn, gia đình sẽ kết thúc trong ly dị, tan vỡ; niềm tin tôn giáo sẽ bị hủy diệt hoặc chuyển hướng; xã hội bị rơi vào khủng hoảng vì thiếu vắng niềm tin và sự đỡ nâng... Chúa Giêsu hiểu rõ điều đó, nên Người đã ban chính Thịt Máu Người để hoàn hảo hóa các mối dây thân tình ấy, nhất làgiúp họ ý thức sâu xa hơn mục đích đời mình trong tương quan tình thân sau cùng khi ra khỏi cuộc sống này.
Qu? thực, sống mối tương quan thân tình đến mức độ đồng hóa và kết hiệp nên một không phải dễ cả về chiều dài và chiều sâu của nó. Lý do chính yếu phát sinh từ sự giới hạn của con người. Sự giới hạn ấy không cho họ nhìn thấy xa hơn cuộc sống hiện tại với những ý thức hệ và quan niệm liên quan trực tiếp đến vật chất, kể cả những ý thức hệ thuộc các lãnh vực khoa học, kinh tế, chính trị và xã hội. Từ sự giới hạn ấy, con người hầu như đang bị chi phối rất mạnh mẽ bởi các cám dỗ đầy dẫy và chằng chịt phát sinh từ hạnh phúc sai lầm do vật chất tạo nên, khiến họ rút vào vỏ ốc ích kỷ sẵn có trong não trạng và ước mơ hạn hẹp của mình, rồi đặt niềm tin sai chỗ. Một khi rơi vào tình trạng này, sẽ tạo nên sự đổ bể giữa các mối tương quan thân tình đã được xây dựng rất sâu xa bởi Thiên Chúa trong trái tim nhân loại, tức tương quan tình yêu như chính Thiên Chúa là tình yêu.
Chúa Giêsu khi tuyên bố Thịt Máu Người làm cho nhân loại trường sinh bất tử, thì chính Người xác định Thịt Máu ấy sẽ xây dựng các mối tương quan thân tình, hay đúng hơn là tương quan tình yêu vững bền giữa con người với nhau và với Thiên Chúa. Đến ăn Thịt và Máu ấy là đi vào chiều kích bao la của tình yêu Thiên Chúa, để từ đó họ có thể hiện hữu với đầy đủ ý nghĩa của sự sống chung mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho riêng họ. Người ta mất đức tin và tình yêu là vì xa rời sự sống của Thịt Máu Chúa Kitô. Chính vì thế, Thánh Phêrô đã mạnh mẽ tuyên xưng: Bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời..., Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (Jn 6:69-70). Do đó, con người khi xây dựng mối thân tình với Chúa Giêsu là đang xây dựng sự hiện hữu của mình trong tương quan tình yêu với nhau và với chính Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc sung mãn và đời đời cho muôn tạo vật.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN NĂM B
LUẬT CHÚA VÀ LUẬT NHÂN LOẠI
Nghe cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với những người Biệt Phái trong Phúc âm hôm nay, người ta có cảm tưởng con người nói chung, và ngay cả các nhà lãnh đạo tôn giáo nói riêng (mà những người Pharisiêu đại diện) đã xây dựng đời mình trên những giá trị luân lý giả tạo, ngay cả khi họ nhân danh luật pháp. Như thế, đâu là quan niệm và đường lối đứng đắn đúng nhất cho chúng ta theo?
Có hai điều quan trọng trong giáo thuyết của Chúa Giêsu hôm nay: Trước hết Người chưng dẫn lời tiên tri Isaia để nói lên quan niệm sống sai lầm của con người: Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người.'' (Mc 7:6-7) Điều thứ hai Chúa Giêsu minh họa như một chân lý bảo vệ sự trong sạch ngay thẳng nội tâm: Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ bên trong con người xuất ra mới làm cho họ ra ô uế: như ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cướp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, ngông cuồng. (Mc 7:15)
Chiếu theo những nguyên tắc của Chúa Giêsu dạy, có lẽ không mấy ai thấy mình trong sạch cả. Việc giữ đạo là con đường sống còn của các tín hữu, trước hết thường hay bị chi phối và hướng dẫn bởi ý muốn và luật pháp của con người hơn là của Thiên Chúa. Một khi là của con người, việc giữ đạo sẽ bị lệ thuộc vào phần thưởng, danh vọng cá nhân, dư luận, thói quen vô ý thức và sự sợ hãi hơn là vì yêu mến Thiên Chúa một cách chân thành và thiết tha. Riêng những người dạy đạo vì những ảnh hưởng ấy cũng hay làm cho qua lần chiếu lệ, cứng ngắc trong nguyên tắc hoặc vì mục đích cá nhân của riêng mình: dân này thờ Ta bằng môi bằng miệng... Thứ đến, việc giữ đạo sẽ ít chân thành, ngay thẳng và trung tín khi trong lòng đầy dẫy những tư tưởng xấu xa được bao phủ bởi lớp son bóng loáng của các việc đạo đức bên ngoài giả tạo. Kết quả sẽ phát sinh thái độ độc đoán, khép kín và thiếu hẳn chiều sâu bác ái. Chúa Giêsu quả quyết chính những điều đó làm họ ra ô uế!
Giữ đạo thuộc về lãnh vực tâm linh được thể hiện bằng những hành động bên ngoài, nên trước hết rất cần sự thanh tẩy sám hối nội tâm, một sự trở về liên tục để có thể nhận ra đường lối chính trực trong luật Chúa và trong các giáo huấn của Người. Đời sống đạo nội tâm với đức tin mạnh mẽ và đức mến nồng nàn sẽ giúp dễ dàng phân biệt đâu là luật và đường lối của nhân loại và đâu là luật lệ của Thiên Chúa để bước theo.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN NĂM B
CA NGỢI KỲ CÔNG PHÉP LẠ
Con người thường hay ngủ quên trước muôn vàn phép lạ trong chính bản thân và chung quanh mình; ngược lại lại thích tò mò trước những lời đồn đãi về những phép lạ xẩy ra đó đây. Đọc Phúc âm, chẳng hạn phúc âm hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa một người bị câm và điếc, người ta khám phá nét chân thành của dân chúng trước phép lạ họ chứng kiến: lòng họ đầy sự thán phục, ca tụng và muốn loan truyền, dù họ bị Chúa Giêsu cấm không được nói ra nói. Lý do đơn giản là lòng họ không thể câm nín trước những việc cao cả mà họ đã xem thấy; và riêng bản tính sự thiện hảo thì tự ban phát và tỏa lan.
Đúng vậy, nếu quan sát và suy nghĩ về bản thân và các sự vật quanh mình, người ta sẽ khám phá ra rất nhiều phép lạ đang xẩy ra từng giây phút trên đời. Chẳng hạn mỗi khi thức giấc sau một đêm dài, bạn thấy mình vẫn còn đang sống và hình như sự sống ấy lại hoàn hảo hơn. Sự sống ấy tự mình không thể tồn tại, nên đã được Thiên Chúa đặt vào trong những tương quan liên quan đến sự sống, nhất là tương quan tình yêu để làm cho sự sống nẩy sinh, phát triển và trường tồn. Đó là phép lạ kỳ diệu và vĩ đại của sự sống mà Thiên Chúa an bài không ngừng từng mỗi phút giây. Tuy nhiên, con người lại hay coi thường phép lạ này, họ hình như đang bị câm và điếc, và chỉ bị đánh thức khi nhận ra sự sống của mình hoặc của tha nhân đang ở bờ vực thẳm trước các tai nạn khủng khiếp hay biên giới giữa sự sống và sự chết. Ngoài ra, muôn muôn tạo vật đẹp tuyệt vời và thay đổi không ngừng do tham dự vào sự sống của Thiên Chúa đang làm cho thế giới và đặc biệt đời sống con người tốt đẹp hơn, cũng là những bằng chứng sống động của các phép lạ vĩ đại nhãn tiền.
Để có thể cảm nghiệm được hạnh phúc chân thật là những phép lạ Thiên Chúa thực hiện trong ta và trong muôn tạo vật, thái độ đầu tiên cần phải từ bỏ: đó là từ bỏ bệnh câm và điếc trong tâm hồn và suốt dọc đời sống mình. Từ bỏ thái độ câm và điếc cũng trực tiếp nói lên lòng biết ơn trước muôn ơn lành Thiên Chúa đổ xuống trên đời. Quả thực biết ơn các phép lạ Chúa làm sẽ làm cho lòng ta bừng cháy và muốn loan truyền như dân chúng ca ngợi Chúa Giêsu hôm nay: Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được! (Mc 7:37)
Nguyện xin Chúa hãy chữa con khỏi bệnh câm và điếc, để con biết ca tụng muôn ơn lành và các kỳ công của Chúa trong con và trong muôn tạo vật của Ngài.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
XIN CHỮA BỆNH CÂM ĐIẾC
Những mạc khải của Chúa Giêsu về “Bánh Hằng Sống” đã không được dân chúng và những người Biệt Phái cũng như luật sỹ chấp nhận, ngay cả đa số các môn đệ chối từ; rồi đến những tranh luận về “Sạch và Dơ” đã làm nhức óc những người Biệt Phái chống đối các môn đệ của Chúa Giêsu không theo tập tục tiền nhân, Chúa Giêsu trở về với con đường riêng của mình: Con đường mang Tin Mừng Cứu Độ cho toàn thể nhân loại qua ngả đường dân ngoại. Ngài muốn Đạo của Ngài vượt khỏi biên giới Do Thái Giáo, để tình yêu Thiên Chúa nơi Ngài tràn đế muôn dân. Để thực hiện điều đó, Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã đến Tia và Siđon, thuộc Libăng ngày nay, một quãng đường thật dài trên các sườn núi đến tận sa mạc thuộc các vùng đất Iran và Irac, (miền thập tỉnh) để huấn luyện các môn đệ và loan báo Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa.
Ngài bắt đầu tỏ thiên chức Thiên Sai của Ngài cho các môn đệ, những người chưa thể nhìn và nghe rõ những lời Ngài giảng dạy, bằng thực hiện những phép lạ hiển nhiên, mà một trong những phép lạ đó là chữa lành một người câm và điếc trong Tin Mừng hôm nay, để các ông nhận ra thiên tính của Ngài. Cách thức Chúa Giêsu chữa lành chứng minh cả nhân tính và thiên tính của Ngài. Ngài đặt tay vào lỗ lai và dùng nước miếng thoa trên lưỡi người câm và điếc, cộng với một tiếng thở dài kêu gọi quyền năng từ trời. Tất cả như dạy các môn đệ và con người về sự hiện diện của Ngài bằng nhân tính và thiên tính của Đấng Thiên Sai. Người câm và điếc được chữa lành, và cả nhân loại cũng được chữa lành bằng các dấu chỉ của các Bí Tích sau này.
Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là Thiên Chúa. Ngài nhìn thấy nhân loại hôm nay vẫn còn câm điếc trước Lời hằng sống và các phương tiện thánh chữa lành của Ngài trong Giáo Hội. Dựa vào phép lạ chữa lành người câm và điếc trong Tin Mừng hôm nay, con người cần nhận ra sự bất lực của mình, để trước hết chạy đến với Chúa. Chỉ có Chúa mới đưa con người ra khỏi những cảnh câm và điếc thiêng liêng như đưa người câm và điếc ra một nơi riêng biệt để ban ơn chữa lành. Đây là ân huệ đặc biệt của đức tin vào Thiên Chúa.
Điều quan trọng đối với chúng ta, những Kitô hữu là làm cách nào nhận ra tính cách Thiên Sai cả Chúa Giêsu để xin Ngài chữa chúng ta khỏi bệnh câm và điếc trước quyền năng Lời Ngài. Chúng ta có thể cảm nhận sự câm và điếc đó qua thái độ ơ hờ lắng nghe Lời Chúa, trước sự vô cảm của mình khi tham dự Thánh Lễ, trước những đau khổ qua việc dửng dưng trong những cái nhìn, những phê bình chỉ trích, những thóa mạ danh dự qua việc nói hành nói xấu tha nhân, hoặc có khi bè đảng làm khổ những người thấp mũi bé miệng, những cô nhi qủa phụ, một loại đại diện câm điếc đáng thương không được tỏ bày! Ai có thể nói những Kitô hữu ngày nay không bị câm và điếc!
Chắc chắn Chúa Giêsu còn phải vượt biên giới hoài để loan truyền Tin Mừng cứu độ tình thương của Người ngay trong tâm hồn các môn đệ Kitô hữu, để họ có thể mở tai và miệng rao truyền và sống Lời tình thương ấy. Đó cũng là cách giúp họ nhận ra tính Thiên Sai của Ngài hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, xin Chúa thương chữa lành tất cả chúng con, nhất là bệnh câm và điếc thời đại làm chúng con lãnh đạm trước sự cô đơn và khổ đau của tha nhân, để chúng con xứng đang hơn trong danh nghĩa Kitô hữu, những người con mang trên mình tên của Chúa và dấu chứng tình yêu mà chính Chúa đã âu yếm khắc ghi trong linh hồn chúng con. Amen
Lm. Raphael Xuân nguyên
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TÌNH YÊU THẬP TỰ
Lời Chúa Giêsu kết luận với ông Nicôđêmô như mở ra một chân trời bao la vô tận của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, nhất là với các tội nhân: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Người Con ấy đã chứng minh tình yêu của Cha mình dành cho loài người qua cái chết trên thập tự giá. Ta tự hỏi cây thập tự ấy có ý nghĩa gì trong đời sống nhân loại? Tại sao con người vẫn không thể nhận ra dấu chỉ yêu thương qua cây thập tự của Người?
Có thể nói cây thập tự của Chúa Giêsu dù có đẹp mấy trong ý nghĩa yêu thương, nó vẫn chỉ là biểu tượng, trừ khi con người tự nguyện nhận vác lấy và sống khía cạnh yêu thương bao la của nó mang lại. Quả thực, cây thập tự tự nó sẽ không có ý nghĩa nếu Chúa Giêsu đã không nằm trên đó để chết. Khi nhìn lên thập tự là ta nhìn vào Đức Kitô với các dấu đinh trên chân tay và cạnh sườn Người, và qua các chứng tích đó, ta có thể đọc được một tình yêu bao la cao vời trong những giọt máu sau cùng rớt xuống từ trái tim tràn đầy yêu thương của Người. Vác thập tự để theo Chúa là mang trên mình trọn vẹn con đường yêu thương mà Người đã đi qua, là vác thánh giá đời mình cùng với sự hiện diện của Đức Kitô chịu đóng đinh trên đó. Cái khía cạnh của tình yêu thật sự luôn kèm theo những hy sinh khổ đau như bài ngợi ca tự hiến trọn tình.
Nhìn vào đời sống con người như thấy đan kín những dấu vết tình yêu thập tự. Người ta chỉ suy tôn thánh giá của Chúa Kitô đúng nghĩa khi biết suy tôn thánh giá đời mình trong khía cạnh yêu thương và cho đi hết mình, điều mà Chúa Kitô đã làm. Suy tôn thánh giá đời mình cũng chính là nhận ra các dấu thánh giá trong đời là những dấu chỉ yêu thương của Chúa dành riêng cho ta. Do đó hiểu được tại sao Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô: Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Thánh giá lúc đó sẽ không còn là hình phạt, nhưng sẽ là dấu chỉ dành cho những ai biết nhờ vào nó để nhận lấy ơn cứu độ mà Chúa đã hứa và ban tặng. Hãy âu yếm ôm lấy cây thập tự của Chúa Giêsu dành cho riêng mình, và sẽ khám phá ra trọn vẹn ý nghĩa, bổn phận và phần thưởng của nó dành cho ta trong hành trình tình yêu thập tự.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN NĂM B
PHỤC VỤ KHIÊM TỐN
Mang thân phận con người, không ít thì nhiều, chúng ta cũng thường hay đo các giá trị hoặc đánh giá người khác dựa trên những vẻ bề ngoài hơn là thực chất trong tâm hồn, nhất là những giá trị đích thực của họ trước mặt Thiên Chúa. Không lạ gì khi các môn đệ Chúa Giêsu mới chỉ vỏn vẹn có mười hai người, mà cũng tranh luận xem ai sẽ là người làm lớn nhất trong họ. Chắc chắn các đánh giá về con người của các ông khác xa với điều Chúa Giêsu truyền dạy, nên Người đã tụ họp cả mười hai vị lại và phán: Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.'' Mức thang giá trị mà Chúa Giêsu đưa ra để đánh giá một người lãnh đạo: đó là sự khiêm tốn phục vụ anh chị em mình như người đầy tớ.
Thoáng lướt qua nguyên tắc này, chúng ta cảm nhận dễ dàng trong lời nói; nhưng nếu đem áp dụng vào thực tế cuộc sống trong tiến trình phục vụ thực sự một cách khiêm tốn thì không phải dễ. Nguyên việc phục vụ anh chị em mình mà thôi thì đã tốt lắm. Tuy nhiên nguyên nhân và động lực của việc phục vụ trong tâm thức của con người có thể đổi thay tuỳ theo tâm trạng và mục đích của họ. Có người thích phục vụ vì bản tính tự nhiên; có người thích phục vụ vì muốn được tha nhân để ý, nhất là trước đám đông hay tập thể; có người thích phục vụ vì muốn có quyền lợi và danh dự hơn người; lại có người muốn phục vụ để lợi dụng người khác đạt đến mục tiêu của riêng mình, vv... Nguyên tắc của Chúa Giêsu muốn làm lớn thì hãy tự làm người rốt hết'' trực tiếp nhấn mạnh đến việc phục vụ trong khiêm tốn. Bản chất của nguyên tắc này tự nó xóa đi cái ý định 'làm lớn' của người phục vụ. Làm người rốt hết là để có thể phục vụ hết mọi người một cách hiệu qủa. Sự phục vụ ấy xóa đi khoảng cách và mặc cảm giữa tha nhân và chính mình. Làm kẻ rốt hết để phục vụ cũng nói lên ý chí từ bỏ chính mình để làm theo ý và lợi ích của tha nhân. Nó hình như xóa hết cái tôi của kẻ phục vụ. Điều này rất đúng khi Thánh Phao Lô viết cho giáo hữu ở Philipphê về thân phận tôi tớ của Đức Kitô trong việc phục vu: Chúa Kitô vì chúng ta đã tự hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Phi 2:8-9)
Như thế, việc phục vụ tha nhân trong khiêm tốn như Chúa dạy đòi hỏi con người phải thực sự từ bỏ chính mình; nó cũng đồng nghĩa với việc đóng đinh mình vào thập giá. Từ bỏ cái tôi và nhân cách trong việc phục vụ không có nghĩa nhục mạ nhân phẩm, nhưng chính là bước vào con đường cứu độ của thập gía Đức Kitô, để nhờ đó hoàn hảo nhân phẩm đích thực của mình trong tư cách làm con Thiên Chúa.
Lm Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐƯỜNG HẸP
Để lãnh nhận nước trời với những điều kiện trong Phúc âm hôm nay: đó là thà mất một tay, một chân, một mắt, vv... nếu các phần thân thể ấy gây dịp tội, còn hơn là lành lặn hai tay, hai chân, hai mắt mà bị sa hỏa ngục! Việc đánh mất này do mình tự nguyện chứ không phải do tha nhân áp đặt; nói cách khác, muốn vào Nước Trời, mỗi cá nhân phải tự khép mình đi vào cửa hẹp như Chúa Giêsu đã dạy (Mt 7:13-14)
Đường hẹp dưới ánh sáng Tin Mừng có nhiều hướng đi: hướng đi mang tính tiêu cực như sám hối từ bỏ tội lỗi (Mt 3:2; Mc 6:12), sống tinh thần đạo dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (2 Cor 4:6) hơn là các hình thức bên ngoài của đạo (Mt 6:1; 2-4; 5-6; 16-18), luôn tìm sống theo ý Chúa hơn là sống theo ý mình (Mt 7:21-23). Hướng đi mang tính tích cực như phát triển bản thân với việc tăng gấp các khả năng Chúa ban (Mt 25:14-30), chọn đúng cách sống đạo phục vụ và yêu thương tha nhân nói chung, và ưu tiên riêng cho những người kém may mắn, bị ức hiếp, bóc lột, bỏ rơi... (Lc 10:29-37; Mt 25:31-46), và nhất là tìm sống gương mẫu và kết hiệp đời sống đạo thực tế với đời Chúa Giêsu trên dương thế đã đi qua.
Con đường Chúa Giêsu đã đi qua được tóm gọn trong con đường thánh giá. Lúc sinh ra Chúa đã nằm trên nôi thánh gía nghèo hèn hang lừa tuyết lạnh; lúc rao giảng Tin Mừng, Chúa đã hiến thân gắn đời mình với thập giá của đời nhân loại qua những chia sẻ đau thương trong giới hạn của họ, kể cả gánh lấy tội lỗi là nguyên nhân của sự chết; đồng thời Chúa cũng gánh lấy những rắc rối khó khăn và chống đối do con đường chia sẻ tình thương với con người; và sau cùng lúc chết, Chúa đã chọn chết trên thập tự, một con đường rất hẹp của thân phận con người, vì ở đó Chúa hầu như mất hết uy tín, mất hết quyền năng, mất luôn cả tình thân của các môn đệ, mất đoàn lũ dân chúng theo mình, và cô đơn nhất là mất luôn sự đỡ nâng của Thiên Chúa Cha rất dấu yêu của mình. Người đã tự nguyện đi vào con đường hẹp ấy để mở ra cửa trời cho tất cả nhân loại. Người đã đánh đổi đời mình trong con đường hẹp thánh gía để đem lại thênh thang hạnh phúc của ơn cứu độ cho mọi tội nhân.
Chúa Giêsu đã mất tất cả thân phận mình trong con đường hẹp để đổi lấy nước trời cho mỗi cá nhân con người, nếu hôm nay Người nói với tôi chỉ từ bỏ một phần thân thể để đổi lấy Nước Trời, tôi sẽ nghĩ sao? Đâu là con đường hẹp tôi đang chọn sống để mởi ra lối vào Nước Trời cho tôi?
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN NĂM B
NHÂN DANH TÌNH YÊU
Tiếng nói của con tim như vô hình nhưng vô cùng mãnh liệt. Nó cứ âm thầm thúc đẩy để chủ thể tự nhiên tìm về đối tượng yêu đương, bất kể giới hạn tuổi tác, địa vị, hoàn cảnh hoặc ngay cả thời gian và không gian. Chẳng lạ gì vì yêu con người, Thiên Chúa đã xuống thế làm người và điên dại chết trên thập giá. Riêng về những tương quan tình yêu giữa con người với nhau, nhất là tình yêu đôi lứa, vợ chồng, tiếng nói tình yêu đã khiến họ bị hút lại gần nhau, yêu nhau, cho nhau, xâm nhập nhau đến nỗi Thánh Kinh đã diễn tả: Người ta sẽ bỏ cha mẹ mà kết hiệp với vợ (chồng) mình, họ không còn là hai, nhưng là một huyết nhục. Đó là sức mạnh của sự quyến rũ và hấp dẫn của tình yêu, nhất là ở thuở ban đầu khi mới yêu nhau.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác của tình yêu thể hiện trong đời người, rất nhiều người đã bị mù quáng không thể phân biệt được tình yêu thật và tình yêu giả. Họ chỉ biết nhân danh tình yêu để vượt qua những biên giới của văn hóa, đạo lý, luật pháp, truyền thống và ngay cả luật Thiên Chúa. Khi vượt qua các giới hạn này, tình yêu không còn tinh tuyền và đẹp đẽ với những nét đẹp mẫu của tình yêu Thiên Chúa khắc ghi trong tim nhân loại. Nó thường hay bị hướng dẫn và nhuộm kín màu sắc của tội lỗi. Bởi thế, vì nhân danh tình yêu nên xã hội con người tràn đầy những nạn nhân thê thảm của tình yêu ngang trái. Người ta không thể tưởng tượng được một người cha có thể phạm tội dâm dục với con gái mình, hoặc người vợ hay chồng dám vô tình liều bỏ lũ con thơ dại để ích kỷ sống với người khác! Những thảm họa ấy đã và đang xẩy ra trong rất nhiều xã hội hôm nay. Chúng cũng xẩy ra thời Mai sen khi ông cho phép làm giấy ly dị. Điều thay đổi đó mà chính Chúa Giêsu xác định là do sự cứng lòng của con người, chứ từ đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng con người thì không có như vậy. Và ngày nay, vì hạnh phúc con người, Giáo hội Công Giáo cũng tháo gỡ nhiều trường hợp hôn nhân không thành với hy vọng cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn cả đạo lẫn đời. Tuy nhiên, ân huệ ấy sẽ không bao giờ trở thành sự khuyến khích ly dị, mà chỉ muốn xác định tính cách bất hợp pháp của hôn nhân cũ mà thôi; đồng thời cũng nhắc lại điều Chúa Giêsu phán: Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân rẽ.
Bạn và tôi đều biết, theo triết gia Pascal, thì con tim mình có lý lẽ riêng của nó, đôi lúc không thể hiểu và cũng không thể kiểm soát hay điều khiển nổi những đam mê khi con tim say đắm. Vào thời điểm nào đó của cuộc đời, khi thức giấc sau những đêm dài tăm tối, chúng ta sẽ hiểu được lý do thực của việc nhân danh tình yêu để làm gì, nhất là việc làm ấy một khi đúng với luật và ý Chúa, nó sẽ kết thúc ở cõi vĩnh hằng nơi chỉ còn đức mến mà thôi.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN NĂM B
GIÁ TRỊ CỦA CẢI VẬT CHẤT
Dưới cái nhìn và mục đích người đời, của cải vật chất được xếp ưu tiên lên hàng đầu. Người ta thường nhắc và kính trọng những người giàu có nhiều tiền tài vật chất, chẳng hạn mỗi năm ở xứ Mỹ này tên tuổi các nhà tỷ phú thường được dành cho một hàng đặc biệt trên báo chí, internet vv... Còn trong sinh hoạt thường ngày như tương quan bạn bè, họ hàng, xóm làng, và nhất là tương quan buôn bán và kinh tế, người ta thích liên lạc và tiếp xúc với những người giàu có. Điều này nhiều khi cũng xẩy ra trong tương quan tôn giáo nữa, nhất là khi cần tiền để làm một công trình nào đó. Dưới ánh sáng Tin Mừng, tức quan niệm và đường hướng của Chúa Giêsu, qua chứng minh về một chàng thanh niên giàu đã từ chối theo Chúa, một kết luận xem ra rất khắt khe về người giàu của cải vật chất đã được đưa ra: Những người giàu có vào Nước Thiên Chúa khó biết bao!.. Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc thật khó mà vào Nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa. Chúng ta nghĩ gì về quan niệm và đường hướng này?
Trước hết xin đừng lẫn lộn và vơ đũa cả nắm tất cả những người giàu, mà phải phân biệt một chi tiết rất quan trọng Chúa Giêsu muốn nói đến: đó là những kẻ chỉ cậy dựa vào tiền bạc vật chất mà thôi mới khó vào Nước Thiên Chúa. Như thế, Chúa Giêsu không kết án người giàu vật chất. Ở một chỗ khác trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc không được làm tôi hai chủ: hoặc chọn tiền tài vật chất hay là chỉ được chọn Thiên Chúa! Đúng hơn, Chúa nhắc con người hãy trở lại với tóm lược căn bản của Mười Giới Răn: Thờ phượng Chúa trên hết mọi sự. Riêng trong trường hợp muốn nên trọn lành, tức cảm nghiệm sự thánh thiện của Thiên Chúa trong tâm hồn mình ngay ở đời này, thì nguyên việc giữ các Điều Răn vẫn chưa đủ. Theo đề nghị của Chúa cho người thanh niên giàu, thì anh phải bán hết gia tài của anh và tặng cho những người nghèo khó, nghĩa là phải xa hẳn tương quan vật chất, không để chúng điều khiển đời mình. Lệ thuộc vật chất sẽ trở nên những kẻ cậy dựa tiền bạc như Chúa nói.
Nếu các tông đồ đã dám bỏ tất cả để theo Chúa, là vì các ông đã tuyệt đối tin vào Người, vào quyền năng cũng như tình thương của Người. Hơn nữa dù giàu hay nghèo, con người đều là con cái Chúa. Nếu biết chia sẻ tình thương cho nhau, thì của cải vật chất sẽ biến thành tiền mua lấy Nước Trời, bởi vì đối với con người nhiều việc không thể được, nhưng đối với Ngài, mọi sự đều có thể, nhất là quyền cho ta vào Nước Trời.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN NĂM B
TỪ THU BUỒN ĐẾN XUÂN CỨU ĐỘ
Mùa thu đang len lén vào hồn thi nhân khiến những chiếc lá vàng rơi không khởi đầu một cõi chết, nhưng tô điểm và báo hiệu một sức sống vụt lên khi kết hiệp với những bước chân xào xạc của những chú nai vàng ngơ ngác. Màu trời Mùa Thu có khi trong xanh cao vút niềm hy vọng, nhưng có lúc vẩn đục khói sương của những tâm hồn trĩu nặng u buồn khói mây! Khi màu đen xám chiếm đoạït và loang lổ cõi lòng, hồn ta sẽ mãi là thu buồn bất tận. Màu sắc chiếm đoạt cũng đồng nghĩa với danh vọng hão huyền ngự trị lòng nhân loại. Hai môn đệ Giacôbê và Gioan khi muốn được ngồi bên tả và bên hữu Thầy Giêsu, lập tức mùa thu buồn loang lổ trong lòng những môn đệ khác. Thầy Giêsu lại phải vẽ lại màu sắc cho Mùa Thu cao xanh trong sáng ơn thánh trong hồn các môn đệ: Việc ngồi bên tả hữu trong Nước Chúa sẽ dành cho người Chúa tuyển chọn...Vác thập giá và đóng đinh mình vào đó là bổn phận những người tự nguyện theo Thầy... Cứ tiếp tục phục vụ và hành động như thân phận người đầy tớ để giá trị của nó biến thành Mùa Xuân cứu rỗi.
Có lẽ các môn đệ Đức Giêsu trong thoáng chốc sẽ chẳng thể hiểu cũng như sẽ không thể chấp nhận lý thuyết ngược đời ấy: Ai mà lại dại dột làm đầy tớ kẻ khác! Đúng vậy, khi Thầy Giêsu đang lên Giêrusalem để thực hiện sứ mạng cứu chuộc nhân loại qua cuộc khổ nạn, thì các môn đệ vẫn còn tranh chấp nhau xem ai sẽ là kẻ được làm lớn nhất trong Nước Trời theo kiểu nhân loại! Tâm trạng ấy dù đã qua hơn hai mươi thế kỷ, nó vẫn là những áng mây chiều thu xám ngắt trong tâm hồn các tín hữu Đức Giêsu, và vẫn ngự trị cuộc đời những người hiến dâng cuộc sống theo Ngài. Buồn ơi là buồn! Danh vọng hão huyền thế gian sao mạnh mẽ quá! Những lời khuyên và tiếng nói của Chúa Giêsu như mất hút trong mùa thu ảm đạm đời người dương thế.
Biết thế, Chúa Giêsu vẫn không thất vọng, Ngài tiếp tục đi hết con đường phục vụ như người đầy tớ chết treo thân mình trơ trụi trên cây thập tự. Vừa khi sứ mệnh kết thúc, cả bầu trời đen tối thất vọng lao xuống hồn các môn đệ. Nhưng thoáng chốc, mây mù thu buồn tan biến khi hy vọng của Xuân cứu rỗi vươn lên với bóng dáng Phục sinh thấp thoáng của Thầy Giêsu. Các môn đệ bắt đầu nhận được sức mạnh để loan truyền ơn cứu độ cho thế giới. Qủa thực, đức tin và tình yêu chỉ có thể thực hiện khi các môn đệ Chúa Giêsu tự cảm nghiệm nơi mình: Muốn làm lớn, muốn Nước Chúa trị đến, cần phải phục vụ như người đầy tớ hết lòng hy sinh và hy sinh tận tình.
Xin Chúa hãy biến đổi lòng chúng con như đã biến đổi các môn đệ Chúa, Chúa ơi.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN NĂM B
CẢNH MÙ
Thế giới người mù bị thu hẹp trong những con đường quen thuộc giới hạn và những thói quen cố định với những tương quan rất ngắn ở thế giới bên ngoài. Cái nhìn của người mù bị đóng khung trong bộ óc nhỏ bé bằng những tưởng tượng không đủ phong phú do sự pha chế của hai màu trắng đen hạn hẹp bá chủ! Cuộc đời người mù là những tiếng kêu cứu gần như tuyệt vọng, nên chẳng ai thấy được niềm vui như chính họ không bao giờ nhìn thấy nụ cười trên môi mắt mình. Cứ quan sát mãi thì càng thấy cảnh mù thê thảm mãi! Nhưng nếu đem so sánh với cảnh mù tâm hồn, thì cảnh mù thể xác vẫn bớt thê thảm hơn.
Đúng thế, sự thê thảm của cảnh mù tâm hồn bi đát hơn mù thể xác là vì kẻ mù ít khi hoặc có khi chẳng bao giờ biết mình hay nhận ra mình đang bị mù! Lời Chúa Giêsu nói về cảnh mù này rất đúng: Kẻ mù dắt kẻ mù, cả hai đều rớt xuống hố! Cảnh mù tâm hồn sẽ không cho người mù thấy được vẻ huy hoàng, uy nghi của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình và trong muôn tạo vật. Mù tâm hồn sẽ mất cảm giác và cảm nghiệm của tình thương Chúa và tình yêu nhân loại, nhất là trước những cảnh khổ đau của con người. Mù tâm hồn sẽ giới hạn người mù trong thế giới ích kỷ hưởng thụ vật chất, xác thịt và những thói quen xám đen tội lỗi. Không biết mình mù, bởi vì tội lỗi che khuất tâm hồn và tương lai hạnh phúc thật: Hạnh Phúc thiên đàng. Mất Chúa và mất Nước Trời là sự mất mát thê thảm nhất của cảnh mù tâm hồn.
Phản ứng của người mù trong Tin Mừng hôm nay chiếu sáng anh và chiếu sáng chúng ta. Sự mong mỏi, ước ao được chữa lành đôi mắt đã khiến anh lao tới Đức Giêsu, la to lên và to lên mãi: Lạy ông Giêsu, xin thương đến tôi. Không ai có thể cản ngăn nổi ước vọng và hành động của anh. Đó cũng là đức tin mãnh liệt của anh nơi Đức Giêsu, khiến anh được cứu rỗi. Người mù đã nói lên chân lý vĩ đại: Chỉ có Chúa mới có thể cứu chữa con người khỏi cảnh mù lòa cả thể xác lẫn tâm hồn.
Trong đời sống thiêng liêng, sự trở về với Chúa luôn là một hồng ân của Ngài. Hồng ân ấy tác động hồn ta như nước nhiệm mầu ơn thánh rửa sạch tối tăm tội lỗi và đưa ta trở về hạnh phúc trong tình thương Chúa. Nhưng muốn khỏi sống cảnh mù lòa, lòng phải mỏi mong và hồn phải thét gào như người mù ước muốn cầu xin thoát khỏi cuộc đời thê thảm tăm tối. Sự tỉnh thức thiêng liêng ấy là một hoạt động hai chiều: chiều của Chúa và chiều của ta. Đức tin nơi lòng ta và ơn thánh của Chúa một khi kết hợp, sẽ phá tan mù tối cõi lòng. Ta hãy đứng lên và lao về phía Chúa đi!
Lm. Raphael Xuân Nguyên
MÙ VÀ SÁNG
Phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù tên Batimê là phép lạ sau cùng trước khi Ngài tiến vào thành Giêrusalem hoàn tất sứ mạng cứu chuộc nhân loại. Phép lạ này được lồng trong khung cảnh địa lý, lịch sử và Kinh Thánh, đưa đến những ý nghĩa biểu tượng trong sứ mạng của Chúa Giêsu, và soi sáng cho các môn đệ cũng như tất cả những người theo Chúa trên con đường tình yêu cứu độ của Người.
Trước hết, chúng ta được biết phép lạ này xảy ra tại thành phố cổ nhất thế giới mang tên Giêrikhô. Nó nằm dưới mặt biển chết độ trên dưới 250 mét. Giêrikhô cũng là thành phố cổ nhất có người cư ngụ gần 8000 năm trước Chúa Giáng Sinh. Đối với người Do Thái, thành phố này như một biểu tượng giải phóng trước khi tiến vào Đất Hứa mà Giêrusalem là thành trì ánh sáng của họ.
Riêng về mặt Thánh Kinh, thì thành phố này cũng là chặng dừng chân cho các cuộc hành hương của những người Do Thái tiến về Giêrusalem để tham dự các Ngày lễ trọng đại của họ. Và với Chúa Giêsu, thì nơi đây đã ghi dấu một phép lạ của Người phá tan bóng tối nhân loại qua việc ban ánh sáng cho người mù tên Batimê. Cái ý nghĩa của tên thành phố Giêrikhô thật ý vị, vì Giêrikhô theo tiếng Do Thái là thành phố mặt trăng, thành phố của ban đêm. Nó rất hợp và giải thích được ý nghĩa trong phép lạ phá tan bóng tối trong mắt người mù.
Chính phép lạ này của Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ và những ai theo Chúa khám phá ra cảnh mù lòa tâm hồn của mình, cho dù luôn nghĩ mình đã quyết tâm theo Người với đôi mắt sang của thể xác. Tại sao vậy?
Chúng ta để ý trong Tin Mừng thánh Marcô, Chúa Giêsu đã loan báo cho các môn đệ đến ba lần về cuộc thương khó của Người, cách thức mà Chúa dùng để cứu chuộc nhân loại: đó là đường thập giá và phục sinh, nhưng các môn đệ “vẫn mù” không thể nhận ra sứ điệp ấy, vì họ luôn từ chối đau khổ, và chỉ chấp nhận quan niệm vinh quang phục sinh theo nghĩa nhân loại, một loại vinh quang thống trị lẫn nhau. Những sứ điệp khác nhau của Chúa Giêsu mà chúng ta được nghe thật rõ ràng trong các Chúa Nhật trước đó, tất cả đều quy về cùng một mục đích: phải "mất mạng sống mình" (Mc. 8,35), phải trở nên "người rốt hết" (Mc. 9,35), phải tự "móc mắt, chặt tay, chân" để khỏi phạm tội (Mc. 9,47), phải sống "trung thành trong bí tích hôn phối" đến độ anh hùng (Mc. 10,9), phải "uống chén đắng và chịu phép rửa", phải trở nên "đầy tớ của mọi người" (Mc.10,38-44). Với sức loài người, cho dù các môn đệ đã theo Chúa gần hết ba năm, và cho dù ngay cả ngững ai đã tận hiến cho Chúa hôm nay suốt cả cuộc đời, cũng không thể theo và giữ được những mệnh lệnh ấy, nếu không được Chúa giúp đỡ bằng quyền năng và sức mạnh tình yêu của Người. Có thể nói đây chính là cảnh mù của những con mắt tâm hồn trong những đôi mắt sang của thể xác! Người ta hay chọn lối sống giả hình để che lấp những hành động mù tối!
Dựa trên Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng nhận thấy người mù có một thính giác đặc biệt hơn những người bình thường, vì bằng lỗ tai của ông, ông đã nhận ra Chúa Giêsu con vua Đavít. Có thể nói đây là thính giác của đức tin, một sự nhạy cảm của niềm tin do lòng khát khao mong mỏi của ông được gặp Chúa Giêsu từ rất lâu khi nghe nói về Người. Không may cho ông, vì vào chính lúc ông la to lên câu điệp khúc mà chúng ta nài van vào đầu mỗi Thánh Lễ: Kirie, eleison “ lạy Ông Giêsu, xin thương xót tôi, thì có những kẻ uy thế sáng mắt bắt ông phải im đi. Đúng là thực tế phũ phàng trong nhân loại mà thời nào cũng có: Đó chính là cảnh những kẻ nắm quyền hành, luôn bắt những kẻ thấp cổ bé miệng và xấu số phải im đi trước những bất công mà những con người ngạo mạn đó tạo ra cho những kẻ xấu số! Họ chính là những kẻ mù tình thương trong đôi mắt sáng thể xác, trong khi người mù không trông thấy, thì linh hồn hồn ông lại rực sáng niềm tin yêu và cậy trông nơi Đấng Cứu Thế.
Bài Tin Mừng kết thúc bằng thái độ đầy nhân từ yêu thương của Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên lành đi tìm những chiên lạc, những người tội lỗi, những kẻ xấu số mang đủ loại tật bệnh thể xác và tinh thần. Người nói với ông mù: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Dĩ nhiên ông ta muốn được sáng mắt: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được" Và Đấng chăn chiên lành trìu mến nói với ông ta: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!"
Suy niệm Tin Mừng hôm nay sẽ như sự đánh thức tâm linh cho tất cả những ai đang tin và theo Chúa Giêsu trên đường thập giá tiến đến vinh quang phục sinh với Người. Chính Chúa Giêsu muốn phá tan những bóng tối tội lỗi đủ loại, nhất là lòng hận thù, ganh tỵ và vô cảm do sự ích kỷ tột độ trong tâm hồn con người nói chung, và nơi những môn đệ của Chúa nói riêng. Thành phố Giêrikhô sẽ mãi mãi vang danh sứ điệp sau cùng qua phép lạ mà Chúa Giêsu chữa người mù tên Batimê. Nó cũng là biểu tượng kêu gọi mỗi người chúng ta lao tới tình yêu thương vô bờ bến của Chúa, bằng cách mở lòng đón nhận những lời Chúa dạy từ bỏ chính mình, để cùng vác thập giá với Người trong hành trình đức tin của cuộc sống mình, và nhất là mở lòng đón nhận tất cả những ai xấu số và bất hạnh hôm nay. Đừng chà đạp họ, vì họ là biểu tượng của lòng thương xót Chúa, và cũng là gương sáng của những người có đôi mắt rực sáng tâm hồn.
Lạy Chúa Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót con!
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN NĂM B
LUẬT YÊU
Nói đến tình yêu, thì hình như không thể nói đến luật pháp, bởi tình yêu không thể lý luận, trong khi luật pháp đòi phải dùng lý trí! Vậy mà luật YÊU của Chúa Giêsu lại là luật bó buộc nhất: trước hết đối với Thiên Chúa, con người buộc phải YÊU hết lòng, hết trí khôn và hết sức; còn đối với tha nhân thì buộc phải YÊU mãnh liệt như yêu chính mình. Luật yêu ấy như thế có hai chiều: chiều dọc đi lên Thiên Chúa và chiều ngang đi tới tha nhân. Vấn đề ở đây là nếu đã trở thành luật, thì tình yêu còn có giá trị nữa không? Và làm cách nào để có thể thực hiện được luật YÊU của Chúa?
Thoạt đầu mới đọc luật YÊU này, hình như con người cảm thấy như mình bị gò bó vào tình yêu, không còn lối thoát nào khác, nếu không thi hành, chắc chắn sẽ sống rất xa Nước Thiên Chúa, hay nói cách khác là không được sống trong Nước Chúa! Tuy nhiên trong thực tế, nếu đọc kỹ cách Chúa Giêsu trình bày: Hỡi Israel, hãy nghe đây, Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi,... và hãy yêu mến đồng loại như chính mình. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó, chúng ta nhận ra nét đẹp tuyệt vời hấp dẫn của Tình Yêu, chứ không phải tính bó buộc và lý luận của luật pháp. Yêu Chúa trên hết mọi sự, vì Ngài là Đấng tuyệt đối và duy nhất, không còn Đấng nào khác nữa. Nếu phải so sánh khi yêu, thì con người cũng hay chọn lựa đối tượng nào thích hợp nhất, hấp dẫn nhất, đẹp nhất, tài ba nhất, mạnh mẽ nhất, giàu có nhất, có nhiều khả năng nhất, cái gì cũng nhất, vv... Thiên Chúa là Đấng siêu việt có tất cả những điều kiện nhất đó để đáng được yêu và phải yêu: Ngài là Tình Yêu, tức là nguồn của mọi tình yêu, tự nhiên sẽ thu hút mọi tạo vật yêu Ngài. Nếu con người hiểu biết về Thiên Chúa, có lẽ sẽ tự nhiên yêu Ngài một cách mù quáng, say đắm và mãnh liệt. Họ sẽ không cần lý luận, bởi vì tình yêu của Chúa chiếm đoạt toàn vẹn con người mình mất rồi.
Riêng chiều Yêu ngang đi đến tha nhân, vì là khía cạnh thứ hai của tình yêu mà Chúa liên hệ vào để luật YÊU nên trọn vẹn, xem ra hơi gặp cản trở trước bản tính nhân loại giới hạn và yếu đuối, nhưng thực ra nó có cùng cường điệu hấp dẫn của tình yêu với khía cạnh thứ nhất. Bởi khi yêu ai thực, tự nhiên mọi ranh giới cá nhân bị xóa bỏ, con người muốn đồng hóa mình với đối tượng mình yêu; như thế, chẳng những họ có thể yêu bằng và có khi còn yêu hơn yêu mình nữa là khác. Trong thực tế cuộc sống, vì yêu, ai cũng đều 'bỏ mạng', mất mình: đó là luật của tình yêu. Yêu Chúa và Yêu tha nhân càng nhiều, ta càng giống với nguồn tình yêu của mình là Chúa, cho đến một lúc rồi cũng sẽ 'điên dại' vì yêu, và sẽ luôn hỏi mình tại sao và tại sao!
Lm. Raphael Xuân Nguyên
YÊU HẾT LINH HỒN, HẾT TRÍ KHÔN VÀ HẾT SỨC. . .
Đã nhiều lần tôi tự đặt câu hỏi cho chính mình: Làm sao có thể “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn?” Thực ra con người chỉ là tạo vật rất giới hạn, cho dù có dùng hết khả năng của linh hồn, trí khôn và cả thể xác để yêu Chúa, thì điều gì sẽ xảy ra và bằng cách nào để thực hiện việc yêu đó?
Tạm bỏ qua những cách thức diễn tả tình yêu Chúa như đọc kinh, rước sách, cầu nguyện, và ngay cả việc tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật. Lý do là vì trong khi thực hiện các việc đó, con người thường chia trí và thực hiện vì thói quen hay vì a dua hình thức! Điều quan trọng để tìm ra câu trả lời chính là dựa trên chữ “YÊU”, và yêu hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức.
Khi nói đến yêu, thì lập tức cả chủ thể lẫn đối tượng bị đồng hóa và không còn ranh giới, nghĩa là hiện hữu trong nhau. Để hiểu được tình trạng này, hay đúng hơn không cần lý luận, chúng ta rất cần phải dựa vào Lời Chúa Giêsu trả lời cho vị tiến sỹ luật chất vấn Người: Hỡi Israel, hãy nghe đây, Đức Chúa là Thiên Chúa các người, là Chúa duy nhất (tức là một), hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng. . .” Thiên Chúa là duy nhất, là MỘT, do đó Ngài tự hiện hữu. Sự hiện hữu này đủ cho Ngài và làm phát sinh các sự hiện hữu khác. Những hiện hữu ấy mà chúng ta gọi là các tạo vật, trong đó có con người là chính chúng ta. Hiện hữu của chúng ta chỉ tồn tại khi luân chuyển và tháp nhập, tan biến trong sự hiện hữu của Thiên Chúa. Và để diễn tả hay cảm nghiệm được sự hiện hữu của mình trong Thiên Chúa, Chúa Giêsu dạy phải YÊU hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức. Chúng ta nhớ lại trong Tin Mừng thánh Gioan có lần Chúa Giêsu diễn tả chữ yêu này bằng câu: Thầy ở trong các con và các con ở trong Thầy, sẽ sinh trái. . . Chữ Yêu mà Chúa Giêsu dùng, nói lên bản tính Thiên Chúa, mà Thánh Gioan gọi là Tình Yêu. Như thế khi yêu Chúa, chúng ta tự nhiên hòa nhập vào bản tính của Ngài và hiện hữu trong Ngài. Những chữ hết long, hết linh hồn, trí khôn chỉ là cách diễn tã cường độ hòa nhập trong bản tính tình yêu của Thiên Chúa đó thôi.
Nhưng cường độ hòa nhập ấy sẽ được thực hiện bằng cách nào?
Nếu đọc tiếp Tin Mừng hôm này, chúng ta sẽ nhận ra nhờ câu đối đáp giữa vị tiến sỹ luật và Chúa Giêsu: “Vâng, Thầy dạy đúng lắm . . .” và Chúa Giêsu khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu.” Người Do Thái đã mong đợi Nước Thiên Chúa cả bao ngàn năm. Chúa Giêsu mạc khải cho họ và nhân loại biết về Nước Thiên Chúa này. Khoảng cách giữa vị tiến sỹ và dân Do Thái rất gần với Nước Thiên Chúa đó, bởi vì Nước Đó chính là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà họ đang đối đáp và tiếp xúc. Điều này cũng cắt nghĩa ý nghĩa và bổn phận thờ phượng Thiên Chúa duy nhất trong giới răn thứ nhất mà người Do Thái ôm ấp, nghiền ngẫm và học hỏi trong suốt cuộc đời từ đời nọ qua đòi kia, bởi vì Torah là cả gia sản quí báu Thánh Kinh của họ. Và giờ đây Chúa Giêsu muốn trực tiếp cho họ biết Nuớc Thiên Chúa đang hiện hữu giữa họ khi thi hành giới răn yêu mến Ngài. Nhưng yêu mến cách nào để có thể hòa tan trong sự hiện hữu ấy, điều mà những tạo vật giới hạn như con người được tham dự vào?
Chúng ta lại phải nhờ vào Lời mạc khải của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan: “Hãy yêu như Thầy yêu các con” (Jn 15:12) và yêu như Chúa Giêsu là yêu hết mình, yêu đến độ hiến thân làm hy lễ, đến độ trở nên của ăn của uống tan biến thành sự sống. yêu như Chúa yêu sẽ giúp con người hòa tan trong bản tính Thiên Chúa là tình yêu. Giờ đây thiết tưởng tôi cũng như mọi người hiểu được tại sao những tạo vật như chúng ta lại có thể yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức, cho dù những cách thức diễn tả tình yêu có khiếm khuyết, máy móc và không hoàn hảo như đọc kinh, rước sách hay cầu nguyện, vv. . . Ở một khía cạnh hoặc góc độ khác của tình yêu, chính bản tính nhân loại của Chúa Giêsu đã hoàn hảo việc thờ phượng của chúng ta để diễn tả tình yêu ấy trong hy lễ hiến dâng của Người rồi.
Chúng ta hãy tôn thờ và tri ân tình yêu Chúa mỗi khi muốn nói lên chữ yêu Chúa trong trái tim mình. Những bất toàn trong việc diễn tả tình yêu của chúng ta với Chúa đã được Chúa Giêsu bù lấp. Từ đây, điều còn lại và cũng là tất cả con đường đức tin vào tình yêu Chúa của chúng ta, chính là cảm nghiệm được tình yêu Chúa trong sự hiện hữu của chính mình.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN NĂM B
CHÂN THÀNH VÀ GIẢ TẠO
Lại một khía cạnh khác của tình yêu: Tình yêu thật thì cho đi hết; còn tình yêu giả thì luôn lợi dụng, lừa dối và chiếm đoạt. Hai khía cạnh này nổi bật trong hình ảnh người Pharisiêu lộng lẫy nhung lụa và bà góa đơn sơ nghèo nàn trước sự quan sát và cái nhìn của Chúa Giêsu.
Tài tình và tinh tế quá! Người ta thường bị đánh lừa trước những vẻ hào nhoáng bên ngoài, nhất là trong tình yêu. Không nói đến tương quan tình yêu đôi lứa hoặc vợ chồng, mà trước bất cứ tương quan nào giữa cuộc sống nhân loại, cái nhìn và đánh giá đầu tiên luôn bị lệ thuộc vào vẻ bề ngoài của sự vật cũng như con người. Lâu dần, khi vẻ bên ngoài bị khám phá, bị lột trần, người ta mới thấy được thực chất bên trong. Và trong tình yêu, nếu chỉ dựa trên vẻ bề ngoài, thì trước sau cũng sẽ bị lừa, bị chiếm đoạt và bị lợi dụng. Những người Biệt Phái bề ngoài sạch sẽ, sang trọng trong áo quần, lịch thiệp trong lời nói, trịnh trọng trong dáng vẻ, vì lúc nào họ cũng tỏ ra mình là bậc thầy thiên hạ. Chỉ có Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Thầy duy nhất và thực sự, mới thấy được thực chất xấu xa của những con người giả hình qua bóng dáng và nhãn hiệu bên ngoài của họ: Họ giả bộ đọc kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà góa. Nếu thực như vậy thì bỉ ổi và ghê tởm qúa!
Rồi khi nhìn một bà góa bỏ tiền vào thùng trong đền thờ, Chúa Giêsu nhận ra ngay tính cách chân thành và trung thực của tình yêu: những người bỏ nhiều tiền hơn bà góa nghèo, nhưng là tiền dư; còn bà này bỏ ít, nhưng là cho đi tất cả những gì bà có để nuôi thân. Qủa thực, nhận xét tinh tế của Chúa Giêsu về tính trung thực của tình yêu rất đáng khâm phục và đón nhận. Một đàng nó dạy ta khi yêu là phải cho đi hết mình. Bà góa yêu Đền Thờ, và qua Đền Thờ là yêu chính Thiên Chúa ngự ở đó, nên đã cho đi hết những gì mình có, cho dù nhỏ bé về vật chất, nhưng lại vĩ đại trong tấm lòng và trong tình yêu. Đàng khác, nó cảnh cáo ta đừng bắt chước sự giả tạo của những người Biệt Phái qua cách sống và cư xử của họ: họ dùng vẻ hào nhoáng bên ngoài để lừa đảo và chiếm đoạt tình yêu hay của cải của những người nhẹ dạ, yếu đuối, đơn sơ chân thành và chưa kịp hiểu biết, ngay cả những người góa bụa đáng thương cũng không tha. Bức tranh vẽ người biệt phái giả hình và bà góa nghèo chân thành của Chúa Giêsu sẽ mãi mãi ghi trong tim chúng ta. Nét tài tình và tinh tế của nó vừa đẹp trong luật tình yêu, lại vừa là chân lý cuộc sống dẫn ta đến hạnh phúc thiên thu vĩnh hằng.
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và tất cả chúng ta cách đánh giá con người chân thành hay giả tạo chẳng những qua cách thức họ cho đi, nhưng còn qua chính con người của họ, nghĩa là nhìn từ trong tâm hồn. Người đi ngược lại với cách đánh giá của con người, để mạc khải về chính mình Người qua người đàn bà nghèo khó. Chúng ta biết rằng, chỉ còn vài tuần nữa là Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn cứu chuộc nhân loại. Người đồng hóa mình với người đàn bà nghèo khó khi cho đi tất cả sự sống của Người, nghĩa là tặng cho nhân loại tất cả, không giữ lại gì, dù là một giọt máu sau cùng trong trái tim mình. Giờ đây khi suy gẫm về cách thức cho đi của bà góa, chúng ta chẳng những biết cách tặng ban cho tha nhân khi học nơi bà sự chân thành, nhưng cũng khám phá ra tình yêu bao la vô bờ bến của Chúa Giêsu qua cuộc thương khó của Người: Người trở nên nghèo khó nhất trên thập giá, để chúng ta trở thành giàu có trong Nước Thiên Chúa.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN NĂM B
CÓ GÌ VUI!
Tin Mừng Chúa Nhật 33 Thường Niên luôn nhắc đến cảnh Ngày Tận Thế. Qua tường thuật ấy, người ta tự hỏi Có Gì Vui trong Ngày Tận Thế? Nội dung của ngày ấy được chia ra ba gia đoạn: Giai đoạn báo trước qua cảnh khốn cực của nhân loại, rồi đến cảnh vũ trụ bị tiêu hủy. Giai đoạn thứ hai là cảnh Con Người, tức Vua Giêsu Kitô ngự đến trong quyền uy và vinh quang cùng với muôn vàn thiên binh trên trời. Và cảnh thứ ba là cảnh phán xét của Thiên Chúa trên nhân loại qua việc họ được phân rẽ thành hai phía tốt và xấu. Kết cục của cảnh phán xét là những người tốt được hưởng vinh quang với Chúa; còn những kẻ xấu thì bị đày ải xa cách Thiên Chúa muôn trùng! Nếu phải trả lời câu hỏi Có Gì Vui trong Ngày Tận Thế, người ta sẽ không thể tìm ra giải đáp chung, mà đúng hơn mỗi cá nhân sẽ tự tìm lấy câu trả lời cho chính mình.
Trên quan điểm vật chất kinh tế, thì Ngày Tận Thế là một sự mất mát thiệt hại to lớn của vũ trụ và con người. Sự biến mất của những tinh tú và các hành tinh ngay trong thái dương hệ cũng kèm theo sự tiêu diệt nhân loại, vì mất ánh sáng, không khí và thực phẩm, sự sống vật chất sẽ hết tồn tại. Người ta đã dùng trí tưởng tượng để làm những phim ảnh phản ảnh Ngày Tận Thế để thưởng thức. Sự thưởng thức những hành động mạnh và hồi hộp ấy sẽ chỉ nhất thời, để giúp nhân loại quên đi trong chốc lát sau kết cục của phim ảnh, rằng Ngày đó sẽ còn lâu lắm, hoặc đây chỉ là ảo tưởng hoặc chỉ là sự tiên đoán rất mơ hồ! Tuy nhiên, đối với những ai tin vào Thiên Chúa và tin lời Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, thì Ngày Tận Thế luôn rất gần với thân phận mình. Đúng hơn, ngày đó đang đến với từng cá nhân sau mỗi khoảnh khắc thời gian qua đi,xuất hiện những biến dạng của thân xác, và chứng kiến cảnh ra đi vĩnh viễn của những người người thân yêu cũng như hàng xóm láng diềng!
Nhìn dưới khía cạnh tiêu hủy của vũ trụ, có thể không mấy vui, nhưng nếu nhìn bằng niềm tin vào Thiên Chúa, ta có thể nói Ngày Tận Thế sẽ rất vui cho mỗi cá nhân con người, vì là ngày họ được gặp lại chính thân mình đích thực, ngày họ được tái sinh trong hình ảnh của Thiên Chúa tạo dựng và được hưởng niềm hoan lạc vô tận trong Nhà Cha mình. Chúa Giêsu quyền năng và vinh qiang cùng với muôn vàn thiên thần đến đón họ về Nhà Cha sẽ là cảnh hạnh phúc nhất của nhân loại. Ngày Tận Thế chắc chắn sẽ không vui đối với những cá nhân bất hạnh, vì đã chọn cuộc sống xa Chúa trên dương thế. Như thế, đau khổ và vui mừng sẽ là giải đáp dành cho mỗi cá nhân do những chọn lựa sống của họ. Chúa Giêsu nhắc bảo con người: Nếu muốn có niềm vui trong Ngày Tận Thế, hãy nhìn vào dấu chỉ Cây Vả, để chuẩn bị mình biết đón tiếp Chúa, và ngày ấy sẽ trở thành ngày đợi mong, ngày hạnh phúc và ngày đoàn tụ. Hãy nhớ rằng, mỗi tư tưởng và hành động xấu xa tội lỗi của ta, đều ảnh hưởng đến số phận đời đời trong ngày đoàn tụ vĩnh viễn của chính mình.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT CHÚA KITÔ VUA
CHÂN LÝ LÀ CÁI GÌ?
Ngày xưa, theo cách hiểu bình thường, một người muốn được làm vua, thường phải thuộc về hoàng tộc. Kẻ được làm vua được gọi là thiên tử, tức con của Trời. Tư cách của vị vua cao sang quyền uy trên cả dân tộc mà ngài thống trị. Ông cầm quyền sinh tử con dân trong tay. Có lẽ sống với quan niệm đó, nên quan Philatô đã ngạc nhiên thắc mắc và hỏi Chúa Giêsu: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Câu trả lời của Chúa Giêsu càng làm cho Philatô ngạc nhiên khó hiểu đến thất vọng: Đúng tôi là vua. Nhưng tôi sinh ra là để làm chứng về Chân Lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi... Với trọng trách làm chứng về chân lý, nên Nước của Chúa Giêsu không thuộc về thế gian này, bởi thế gian không có chân lý, còn quyền của vua thế gian thì đồng nghĩa với bạo lực, nhờ đó ông có thể xây dựng tư cách vua của mình.
Chúa Giêsu đã tuyên bố Ngài đích thực là Vua. Tư cách của Ngài là sinh ra để rao giảng và làm chứng sự thật về Nước Trời. Chân lý của Nước Trời là tình thương và hòa bình vĩnh cửu. Những người thuộc về Nước Trời là đoàn chiên đông vô số kể thuộc mọi quốc gia và mọi dân tộc qua muôn thế hệ. Luật của Vua Giêsu là luật yêu thương: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con. Tư cách và bổn phận của những người thuộc về Chân Lý là rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cùng với sự phục sinh và lên trời của Đức Vua Giêsu. Xem ra cuộc sống và sinh hoạt của người dân Nước Vua Giêsu khác xa với đời sống trần gian của những vị vua trần thế. Đối với Philatô, tất cả những điều đó đều là bí mật, nên ông đã thốt lên: Chân lý là cái gì!
Mừng Lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta học được nhiều điều quan trọng trong khung cảnh cuộc đối thoại giữa Ngài với Philatô: Chỉ làm chứng về tư cách của mình khi nào cần tuyệt đối mà thôi, giống như Vua Giêsu không khoe khoang, hoặc bày tỏ quyền uy khi không cần thiết. Cùng với Vua Giêsu, những ai theo Ngài cũng phải sinh ra để làm chứng cho chân lý tình thương như trái tim nhân ái bao la của Ngài luôn rộng mở. Chứng nhân này đòi hỏi sự kiên nhẫn, can đảm, đầy nghị lực và hy sinh đến quên cả mạng sống mình. Và nếu ai tự coi mình thuộc về Nước của Vua Giêsu, người đó tuyệt đối phải chấp nhận vác thập giá và sẵn sàng chịu đóng đinh vào đó, mới có thể giơ cao cờ chiến thắng vinh quang phục sinh mà Vua Giêsu đã dẫn đầu. Có thể nói thập giá là sự khai mở cho những cuộc đời mới trong Nước Trời; và vinh dự của thập giá chính là chân lý sau cùng của tình thương mà Vua Giêsu đã làm chứng. Hiểu được điều đó sẽ giúp chúng ta vừa thuộc về, và vừa bước đi trong chân lý sự sống vĩnh cửu.
Lm. Raphael Xuân Nguyên