Chúa Kitô, Mùa Xuân Bất Diệt
Mùa Xuân là mùa của sự giao hòa, mùa trung dung nối kết giữa tiết đông lạnh gía và khí ấm áp của nắng hè, mùa tái tạo của vạn vật cỏ cây, và là mùa thanh bình nhất bỏi vì mọi sự ở mọi nơi đã được dung hòạ Đối với nhân loại, mùa xuân đúng là mùa để ta nhận định rõ về chính con người mình. Là người dân Việt, mùa xuân là lúc ta hiểu rành rẽ về cá nhân của mỗi người qua triết lý Tam Tài : Thiên Địa Nhân; có trời trên cao, có đất dưới thấp, và con người chính là tâm điểm nối kết cả hai Thiên Đạo và Địa Đạo.
Mùa Xuân là lúc nhắc cho con người biết nhận định chính mình là sức mạnh của Trời và nhân loại cũng chính là chủ nhân tron g vũ trụ, được Trời che chở. Nói như kiểu Sách Sáng Thế Ký 1:28 thì con người đứng giữa Trời và Đất để nối kết đôi bờ Thiên Địa cùng lúc làm vua của vũ trụ hoàn cầụ Vì là tâm điểm của đạo tam tài, con người, vì thế phải làm trọn ba đạo: đạo Trời, đạo Đất, và đạo Ngườị Chỉ mỗi khi nhân loại có "nhân đạo" trong tâm thật sự thì mới thực thi được đúng thiên ývà một khi đã có nhân đạo, địa ý là lối sống tự nhiên phải đến.
Mùa Xuân là mùa của sự giao hòa, mùa trung dung nối kết giữa tiết đông lạnh gía và khí ấm áp của nắng hè, mùa tái tạo của vạn vật cỏ cây, và là mùa thanh bình nhất bỏi vì mọi sự ở mọi nơi đã được dung hòạ Đối với nhân loại, mùa xuân đúng là mùa để ta nhận định rõ về chính con người mình. Là người dân Việt, mùa xuân là lúc ta hiểu rành rẽ về cá nhân của mỗi người qua triết lý Tam Tài : Thiên Địa Nhân; có trời trên cao, có đất dưới thấp, và con người chính là tâm điểm nối kết cả hai Thiên Đạo và Địa Đạo.
Mùa Xuân là lúc nhắc cho con người biết nhận định chính mình là sức mạnh của Trời và nhân loại cũng chính là chủ nhân tron g vũ trụ, được Trời che chở. Nói như kiểu Sách Sáng Thế Ký 1:28 thì con người đứng giữa Trời và Đất để nối kết đôi bờ Thiên Địa cùng lúc làm vua của vũ trụ hoàn cầụ Vì là tâm điểm của đạo tam tài, con người, vì thế phải làm trọn ba đạo: đạo Trời, đạo Đất, và đạo Ngườị Chỉ mỗi khi nhân loại có "nhân đạo" trong tâm thật sự thì mới thực thi được đúng thiên ývà một khi đã có nhân đạo, địa ý là lối sống tự nhiên phải đến.
Đối với niềm tin Kitô Giáo, Chúa Giêsu Kitô chính là một mùa Xuân bất diệt. Ngài từ Trời đếnvới thế gian là một con người toàn vẹn. Sống trọn hảo là một xác phàm con người như mọi người chúng ta, và Ngài là sự nối kết giữa hai hình ảnh của Cha Trời trọn vẹn và Mẹ đất vuông vắn. Còn ý nghĩa nào khác hơn về Ngôi Hai nhập thể: Có phải Ngài đến để cải tổ mặt đất? Đổi mới nền chính trị xã hộỉ Làm sáng tỏ những đen tốỉ Sắp xếp lại những bất ổ trên quả địa cầu này.... Chúa Kitô đến không một mục đích gì khác ngoài niềm ao ước thánh hóa con người, "purifying our inner lives" và mong sao cho con người biết cảnh tỉnh, biết sống toàn vẹn đạo làm người để sống cho ra "nhân đạo".
Con đường chuẩn bị cho Thiên Niên 2000 được bắt đầu từ năm nay 1997, năm thứ nhất, qua chủ đề: Chúa Kitô, hôm qua, hôm nay và ngày maị Để sửa soạn cho chương trình ba năm, Lên Đường đang cùng với toàn thể giáo hội không những chỉ suy niện mà còn sống với Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô nữa Số báo đầu tiên của năm nay đến đúng trong dịp Mùa Xuân. LĐ hân hoan chọn Chúa Kitô và đặt Ngài vào giữa tâm hồn mình để cho chính Ngài là mẫu mực "loài người" của đời sống người linh thao mỗi ngày và tiếp tục trong suốt năm 97 này, từng giây phút ta sống đều là những phút giây Xuân thật tươi đẹp với Chúa Kitô
Chuông giáo đường sẽ ru em ngọt ngào
Tình sẽ đẹp sẽ nghìn thu óng ánh
Đã chấp nhận thì phong ba gió lạnh
Ta cũng đi, ta sẽ đi miệt mài
Tay vẫn gọi ta hướng trọn tương lai
Về vùng đất có máu trời loang đổ
Trăng dịu hiền nhưng là hoa cám dỗ
Trăng không đến Adam đâu đau khổ
Cửa thiên đàng đâu đóng ngõ cài then
Thôi trăng ạ trăng ơi đừng quyến luyến
Lệnh ban rồi giã từ thôi trăng ơi
Tình của ta là tình đất tình trời
Ta ôm mộng giang tay vòng thế giới
Hỡi trăng ơi, trăng ơi đừng chờ đợi
Một chuyến đi chuyến định mệnh cuộc đời
Giơ tay vẫy không bao giờ trở lại
Thôi trăng ạ, trăng ơi đừng chờ đợi
Nếu tình trăng tình mênh mông vời vợi
Hãy chấp tay mỉm cuờivới muôn sao
Lời sám hối có bao giờ em tự thú?
Ta gối mộng giang tay tròn vũ trụ
Thì trăng ơi trong ánh mắt đưa duyên
Sao không biến thành tình yêu diệu huyền
Để hai đứa hân hoan tình cao cả
Ta muốn chết trên đồi cao thánh giá
Ta yêu lắm, yêu thiết tha vô cùng
Chiều Do thái có đau khổ lao lung
Có máu đổ cho tình sầu nhân thế
Thôi trăng ạ, trăng ơi đừng kể lể
Dẫu vườn mơ đang phơi phới tầm xanh
Nhưng nụ hồng vẫn yếu đuối mỏng manh
Hãy tặng nhau mùa tình hoa kinh thánh
Tôi đã gặp Ngài
Người công nhân xây dựng
Bàn tay chai cứng
Tôi đã gặp ngài
Người phu xe thô sơ
Ao đẩm mồ hôi
Tôi đã gặp Ngài
Người công nhân cùng khổ
Màu da sạm nắng
Tôi đã gặp Ngài
Người công nhân quét đường
Lầm lũi trong đêm
Tôi đã gặp Ngài
Em bé mồ côi
Thiếu ăn – thiếu học
Còn nữa tôi đã gặp Ngài
Nơi phố thị đông vui
Nơi đồng sâu ngút ngàn
Nơi rừng xanh hoang vu
Nơi bầu trời cao thẩm
Nơi biển cả mênh mông
Điều đáng nói là
Tôi đã gặp Ngài
“Khi tôi vấp ngã”
Ngài đã đến bên tôi
Với ánh mắt bao dung
Với vòng tay rộng mở
Với giọng nói dịu êm
Chính Ta đây, đừng sợ (Ga 6, 20)
Từ đấy Ngài và tôi
Như bóng với hình
Không rời xa… mà mãi mãi song hành. Mùa chay
Thập Giá
“Hãy vác Thập giá mình…” (Mt 16, 24)
Những lời này thật khác thường cùng độc nhất. Cũng như những lời khác của Chúa Giêsu chúng chứa đựng một thứ ánh sáng mà thế gian không biết đến. Chúng thật sáng ngời đến độ những con mắt tối tăm của con người và của cả những tín hữu Kitô nguội lạnh đều biọ chói lòa.
Có lẽ không gì bí ẩn cùng khó hiểu cho bằng thập giá; nó không đi sâu vào đầu óc cùng tâm hồn con người. Nó không đi sâu vào vì người ta không hiểu, vì thường người ta cghỉ mang danh là tín hữu, chỉ được Rửa tội, có thể là mộ đạo, nhưng rất xa vời điều Chúa Giêsu muốn cho ta.
Ta nghe nói đến Thập giá vào mùa Chay, hôn Thập giá vào thứ sáu Tuần Thánh, treo Thập giá trên tường. Nó đóng dấu ấn trên một vào hoạt động của ta, nhưng không được ta hiểu. Có lẽ mọi sai lầm là tại vì trên đời người ta không hiểu gì về tình thương.
Tình thương là từ đẹp nhất, nhưng lại bị bóp méo nhiều nhất, bị làm thành xấu xí nhất. Đó là yếu tính của Thiên Chúa, là sự sống của con cái Thiên Chúa, là hơi thở của người tín hữu Kitô, Nhưng đã trở thành gia sản, độc quyền của thế gian; nó ở trên môi miệng của những kẻ không có quyền được nói lên.
Chắc chắn trên đời không phải mọi tình thương đều là như vậy. Vẫn còn tình mẫu tử chẳng hạn làm cho tình thương nên cao đẹp, vì nó trộn lẫn với đau khổ; còn có tình huynh đệ, tình vợ chồng, tình hiếu để, còn tốt đẹp, còn lành mạnh. Có lẽ đó là dấu vết mà ta không ý thức của tình thương Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên tất cả.
Nhưng điều không được hiểu biết là tình thương cao cả nhất :
Đó là Thiên Chúa, Đấng tạo thành nên ta , đã đến ở giữa chúng ta như một người giữa muôn người, đã sống với ta, đã ở lại với ta và đã chịu đóng đinh trên Thập giá vì ta : hầu cứu độ ta.
Điều đó quá cao xa, quá cao đẹp, quá thần thiêng, quá ít nhân loại, quá đẩm máu, đau thương, sắc bén để người ta hiểu được.
Có lẽ qua tình mẫu tử người ta hiểu được đôi chút, bởi vì tình thương của một người mẹ không chỉ là vuốt ve, âu yếm; nhưng trên hết là hy sinh.
Đối với Chúa Giêsu cũng vậy : tình thương đã thúc đẩy người nhận lấy Thập giá, điều mà nhiều người cho là điên rồ. Nhưng chỉ có sự điên rồ ấy mới cứu được nhân loại, mới nắn đúc nên các thánh nhân.
Thực thế thánh nhân là người có khả năng hiểu được Thập giá. Là nhữồi theo Chúa Giêsu, con người Thiên Chúa, các ngài đã nhận lấy Thập giá hằng ngày như một điều quí giá nhất trên đời, có khi các ngài đã giương cao Thập giá lên như một khí giới, gióng như những chiến sĩ của Thiên Chúa; các ngài đã mến yêu Thập giá trọn đời mình, và đã nhận biết cùng nghiệm được rằng Thập giá là chiế c chìa khóa, là chìa khóa duy nhất để mở kho tàng, kho tàng duy nhất. Thập giá dần dần mở rộng các tâm hồn đến chỗ hiệp thông với Thiên Chúa. Như vậy, qua con người, Thiên Chúa lại tỏ hiện cho thế gian, và cho dầu theo mọt cách thế hoàn toàn kém hơn, nhưng tương tự Ngài đã lập lại những tác động Ngài đã làm, khi còn là một người giữa muôn người, Ngài đã chúc phúc cho người chúc dữ mình, tha thứ cho người thóa mạ mình, cứu chữa, rao giảng những Lời của trời cao, làm cho người đói khát được no nê, thiết lập một xã hội mơí dựa trên tình thương, toỉ cho thấy quyền năng của Đấng đã sai Ngài. Tóm lại Thập giá là điều cần thiết để nhờ đó điều thần thiêng đi vào cõi nhân sinh và con người tham dự hoàn toàn hơn vào sự sống của Thiên Chúa, bằng cách vươn từ nước trần gian đến nước Thiên Chúa.
Nhưng cần phải “vác lấy Thập giá mình…”, phải thức dậy ban sáng trong niềm chờ đợi Thập giá vì biết rằng duy trì qua Thập giá các hồng ân mà thế gian không biết được mới đến với ta : đó là niềm an bình, vui tươi, ơn được biết những điều cao xa mà rất nhiều người không được biết.
Thập giá …một điều rất thường tình. Nó thật trung thành nên không lỡ hẹn ngày nào. Chỉ cần thu lượm Thập giá để nên thánh.
Thập giá, huy hiệu của tín hũu Kitô mà thế gian không muốn, vì tin là khi chạy trốn nó, người ta tránh được đau khổ và không biết rằng Thập giá mở rộng tâm hồn của người hiểu biết nó đến nước ánh sáng cùng tình thương : tình thương mà thế gian luôn tìm kiếm nhưng không có được.
Tôi chỉ biết Chúa Kitô chịu đóng đinh Thập giá
(1 Cor 2, 2)
Tôi chỉ có một người bạn trăm năm duy nhất trên đời :
Chúa Giêu chịu đóng đinh Thập giá và bị bỏ rơi;
Ngoài Người, tôi không có một Thiên Chúa nào khác.
Nơi người là tất cả thiên đàng
Cùng với Thiên Chúa Ba Ngôi
Và tất cả trần gian cùng với nhân loại.
Vì thề điều gì của Người là của tôi và không gì khác nữa.
Tất cả mọi đau khổ là của Người, vì thế là của tôi
Tôi sẽ rảo khắp thế giới để tìm kiếm Người
Trong mọi giây phút đời tôi.
Cái làm tôi đau đớn là của tôi
Của tôi niềm đau khổ đến trong hiện tại.
Của tôi niềm đau khổ của những ai gần kề.
Của tôi tất cả những gì không phải là an bình, vui tươi.
Đẹp đẽ, đáng yêu, tươi tỉnh..
Như vậy suốt những năm tháng còn lại trên đời :
Tôi sẽ khát khao những đau khổ, dằn vặt, thất vọng,
những chia lìa, đầy ải, bỏ rơi, những dày vò,
những …tất cả những gì là của Người
và người là khổ đau.
Như thế tôi sẽ lau khô nước mắt khổ ải
Nơi nhiều tâm hồn gần gũi
Và qua mối hiệp thông với người bạn trăm năm đầy quyền năng của tôi,
Nơi những tâm hồn ở xa.
Tôi sẽ đi qua như ngọn lửa, thiêu rụi những gì phải bạt đổ
Và chỉ để lại sự thật mà thôi.
Thánh lễ của người, thánh lễ của ta
Khi bạn đau khổ, và khổ đau của bạn đến độ
cản ngăn mọi hoạt động của mình, thì bạn hãy nhớ đến thánh lễ.
Trong thánh lễ,
Ngày nay cũng như thưở xưa,
Chúa Giêsu không làm việc, không giảng dạy :
Ngài hy sinh chính bản thân vì tình thương.
Trong cuộc đời
người ta vcó thể làm nhiều chuyện, nói nhiều lời,
nhưng tiếng của khổ đau,
có thể là ngươì khác không nghe thấy, không biết đến,
của khổ đau dâng lên vì mến yêu, là lời mạnh mẽ nhất, lời có sức xé trời.
Khi bạn đau khổ, hãy dìm khổ đau của bạn vào khổ đau của Ngài :
Hãy dâng thánh lễ của bạn;
Và nếu thế gian không hiểu,
Đừng bận tâm :
Chỉ cần Chúa Giêsu, Đức Maria các thánh hiểu bạn là đủ :
Hãy sống với các Ngài
Và hãy để cho máu của ban tuôn chảy
Vì lợi ích cho nhân loại :
Như Ngài !
Thánh lễ ! nó quá lớn lao để người ta có thể hiểu được.
Thánh lễ của Ngươì, thánh lễ của ta
Dang Dở
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Đời mất vui khi vẹn câu thề."
Đời có thật mất vui khi vẹn câu thề? Tình chỉ đẹp khi còn dang dở hay là cho dù dở dang tình vẫn đẹp? Người ta nói chấm dứt mối tình dở dang, nghĩa là lúc tình đó đang dang dở thì bị chấm dứt. Có phải đã chấm dứt rồi thì không còn dang dở nữa?
Chấm dứt là xong, là trọn vẹn không còn gì để nói. Khi đã chấm dứt thì tình đó thuộc về dĩ vãng nguyên tuyền. Nó dang dở trong quá khứ mà trọn vẹn xong ở hiện tại. Như vậy, tình thuộc dĩ vãng không còn tiếp tục hôm nay thì còn gì là dang dở?
Xem ra là thế, tuy nhiên, thuộc về dĩ vãng chưa hẳn là thuộc về vùng đã quên. Nếu còn nhớ thì ngay khi chấm dứt tình dang dở, tình vẫn chưa hết dở dang. Chấm dứt mà còn nhớ thì chuyện tình chỉ chấm dứt trong không gian ngoại cảnh chứ chưa hết trong không gian tâm hồn. Vì lẽ ấy, cũng khá khó cho một định nghĩa tình dang dở là gì, và còn khó hơn, tình dang dở có còn đẹp?
Có thể tìm một định nghĩa dễ hơn. Tình dang dở là tình còn nhớ. Ở đây, dang dở không có nghĩa là chấm dứt lúc còn dở dang. Dang dở là chưa xong.
"Rồi Người gục đầu xuống và tắt thở" (Yn. 19: 30). Đó là Tin Mừng Yoan tường thuật về cái chết của Đức Kitô. Hơi thở của Ngài không còn dang dở. Một sự gục đầu trọn vẹn kết thúc. Nhưng tình của Đức Kitô không phải là tình đã xong trong quá khứ. Tình ấy không chấm dứt ở thập giá chiều nào trên đồi Do Thái. Tình ấy vẫn hàng ngày gọi, hàng chiều chờ. Tôi gọi tình ấy là tình dang dở.
Đức Kitô tiếp tục yêu, còn tôi, tôi chưa nhận đủ. Ngài cho tình yêu, nhưng bàn tay tôi có nhiều khe rãnh, nên hứng lãnh mà tình ấy cứ rơi đi hoài. Vì cái dang dở ấy nên Ngài cứ băn khoăn làm sao cho tôi múc được nhiều để hồn tôi bớt trống và tim tôi thôi vơi. Và vì thế, dở dang của tình yêu ấy là dang dở đẹp. Tôi thấy trong dang dở của tình yêu này một trái tim bao dung và kiên nhẫn. Nhờ dang dở ấy mà tôi thấy Ngài không mòn mỏi vì phải đợi chờ, không đếm thời gian và đưa tình yêu vào thời khóa biểu. Giữa tôi với Ngài, còn thời gian thì còn dang dở, còn thương xót.
Đức Kitô yêu tôi bằng tình trọn vẹn. Ngài là tình yêu (1 Yn. 4:16). Ngài cho tôi chính Ngài với hơi thở sau cùng trên thập tự. Nói về công việc thì xong, biến cố lịch sử trên Núi Sọ hoàn tất. Nhưng tình yêu ấy không là biến cố lịch sử. Biến cố lịch sử chỉ là một trong những đường nét để vẽ chân dung tình yêu. Tình yêu ấy vẫn yêu tôi. Thập tự giá ngày xưa vẫn là thập tự giá hôm nay kéo dài trên bàn thờ khi tôi dâng lễ.
Đức Kitô đã phục sinh, nhưng trong đau đớn của chi thể Ngài là nhân loại thì Ngài vẫn còn bị đóng đinh. Trong yếu đuối, tôi làm phai nhạt bao nhiêu chuyện tình đẹp giữa tôi và Ngài, tôi vẫn có lỗi phạm. Trong lãng quên, tôi vẫn xuôi chiều bao nhiêu cám dỗ. Vì thế, tình tôi với Ngài làm sao mà không dang dở cho được.
Chỉ có tình trọn vẹn ở phía thập giá. Thập giá yêu thương nhân loại nhưng nhân loại không có tình trọn vẹn, nên khi tình trời nối với tình đất thì tình trời mang thương khó. Ngày nào còn nhân loại thì tình giữa nhân loại và thập giá còn là tình dở dang.
Không có tình yêu, trọn vẹn sẽ là trọn vẹn thiếu. Với tình yêu, dang dở sẽ thành dang dở quý mến.
Có những dang dở cần thiết. Dang dở cho chuyện tình còn dài, còn nhắc nhở, còn xám hối. Trong các phép lạ của Chúa, có một loại phép lạ có thể gọi tên là phép lạ dang dở. Một thứ dang dở mà Đức Kitô nhất định giữ:
— Khi chữa mắt cho người mù, Ngài chỉ chữa một cách dang dở. Ngài lấy bùn thoa vào mắt người mù nhưng anh ta chẳng khỏi. Anh ta phải đi rửa ở hồ Sứ Giả. Mù làm sao mà đi dễ dàng, thế mà Chúa không chữa cho xong (Yn. 9:1-41).
— Tiệc cưới Cana cũng vậy. Chúa không làm phép cho có rượu, nhưng chỉ làm cho nước hóa rượu. Đức Kitô bảo các gia nhân: "Hãy múc nước đổ đầy các chum" (Yn. 2:7). Sao Chúa không làm cho có rượu luôn đi mà lại bảo người ta đổ nước? Chúa chỉ làm một nửa. Thương xót thì trọn vẹn, nhưng thương xót ai, bởi đó, thương xót còn hệ tại đối tượng được thương xót muốn thương xót bao nhiêu. Do đấy, có những thương xót cần dang dở để đối tượng được thương xót kia lựa chọn mức độ thương xót cho mình. Nếu các gia nhân chỉ múc nửa bình thì chắc rượu chỉ có nửa bình thôi.
— Làm phép bánh từ "không có hóa ra có", và từ "có sẵn hóa ra có thêm" là hai thái độ, biểu tượng cho hai nội dung rất khác nhau. Chiều hôm ấy, đám dân chúng đói không có gì ăn. Các môn đệ không đủ bánh, nghĩa là có nhưng thiếu, hoặc nói cách khác là có mà dở dang. Chúa không vứt vất cái dang dở ấy rồi tự mình làm phép lạ. Chúa bảo đem cái dang dở ấy đến. Sao Chúa không làm phép lạ cho có bánh, mà chỉ làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Sao Chúa cứ thích cái dang dở của các tông đồ làm chi (Mc. 6:35-43).
— Thấy đền thờ thành nơi buôn bán, dơ uế mất rồi, Chúa bảo phá đi rồi trong ba ngày Ngài xây dựng lại. Tại sao Ngài không phá luôn cho tiện mà chỉ xây lại khi người khác phá (Yn. 2:13-22).
Chúa thích những phép lạ dang dở. Chúa làm có một nửa nên nhân loại mới được góp phần trong công việc trọng đại ấy. Cái dang dở Chúa để xẩy ra là dang dở huyền diệu. Thiếu dang dở này con người thiệt thòi biết bao. Cần có những dang dở của Chúa để dang dở của con người hết dở dang. Con người không thể làm phép lạ tự cứu lấy mình. Chúa cũng không cứu con người khi con người không tự do nhận lãnh. Phép lạ của Chúa cần là phép lạ một nửa, phép lạ dang dở để tôi được tham dự. Cái dang dở của Chúa là chỗ trống cho tôi bước vào.
Chúa không thể nào bất toàn. Bởi đó, những gì dang dở mà Chúa để xẩy đến trong cuộc sống, tôi phải tìm hiểu. Có khi là đau khổ, có khi là những ngày chán nản. Những mũi chỉ thêu ngang dọc làm cho tấm tranh rối mù lộn xộn, nhưng nó sẽ là tác phẩm nghệ thuật khi nó hết dở dang. Con đường Hội Thánh đang đi là con đường dang dở. Công cuộc rao giảng Tin Mừng là công cuộc dang dở. Nhưng trong dang dở ấy là ngưỡng cửa hi vọng. Đời truyền giáo của tôi là một hành trình đang dang dở. Tay tôi ngắn mà cánh đồng thì mênh mông. Nhưng nối tiếp những dang dở sẽ thành hoàn hảo. Người sống hi vọng phục sinh là kẻ chấp nhận những dang dở Chúa để xẩy đến, và nhìn thấy dang dở trong công cuộc rao giảng thập giá là dang dở lạc quan.
Dang dở của tình yêu giữa tôi và Chúa không là dang dở phải chấm dứt. Chúa không bao giờ chê căn nhà tôi nghèo nàn. Tôi cũng chẳng muốn bỏ Chúa. Dang dở chỉ vì yếu lòng. Dang dở vì vụng về trong những lựa chọn. Dang dở vì lấp lửng với những cám dỗ. Từ linh hồn thành thật rất sâu, tôi không muốn những dang dở này. Có băn khoăn về những sa ngã, có hối hận về những không trọn vẹn sẽ làm cho chuyện đường thập giá gồ ghề hơn. Những gồ ghề là những cản ngăn, nghĩa là đường thập giá sẽ thập giá hơn nữa. Khi đường thập giá trở nên thập giá hơn thì linh hồn gian nan hơn, nhưng vì gian nan đó cũng sẽ làm cho đường thập giá ấy ý nghĩa hơn.
Những chuyện tình gian nan bao giờ cũng là những chuyện tình nhiều kỉ niệm. Và, bởi đó, đường thập giá cho dù dang dở vẫn luôn luôn là những chuyện tình đẹp. Không phải dang dở thì mới đẹp, nhưng là vẫn đẹp khi dở dang.
Lạy Chúa, ngày nào còn hơi thở thì tim con còn rung cảm rực nóng. Còn rung cảm rực nóng thì còn những dang dở. Nhưng đường Chúa gọi đi là đường tình thập giá không đánh dấu bằng những lần ngã dở dang. Chúa nối những dang dở ấy thành đường thập giá. Bởi đó, con hi vọng và lạc quan trong mọi dang dở của hành trình thiêng liêng. Và con phải biết Chúa rất cần một thứ dang dở là Chúa không hoàn thành cho con tất cả ước mơ nếu con không thực sự mơ ước.
Ước mơ đẹp là mình ước mơ, còn ước mơ hững hờ là ước mơ người khác mơ ước dùm mình.
Xin cho con không bao giờ thở dài về sự dở dang trên đường thánh thiện. Không chán chường sự dở dang trong công cuộc truyền giáo rồi thôi rao giảng Tin Mừng để cho khỏi băn khoăn về những dang dở ấy.
Vâng, lạy Chúa, con không muốn làm cho chuyện tình thành dang dở, nhưng chỉ vì con yếu đuối. Chúa thương con, thì với Chúa, những chuyện tình dở dang của con trên đường theo Chúa vẫn là những chuyện tình đẹp.
Tình Yêu
Nguyễn Tầm Thường
Có bài ca trong đời hát rằng: "Con chim quý thì phải ở lồng son." Không biết lời ca đó có tự bao giờ, từ bao nhiêu thời gian thủa trước. Nhưng cũng từ gốc thời gian ấy có lời trầm buồn của một bài thơ. Tiếng người thục nữ u uẩn trong cung điện lầu son nhìn mây thênh thang đi về cuối chiều.
Có vì vua thương nàng nhiều lắm, nhưng nàng chẳng hạnh phúc. Nàng đẹp như dáng thu. Bên đồi dâu nàng hong tơ dệt lụa. Hạnh phúc êm ả, đơn sơ đi về trên lối cỏ may bốn mùa. Vị vua tiếc thương đời người thục nữ xinh mà chẳng có lầu son. Tiếc màu xanh thiên lí bên giàn gỗ mộc. Nhà vua bảo rằng hoa quý thì phải ở trong bình vàng cổ sứ cao sang. Vua đem người thục nữ về cung. Từ thủa đó có tiếng ru vào đời à ơi thương cho số phận: "Con chim quý thì phải ở lồng son!"
Có lời thương đau trong hồn hiu quạnh của cánh chim nhớ rừng. Vỗ về của bàn tay con người là khóc than trong trái tim của cánh chim thở dài nhìn trời cao. Có bàn tay dịu dàng đưa âu yếm. Nhưng trên đôi cánh ấy trĩu nặng mùa thập tự gian nan. Con chim nhỏ nói với "người yêu" của nó:
— Hãy mở cửa cho tôi bay cao. Tôi biết người âu yếm tôi. Nhưng tôi không cần được âu yếm, đó chỉ là âu yếm người cần. Tôi không là cánh chim nữa khi tôi không biết bay. Bởi đó, trong lồng son âu yếm người dành, không bao giờ có cánh chim thật, tôi chỉ là hình bóng mà thôi. Hạnh phúc của tôi ở cuối gió lưng đèo. Tôi chỉ cần gió và bầu trời. Hạnh phúc của loài chim là đôi cánh.
Nếu người thương tôi thật tình, xin hãy nhìn hạnh phúc của tôi chứ đừng nhìn tôi mà hạnh phúc.
Tiếng con chim nhỏ chỉ là lời kinh cầu thương khó. Bởi, làm sao định nghĩa được yêu thương?
Trong tình yêu, nhiều khi, yêu thương của trái tim này là khổ tâm cho trái tim khác. Biết rằng hạnh phúc của cánh chim nhỏ là trời cao. Nhưng tung cánh bay là chia li. Nhìn bóng bay xa về rừng vô tận là rưng rưng mất mát. Bởi đó, người ấp ủ cánh chim nhưng chỉ là thương mình. Và từ đấy, yêu thương là gian nan cho người được yêu. Tôi ray rứt người tôi thương mến bằng tình thương tôi trao tặng. Quà tặng yêu thương trở thành dằn vặt. Nhưng tôi vẫn nói với đời rằng tôi rộng lượng bao dung. Tôi vẫn nói với mình rằng tôi bác ái thật thà.
Khi tôi xây ngục thất cho tha nhân bằng hận thù thì tôi biết mình không có yêu thương. Nhưng khi lấy yêu thương xây ngục thất thì không biết mình đã mất thương yêu và tha nhân đang khổ đau.
Tôi yêu cánh chim nên tôi không thể để mất. Tất cả là tình yêu. Tôi nhân danh tình yêu để giữ gìn. Trong tình yêu ấy, cánh chim chỉ biết nhìn khung trời tự do trong ý muốn khắc khoải. Thở dài.
Tôi không muốn được yêu thương như thế. Đấy không phải là thương yêu mà chỉ là tiếng thở dài đìu hiu. Thôi, ta hãy mở cửa lồng cho cánh chim buông theo chiều gió. Nhìn cánh chim hạnh phúc đấy mới là yêu thương.
Rung cảm thì dễ dàng, còn yêu thương là sáng suốt lựa chọn và dũng cảm đi theo chọn lựa sáng suốt đó. Điều ấy có dáng dấp của khổ đau. Muốn yêu thương thật là muốn cho người hạnh phúc. Mà để người hạnh phúc thì yêu thương của ta phải thanh luyện bằng đau khổ.
Nhìn cánh chim bay về cuối trời. Nghĩ đến ngày mai trống trải thiếu một bóng hình. Đó là nỗi vắng rất âm u. Cái nhạt nhòa ở cuối trời nó đi vào hồn ta. Cái trống trải vì thiếu một bóng hình nó nhắc ta nỗi cô đơn mà từ lâu ta cứ tránh né. Vì thế, thứ tình yêu mình-yêu-thương-mình nằm kín rất sâu dưới lòng sông tâm hồn. Thôi thúc thỏa mãn nhu cầu mình-yêu-thương-mình có thể thành những con sâu độc trong màu áo vị tha.
Người nông phu nuôi con công thật chu đáo, bởi ông thương bộ lông. Có người thiếu nữ chỉ mơ một mái gia đình nhỏ bé với hạnh phúc đơn sơ. Nhưng niềm kiêu hãnh của bà mẹ bị đánh thức. Bởi, muốn rực rỡ như loài công xòe cánh nên bà muốn con mình phải ở lầu son gác tía. Người con gái chỉ thương một loại bông đơn sơ vì nó thật thà. Nhưng người mẹ bảo loài hồng nhung mới đáng quý.
Cho con sự khôn ngoan là tặng phẩm. Nhưng ngày nào lấy đường hạnh phúc của mình vẽ lối cho kẻ khác phải theo thì không còn là cho nhau tặng phẩm khôn ngoan nữa mà chỉ là khôn ngoan chọn tặng phẩm cho riêng mình.
Khi thành công của người con chỉ là thỏa mãn niềm kiêu hãnh của người mẹ thì người mẹ hạnh phúc, nhưng chưa chắc đã là hạnh phúc của người con.
Người khách qua đường khen màu sắc con công đẹp. Từ giá trị được xã hội đánh giá, ông nông phu muốn con công phải xòe màu. Như thế có gọi là tình yêu chăng?
Đi tìm định nghĩa cho tình yêu, tình yêu bảo rằng tình yêu có một định nghĩa đơn sơ thôi: Khi áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, đấy là tôi thương em. Tôi yêu hoa cúc, nên muốn em mặc áo lụa vàng, đấy là tôi thương tôi.
Vì yêu màu hoa cúc mà tôi muốn em mặc áo lụa vàng thì em chẳng có tự do. Vì em không mặc áo lụa vàng làm tôi nhớ màu hoa cúc, thì qua em, tôi tìm một bóng hình nào đó mà thôi. Tôi không muốn yêu người như thế. Ngược lại, tôi cũng không muốn ai thương tôi như vậy. Nếu người không thể mở cửa lồng cho cánh chim bay đi là lòng người thiếu tự do. Thiếu tự do thì trong trung thành có mầm chống đối. Trong chung thủy đã chán chường. Trong gần gũi đã cách xa. Nếu tôi được thương bằng tình không có tự do như thế tôi chỉ là đồ chơi.
Tôi không muốn cỗ quan tài buồn dù áo quan đó làm bằng thương mến. Chỉ là khổ đau cho kẻ bị yêu thương. Những cỗ áo quan dù gợi bao nhiêu nước mắt tiếc thương cũng chỉ là nước mắt rơi trên sự chết. Tôi không muốn tình yêu mang một chút gì tang chế.
Tin Mừng Luca (Lc. 15:11-31) có kể chuyện một người cha giàu có lắm, có hai đứa con. Đứa con thứ bảo cha chia gia tài cho mình. Sau khi nó tiêu hết sản nghiệp của cha cho rồi, nó túng thiếu quá phải đi chăn heo mà chẳng đủ ăn. Nó tìm đường về làng cũ. Ngày nhìn con đi, bóng nó nhạt dần ở cuối trời, như cánh chim bay, ông thấy trống trải vì thiếu vắng một bóng hình. Ông cầu mong cánh chim ấy gặp đường bay hạnh phúc, cúi nhìn hồn mình mất mát.
Rồi ngày kia, đứa con về trong thất bại tang tóc. Thua cuộc đời. Nó về, tức là làm dấy lên cho ông những lời bình phẩm của hàng xóm. Giả sử nó không về, câu chuyện có khi cũng lãng quên dần. Hôm nay trở về là nhắc nhớ cho người chung quanh sự thất bại trong gia đình ông. Cái hình hài và quá khứ "không ra gì" của đứa con bỏ nhà đi, bây giờ, có khi trở thành đề tài đầu môi câu chuyện ở đầu làng cuối xóm. Ông không tìm màu sắc rực rỡ của loài công. Bê béo đã giết. Tiệc liên hoan tưng bừng.
Khách đến hỏi con ông đâu. Người khách muốn hỏi xa xôi hơn rằng vì sao ông mở tiệc chúc mừng, đâu là sự nghiệp con ông mang về. Người khách muốn biết điều gì làm ông hãnh diện. Khách được mời chẳng ai hiểu vì sao ông lại mở tiệc ăn khao khi con ông trở về trắng tay. Đối với họ, không thể có chuyện đó. Bởi, họ muốn được chào kính bằng vinh quang của người khác. Những chuyện nhân gian là thế, người ta dấu kín chuyện đời thất bại của người khác, người ta mắc cở, có phải vì thương xót chính người trong cuộc, hay rất nhiều khi chỉ vì họ lấy thành công của tha nhân mà nuôi dưỡng niềm hãnh hiện của họ? Khách được mời ngỡ ngàng lắm khi ông chủ khoe rằng con ông nay trở về sau những ngày chăn heo.
Họ không hiểu được. Nếu chỉ có thế tại sao lại mở tiệc. Đáng lẽ ông phải xấu hổ mà dấu kín chuyện con ông đi chứ. Họ không hiểu vì mỗi người định nghĩa tình yêu một ý khác nhau. Riêng ông cha già thì biết rõ việc mình làm.
Ông hiểu tình yêu là gì vì ông không tìm định nghĩa cho tình yêu. Bởi, chính ông LÀ tình yêu. Lạy Chúa, đấy là hình ảnh tình yêu của Chúa đối với con.
Những Bước Chân
Nguyễn Tầm Thường
Nói đi vào hoặc đi ra là nói đến những bước chân. Nhưng khi vào đời, tôi không vào đời bằng chân vì tôi chỉ là hài nhi không biết đi. Ra khỏi cuộc đời, tôi cũng chẳng ra khỏi bằng chân vì tôi chết. Như thế, vào đời hay ra khỏi cuộc đời là những bước chân thiêng liêng. Đó là những bước chân liên quan đến hạnh phúc và ơn cứu độ.
Trong khoảng thời gian từ lúc tôi mới sinh ra, không biết đi, đến khi tôi không thể đi vì tôi chết, là một hành trình thật dài. Trong hành trình dằng dặc này của cuộc sống, tôi bước những bước chân. Tôi đi. Tôi đi rất nhiều. Vì tôi vào đời đón sự sống bằng bước chân thiêng liêng. Tôi từ giã cuộc đời, ra khỏi sự sống bằng vết chân thiêng liêng, nên những bước chân hàng ngày tôi đi trên mặt đất rất liên quan đến những ý nghĩa thiêng liêng.
Hướng chân đi
Đi, là đi đâu. Đi không định hướng sẽ là cuộc đi thiếu năng lực. Vì không có lí tưởng để tiến tới nên chân mỏi mệt lắm. Rồi, cuộc đời là cuộc đi buồn bã. Có bước chân ban sáng, có bước chân chiều tà. Bước đi trong đời, ai cũng mang một trong hai bước chân đó. Đức Kitô biết rõ những loại chân này, nên Ngài nói với các môn đệ: "Khi còn sáng ngày Ta phải làm việc của Cha Ta. Đến tối không ai còn làm việc nữa" (Yn. 9:4). Thời gian sẽ ngắn lại, bước chân ta chậm theo dòng đời. Bình minh gọi, kẻ không bước đi sẽ muộn phiền hối tiếc khi chiều buông xuống.
Có người đi ban đêm. Có kẻ đi ban ngày. Có người đi trên đường. Có kẻ đi dưới rãnh. Có nhiều thứ đi. Có nhiều thứ bước chân. Khi Đức Kitô bị bắt thì có những bước chân chạy trốn mà cũng có những bước chân đến gần. Khi Đức Kitô gọi, thì có những bước chân theo mà cũng có bước chân chối từ. Có bước chân đi phân vân và cũng có bước chân dứt khoát. Từ khởi điểm của vào đời và ra khỏi đời là trăm ngàn ngõ bước, lối đi, những bước chân khác nhau.
Điệu chân đi
Nói đến đi thì cũng nói tới bước chân đi và lối ngõ để bước chân đi trên đó. Có những lối ngõ khác nhau và phải bước theo cách thế của mỗi lối đi. Không thể bước trên đường sỏi đá giống như bước trên đồi cỏ. Rồi ngay mỗi người cũng có nhiều đoạn đường khác nhau trong một lối đường. Bởi đó, người ta phải học cách bước của mỗi đoạn đường. Đoạn đường Maria đi thăm chị họ mình để báo tin vui là bước chân đon đả, không giống đoạn đường trốn sang Ai Cập. Cách Đức Kitô bước vào dinh tổng trấn Philatô chắc không giống cách Ngài bước vào nhà người thu thuế. Thích nghi với hoàn cảnh, văn hóa trong công cuộc rao giảng Tin Mừng chẳng những là sáng tạo mà còn là một định luật. Chọn cho mình một lối đúng mà không bước đúng cách cũng chưa là đi đúng.
Người ta nói: Bước vào yêu. Thì nghe cũng như đúng vậy thôi. Tình yêu ở đâu để mà bước vào? Tình yêu tự nó không là thửa đất, không là cánh đồng. Tình yêu không giống như một bản đồ vẽ sẵn. Rồi ai nấy chọn một ngả. Tình yêu không chờ sẵn như căn nhà rồi ta vào ở. Đức Kitô không bước vào yêu mà Ngài là Tình Yêu vào thế gian (Yn. 3:16). Như thế, bước vào yêu theo nghĩa đẹp nhất là tình yêu đưa ta bước tới. Tình yêu nơi trái tim Đức Kitô đưa bước chân Ngài lên Núi Sọ. Ngài không lên Núi Sọ tìm tình yêu. Thập giá không phải là nơi Đức Kitô đi tìm tình yêu mà là tình yêu thúc đẩy Đức Kitô gặp thập giá, để thập giá có tình yêu.
Tình yêu và bước chân
Trong cuộc đời sẽ có hai bước chân của hai lối đi khác nhau về tình yêu. Một bước chân vào đời do tình yêu đưa lối. Và một bước chân tìm lối đi của tình yêu trong đời.
— Bước chân do tình yêu đưa lối thì có năng lực và không bao giờ bước sai. "Bỏ lại chín mươi chín con chiên đó mà đi tìm con chiên lạc" (Mt. 18: 12-13). Những bước chân này đi tới đâu là rộn rã yêu thương tới đó. "Vì Cha quá yêu thế gian nên đã sai Con Một vào thế gian" (Yn. 3:16). Không là chân đi tìm tình yêu mà là tình yêu đẩy chân đi tìm.
— Còn lối bước thứ hai là bước chân đi tìm tình yêu. Bước chân này rất dễ lầm đường lạc lối. Tình yêu không có sẵn khơi khơi. Bởi đó, làm sao tìm thấy tình yêu được. Họ không thấy tình yêu mà chỉ thấy cái họ thích yêu.
Khi tôi gặp người tôi thương mến, điều ấy có nghĩa là tôi bắt gặp điều làm tôi yêu thích. Tôi phải để tình yêu trong tôi lên tiếng thẩm định cho sự gặp gỡ này. Rạo rực của con tim khi gặp người tôi mến thương thúc đẩy tôi phải ôm giữ. Rồi, từ đó tôi ngỡ rằng đó là tình yêu và tôi đã gặp tình yêu. Khi trong tim tôi không có tình yêu thì sự ôm giữ này trở thành cuồng phong, vì tôi lầm lẫn cho đó là tình yêu. Nếu trái tim tôi có tình yêu thì tình yêu sẽ lên tiếng thẩm định và câu trả lời có thể là không cho phép tôi bước tới. Nếu bước tới, bước chân đó sẽ sai vì không nghe tiếng tình yêu nói mà chỉ là tìm cái tôi thích yêu.
Nếu nói gặp người tôi thương mến là gặp tình yêu thì làm sao có trung thành trong hôn nhân vì họ luôn luôn gặp những người yêu mới.
Đức Kitô không bao giờ đi sai vì chân Ngài được tình yêu thúc đẩy. Trước giờ chết, trước kẻ có quyền kết tội, Ngài không chối từ, không trốn tránh vì Ngài có tình yêu làm sức mạnh. Trên đường đời có những quãng vắng khắc nghiệt vì sỏi đá. Tình yêu sẽ đẩy chân bước tới. Còn bước chân đi tìm tình yêu sẽ phân vân ngại ngùng tránh né. Bởi đó, trong hôn nhân, và người tu sĩ cũng thế, không có lạc lối trong tình yêu mà chỉ là không có tình yêu nên mới lạc lối.
Những bước chân riêng
Mỗi người có một lối nên không thể lấy bước chân kẻ khác làm bước chân của mình. Sự nghèo khó, lí tưởng, con cái, dáo dục, thân xác, hoàn cảnh của mỗi gia đình không giống nhau. Áng màu nào cũng đẹp nhưng nó phải phù hợp với ơn gọi của nó. Bước lẫn sang lối đi của người khác là lạc lối. Vì lối đi của người khác đúng với họ mà thôi nên khi lấy cái đúng của họ làm của mình nó dễ trở thành cái sai. Khó mà nhận ra cái lạc lối của mình khi mình đi trong lối đi của kẻ khác, bởi vì cứ nghĩ rằng nó đúng với tha nhân thì cũng đúng với mình.
Những bước chân phải cùng nhau đi mà không đi cùng nhau là đi sai. Những bước chân phải đi đơn lẻ mà cứ quyến luyến nhau cũng là đi không đúng. Huyền nhiệm của những bước chân là thế.
Có những bước chân âm thầm. Có những bước chân trong chiều mưa. Là những bước chân riêng, nhưng bước chân nào thì cũng biết mỏi. Đường ở đây hay ở đó, hôm nay hay ngày mai, ở đâu và thời gian nào thì đường cũng có thể làm chân ê ẩm, gây thương tích đau đớn. Đường đời dài lắm. Nhất là đường xám hối, đường muốn tập nhân đức. Bởi vậy, chân cần nghỉ ngơi, cần xoa dịu. Là những bước chân riêng, nhưng cùng một ơn cứu độ. Có phải vậy mà đường chiều thập giá là Simon vác thập tự cho Đức Kitô đỡ té ngã. Có phải thế mà hôn nhân là cùng nhau đi.
Lạy Chúa, khi biết mình sắp xa các môn đệ, Chúa đã rửa chân cho họ. Nếu chỉ nhìn những bàn chân được rửa như một gương khiêm nhường Chúa đã làm thì con thấy chưa đủ. Bỏ trời cao xuống trần chưa đủ là khiêm nhường sao. Sinh ra trong nghèo khó đủ cho con thấy Chúa thế nào rồi. Thái độ rửa chân cho chúng con là hình ảnh tuyệt vời ý nghĩa của những bước chân. Cần thiết lắm. Một ý nghĩa rất sâu của những bàn chân sẽ bước đi rất chơi vơi trong đời. Sắp chết là Chúa sắp bước những bước chân vô cùng mầu nhiệm. Ai có thể đi theo những bước chân gian nan khổ nạn ấy? Phải là những bàn chân được Chúa rửa thì mới có năng lực bước theo Chúa vào khổ nạn được. Rửa cho rơi đi những ươn hèn, gian dối, nhỏ nhen. Bàn chân con phải được rửa bằng tình yêu của Chúa để bàn chân ấy có tình yêu thì con mới có thể bước đi trong đời mà không bước sai.
Vì hệ trọng, nên khi bước, chân phải biết mình đang đi đâu và bước như thế nào.
Chúa bảo chúng con rửa chân cho nhau. Bởi, chân nào đi mà không mỏi. Đường đời dài thăm thẳm. Lối đi nào mà không nhiều lúc dẵm sang đời nhau. Chúng con cần nâng đỡ cho đôi chân nghỉ ngơi, cần được nhắc nhở cho đôi chân tỉnh thức, cần thông cảm cho đôi chân khỏi chán nản.
Lạy Chúa, con phải suy tư thế nào về bước chân của mình và của người anh em?
Những người nghèo là người phải đi bộ. Và đi bộ thường phải đi bên lề đường. Nếu họ đi bên lề đường chỉ vì nghèo để tránh rộng lối cho con đi, và nếu chỉ vì nghèo mà bước chân bên lề đường ấy làm họ phải bước bên lề cuộc đời thì con nghĩ sao về bước chân của mình.
Giáo Hội
Nguyễn Tầm Thường
Tôi lớn lên với đất quê ruộng vườn nên kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với đồng lúa ngô khoai. Lũy tre, bờ dậu là hình ảnh tôi dán trên những trang đầu của cuốn album cuộc đời. Bởi thế, nó chìm sâu.
Một khung trời xanh. Một dòng nước đục lặng lờ. Có gì đâu. Thế mà hơn mười năm đi xa, những hình ảnh ấy vẫn không quên. Rồi tôi nghĩ nếu có một ngày nào đó được nhìn lại bóng dừa xuôi lá. Hơn mười năm tây phương không ánh trăng đêm rằm, nghĩ đến trăng khuya mà nghe như chuyện trong cổ tích vậy thôi. Tôi mong một ngày trở lại vùng nhiệt đới, nhìn lại cái nắng hanh, cái mưa rào.
Ước mơ cũng giống như làn sương mỏng. Nó mơ hồ lãng đãng đâu đó nhưng nó có thật. Từ những hạt sương mờ bụi, rồi dần dần đọng lên thành hạt sương sũng nước. Khi thời gian chín tới, những hạt sương trũng nước ấy trĩu nặng cho cọng lá thu trên cành rơi xuống. Đấy là lúc mơ ước thành sự thật.
Một ngày mùa hạ
Máy bay xuống phi trường Hongkong, nắng nhiệt đới chói chang. Hongkong về đêm chỗ nào cũng như trẩy hội họa đăng. Không thành phố nào rực đèn màu như thế. Nơi đây tôi không bắt gặp bóng dừa êm ả, tiếng dế mèn rỉ rả trong mưa. Hongkong là một thành phố tây phương hơn cả tây phương.
Rời HongKong qua Macao. Tôi muốn sống lại dấu ấn lịch sử của các vị thừa sai đã một thời dừng chân nơi này như cứ điểm cho công cuộc đem Tin Mừng vào đất nước Việt Nam. Tôi muốn hình dung lại một chút lịch sử, dù đã khuất bóng nhưng âm vọng vẫn bền bỉ như những hình ảnh mộc mạc của mảnh vườn cũ, quê xưa, cứ chìm chìm mà không mất dạng.
Tường thành cháy đổ của nhà thờ chính tòa, nay cỏ và rêu đang im lặng rủ kín bờ đá. Lưa thưa vài ba khách du lịch, chắc cũng đang đi tìm dấu ấn lịch sử như tôi. Có thể họ là con cháu của các anh hùng tử đạo mà thánh tích đã một thời lưu trữ ở đây, nay tìm về nguồn cội của mình. Trời Macao bắt đầu có dáng ít ồn ào. Mênh mông. Tôi gần vùng đất của Phanxicô Xaviê gởi lại thân xác cho đất bụi lắm rồi.
Mơ ước mà mình cứ tiếp tục ước mơ, bền bỉ và kiên nhẫn thì hơi sương của mơ ước rũ nặng cho cánh lá thu phải rơi xuống thành trái. Một lần nữa, mơ ước một ngày nào được thăm viếng mộ của Xaviê nơi vùng đất cấm đã thành sự thật. Rời Macao, tôi vào Trung Quốc, hi vọng tìm đến nơi Phanxicô Xaviê đã chết.
Tôi đang sống một buổi chiều hiền dịu nhất từ hơn mười năm qua. Miền quê Trung Quốc êm ả thanh bình. Tôi không thấy cờ đỏ và khẩu hiệu hô hào đấu tranh giai cấp. Tôi đã chuẩn bị tâm hồn để nhìn lại những bờ tường sơn đỏ búa liềm, dấu hiệu kinh hoàng tan tóc của một thời. Hôm nay không còn. Tôi qua những con đường miền quê hun hút thẳng tắp mà hai ven đường rủ ngợp bóng một loài dương liễu mềm mại rất thi ca. Không có tiếng động cơ. Không khói xe. Chỉ có những vành xe đạp thong thả như trong khuôn viên một tu viện vắng. Thong thả hơn nữa, như lười biếng già nua, dăm ba chiếc xe trâu.
Trời rất trong và rất xanh, rất cao và rất rộng. Thinh lặng êm đềm làm cho không khí nên dịu và như có chất ngọt trong hơi thở. Đã hơn mười năm sống trong môi trường đường phố ngộp xe cộ, một sự ngột ngạt chật chội trong thiên nhiên làm tôi, hôm nay, như cánh chim đứng trước cửa lồng, nó không muốn bay vội, nó muốn rũ cánh cho rơi xuống những bụi bặm ngày xưa cũ trước đã. Nơi đây giống hệt như miền đất quê hương tôi. Cũng có cánh bướm và hàng dậu với dây mướp hoa vàng. Bụi mía và cánh chuồn chuồn. Mẹ quê phơi thóc bên sân nhà.
Có mái nhà cong dáng chùa, đình làng và cổng vào làng nhưng không thấy tháp chuông. Cả miền đất rộng tôi đi qua mấy ngày nay rồi không thấy ngôi thánh đường nào. Nghe nói cách đây khá xa, ngày xưa có một làng Công Giáo, ở đó có nhà thờ, nhưng bây giờ không rõ có còn dân chúng không.
Người bạn dẫn đường ngỏ ý dẫn tôi đi nếu tôi muốn tham quan. Chúng tôi xuôi miền trên chuyến xe đò của một đường quê mà lâu lắm mới gặp một chiếc chạy ngược chiều. Đồng lúa mênh mông. Thanh thản. Không có dấu vết gì của xã hội mà một thời búa liềm đấu tố kinh hoàng. Có thể cái không khí ấy vẫn nằm trong tim những người dân này kín đáo, tôi chỉ là khách lạ từ phương xa nên không mang u uẩn của hồn thiêng oan trái mà chưa hẳn là đã vắng bóng đi xa. Không có màu đỏ xã hội chủ nghĩa, chỉ có màu xanh của ruộng vườn, màu vàng của cỏ rạ. Đối với viễn khách lạ như tôi, tôi thấy trời thật đẹp và tôi đang sống trên một quê hương thanh bình.
Người dẫn đường bắt đầu ngơ ngác tìm lại kí ức để chỉ cho tôi dấu tích của lịch sử. Trước mặt tôi là rừng tre. Ông ta phân vân, không xác định lắm, chỉ cho tôi một chỗ, bảo rằng ngày xưa ở đây có tượng Đức Mẹ. Ông nhớ trước khi vào làng, có một tượng đài Đức Mẹ mà chính ông cũng không biết bị phá từ bao giờ. Đã lâu quá rồi bây giờ ông mới trở lại nơi này. Chúng tôi đã xuống xe đò từ lúc nãy. Để đến nhà thờ, chúng tôi phải theo đường quê mà đi. Từ nãy đến giờ, tôi không gặp ai trên đường. Con đường vẫn còn nhưng không ai săn sóc đã trở thành dấu mòn ít người qua lại. Không thấy nhà nhưng có người ở vì chung quanh chỗ tôi đi là những nương sắn cao xanh đến đầu người. A! kia rồi! có bóng thánh giá.
Ngôi thánh đường khá lớn. Lối kiến trúc đông phương rất công trình, mái cong, cửa gỗ to nặng. Hôm nay hoàn toàn vắng lặng. Khi cách mạng tiêu diệt tôn giáo thì xứ đạo tản mác mỗi người một nơi. Chính quyền biến vùng đất này thành trại cùi, nhưng không ai săn sóc nên những người cùi cũng dần dần trốn bỏ đi hết. Đã bao năm như thế rồi, không ai nhớ. Ngôi nhà thờ vẫn còn, nhưng nó còn lại như niềm tin trong linh hồn không thể tiêu diệt được thôi. Niềm tin hằn lên những sù xì của thương tích. Chung quanh nhà thờ, tường vôi long lở. Trên kẽ đá, cỏ mọc bò từng khoảng. Các cửa sổ không còn, đã bị tháo gỡ từ bao đời. Trên tường, lưu lại vết mờ của những khẩu hiệu hô hào chủ nghĩa Marx. Nhà thờ được bao gọn, nổi bật lên giữa rừng khoai mì. Nó như một hải đảo trồi lên trên mặt biển xanh mà chung quanh là ruộng sắn. Khoai lang bò chung quanh giáo đường.
Gió lùa qua cửa sổ, giáo đường mát dịu từ bờ đá thở ra. Trong nhà thờ không còn dấu vết có người lui tới. Gian cung thánh hoang tàn. Trên nóc cao mấy con chim sẻ rỉa cách kêu liếp nhiếp. Hoang vu nhưng an bình. Vắng lặng nhưng êm đềm. Chắc lâu lắm rồi không ai lai vãng tới đây ngoại trừ những người làm vườn vào nghỉ trong những trưa hè nóng. Rừng thưa và ngôi thánh đường cổ. Âm có lời thơ như man mác một chút nỗi niềm riêng, nhưng trong thinh lặng kỹ lưỡng, thanh âm của hồn thơ rất cao siêu thanh thoát. Cái êm đềm ở đây là êm đềm thánh thiện trầm trầm lời kinh cầu của Hàn Mặc Tử: "Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu." Kinh cầu là những bờ đá. Giáo đường không còn lầu chuông vọng về khi chiều xuống. Người xưa đã khuất bóng. Một thủa nơi rừng thưa này chắc đã vui lắm vào những mùa hoa tháng năm kính dâng Mẹ. Tôi đứng trong giáo đường nghe âm u vọng về từ quá khứ đã mờ mịt. Thời gian và biến đổi của dòng đời.
Nắng ban trưa rộn rã nhưng không gay gắt. Rừng xanh như tấm thảm thấm hút nắng mặt trời rồi lọc đi sức nóng nào vô lễ quá độ làm cho tháng hạ nên dịu. Tôi ra ngồi nghỉ bên bờ dậu nhìn ngôi giáo đường. Ngôi thánh đường thanh thản không phàn nàn, không thao thức về số phận mình. Hôm nay nhà Chúa không còn nến hương hoa, nhưng là chỗ nghỉ trưa cho những người lao động nghèo khổ. Nhà Chúa thành chỗ cho các em chăn trâu có thể vui đùa. Lúc nào và chỗ nào thì Tin Mừng cũng có đất sống. Ở những nghịch cảnh khó khăn, người ta tưởng phải bứng rễ để bảo vệ Tin Mừng. Nhưng thật ra, Tin Mừng đã cho họ năng lực sống để khỏi bị bứng rễ. Tin Mừng như sợi dây leo, đứt từng khúc, thì từng khúc ấy nẩy mầm. Tôi không thấy tâm trạng chua xót cho ngôi thánh đường một thời vang bóng mà nay chìm im. Mỗi nét có vẻ đẹp riêng. Vang cung đàn thì vẻ đẹp thành quý phái sủng mộ. Hoang vu thì nét đẹp trở nên linh thiêng kín đáo.
Đáng nhẽ tôi phải tiếc lắm cho cái thời nguy nga tráng lệ của nền nhà thờ bóng loáng chứ. Không hiểu sao tâm tư tôi phẳng lặng và nghe như câu kinh vẫn còn âm. Ngôi thánh đường tự nó như đang đối thoại với vũ trụ nhân sinh. Không chết. Không hoang vu lạnh lẽo. Cứ nhìn thật kĩ, ngôi giáo đường bình an như một câu văn đẹp đang chờ người biết chữ.
Tôi biết ở đây sẽ có hoang vu. Trước khi đi, tôi sắp sẵn cho mình một tâm hồn mang màu tím. Tôi muốn đứng bên tường vôi đổ nát để âm vọng về những ngày loạn lạc điêu linh. Tôi muốn đi tìm di tích lịch sử để đem hồn mình vào một quá khứ u uẩn. Tôi như cần những dấu ấn đó cho khơi lửa tin mến trong hồn mình. Bây giờ, trước mặt tôi là dấu ấn lịch sử đó. Hoang tàn điêu linh còn lại. Im và vắng. Đáng lí sự đổ nát ấy phải chùng tim tôi cho nhớ tiếc một thủa vàng son của Giáo Hội. Nhưng không! Tôi không buồn, mà như có một cảm nghiệm thanh bình đang ở một độ rung rất lạ. Tôi yêu cái hoang vu nơi này. Tôi quý mến vẻ đẹp quanh năm chỉ có mưa nắng thiên nhiên rơi trên bờ đá còn lại của ngôi thánh đường.
Có phải cái nuối tiếc trong tôi khi xưa là nuối tiếc của những nghi lễ hoa đèn chứ chưa chắc là nuối tiếc niềm tin?
Tôi vẫn nhìn về Giáo Hội với cấu trúc của nó, phẩm trật, chức sắc, nhà cửa, tổ chức. Có phải khi người ta lệ thuộc vào những hình thức này quá độ thì khi mất nó người ta như mất cả niềm tin. Chiều nay, tôi thấy niềm tin nơi đây đã được đốt cháy hết những rêu tua bám chung quanh. Không nghi lễ, không chuông cầu, không bái phụng. Một niềm tin rất siêu thoát.
Tôi sẽ đi xa và không bao giờ trở lại nơi đây nữa. Tường đá này sẽ chịu đựng được bao nhiêu mùa nắng mưa? Có khi nào lời kinh trở về, có khi nào mùa hoa tháng năm sẽ lại nhộn nhịp chân người chung quanh giáo đường, hay sẽ là vĩnh viễn hoang vu như hôm nay?
Còn tôi, ngôi nhà thờ nào sẽ của tôi mai sau trong cuộc đời linh mục? Tôi sẽ là linh mục miền quê hay thành phố? Nhà thờ xứ tôi sẽ sang trọng hay đơn sơ? Tôi nhìn bầu trời mà muốn dâng một lời kinh ngắn. Tôi vào giáo đường lần cuối để từ giã những vuông cửa.
Không tiếng động. Có cụ già đang lau chân cột nhà thờ. Ánh nắng xế trưa, ngang qua rừng tre lao xao gió, dọi qua mấy khung cửa sổ đã mất cánh làm thành những đốm hoa nắng rải đó đây trên nền nhà sậm tối. Tôi tò mò dõi nhìn. Cụ xoa chân cột bằng cái khăn giẻ. Phải mất một lúc tôi mới bừng tỉnh. Im lặng. Tôi đứng chết im. Hai hàng cột là loại gỗ già, to lớn, uy nghi, thẳng hút. Lòng nhà thờ sâu thẳm. Bây giờ tôi mới hiểu rõ sự việc. Bụi phủ hai hàng cột dơ bẩn, nhưng từ chân cột ở nền nhà lên tới chỗ tay cụ với tới, tất cả các chân cột đều sạch bóng, đen sậm màu gỗ lim. Chúa ơi! cụ vẫn đến đây để lau những chân cột này sao?
Lạy Chúa, cụ có mơ một ngày nào đó có người linh mục trẻ về đây dựng lại giáo đường? Cụ đã lặng lẽ lau những chân cột này từ bao năm? Niềm tin của cụ có thưa dần như những cánh hoa tháng Năm dâng Mẹ ngày xưa mà nay không còn, hay lời kinh vẫn nở, cứ là đóa hoa lòng? Không có Mình Thánh Chúa, chẳng còn ai đến thưa kinh thì cụ lau những chân cột kia làm gì? Thánh đường thành hoang vu rồi mà. Âm thầm như thế đã bao mùa mưa nắng rồi hả Chúa? Ôi! lửa mến. Ôi! niềm tin.
Năm đó, hè 1989, tôi chuẩn bị lãnh chức Phó Tế. Chỉ một năm sau nữa tôi sẽ là linh mục. Tôi nhớ ngày ấy tôi rưng lệ nhìn cụ già còng lưng lặng lẽ lau từng chân cột nhà thờ. Ở một nơi quá xa xôi, không ai biết tới, có một ngôi thánh đường hoang vu, một niềm tin thiết tha. Tôi biết trong đời mình dù có dâng lễ sốt sáng đến đâu cũng chẳng thế nào đẹp như thánh lễ hàng ngày của cụ. Thánh lễ không bánh và rượu. Thánh lễ bằng một đời quá đỗi yêu mến.
Tôi xa dần khu rừng.
Bầu trời ở đó như lời kinh đang dâng lên cao. Một buổi chiều làm tôi muốn suy nghĩ về thành tố làm nên Giáo Hội và đâu là vẻ đẹp của Giáo Hội. Nhà thờ thì cần thiết, nhưng vẻ đẹp của Giáo Hội trong ý nghĩa ơn cứu độ lại không ở những nghi lễ đầy màu sắc, hay đền thờ to lớn. Vẻ đẹp của Giáo Hội quá sâu, nó thầm lặng trong tâm hồn. Thầm lặng đã là khó thấy rồi, lại còn thầm lặng trong tâm hồn nên nó quá sâu cho những dòng chữ có thể viết ra.
Từ trên cao nhìn xuống, Chúa có băn khoăn vì biết bao tâm hồn đang lo âu chỉ vì đền thờ, hay Chúa vui vì vẫn thấy lấp lánh những vì sao trên những ngôi thánh đường đổ vỡ.
Ý Thơ Trong Địa Đàng
Nguyễn Tầm Thường
Trước khi vào đoản khúc:
Lỗi phạm của Ađam, Evà là tội nguyên tổ, một sự dữ.
Sự sa ngã của Ađam là một điều xấu, không thể biện minh. Tôi nêu hai chú thích trên để khẳng định lời dạy của giáo lí Công Giáo, hầu hi vọng người đọc không thể hiểu lầm ý viết trong đoản khúc này.
Giả sử Ađam đã không sa ngã thì địa đàng ra sao?
Câu chuyện hôn nhân đầu tiên trong sách Sáng Thế Kí được trình bày bằng lối văn chương thật thơ mộng. Chuyện tình sử Ađam-Evà mang nhiều chất "tình" hơn chất "sử".
Ngay từ giây phút tạo dựng ban đầu, liên hệ nam nữ đã là đề tài thứ nhất. Thượng Đế không gọi Ađam đi tu. Ngài tìm cho Ađam một tâm hồn và một thân xác. Ngài dựng nên người nữ. Trong lối trình bầy đẹp như một chuyện thần tiên, những trang mở đầu của pho Kinh Thánh cũng là những trang nói về chuyện đẹp thần tiên ấy: Chuyện nam nữ.
Ađam vào đời như một cung nhạc reo cao. Hân hoan. Thơ thới. Tuy nhiên, cái rong chơi của Ađam trong địa đàng có tự do, mà dường như là tự do trong không gian vắng của con tim. Có bướm bay và lá hoa khoe màu. Suối vui. Đẹp của địa đàng vẫn chỉ là đẹp trầm trầm. Có bình yên mà dường như vẫn thiếu. Ađam vẫn là Ađam của kiếm tìm. Bởi, chim và bướm không nói ngôn ngữ của Ađam. Và rồi, công trình tạo dựng của Thượng Đế chỉ trọn vẹn khi Evà xuất hiện.
Tác phẩm mà Thượng Đế để dành sau cùng để làm xinh tươi địa đàng là người thiếu nữ. Lối trình bày ấy đưa chân dung người nữ lên thành hình ảnh một kiện toàn rất thơ mộng cho vũ trụ.
Ađam bước một mình không tốt (Stk. 1:18). Nói việc tạo dựng nên Evà để Ađam được "tốt hơn", có phải cũng là cách nói sự vắng mặt của Evà làm Ađam không toàn vẹn? Như thế, Evà không đến để phục vụ Ađam mà Ađam cần Evà cho đời sống của mình phong phú hơn. Là phần đời của Ađam nên Ađam không thể không bỏ mọi sự mà yêu thương Evà, nếu Ađam muốn mình sống trọn vẹn phong phú ấy (Stk. 2:24). Qua hình ảnh thi vị của câu chuyện sáng tạo, người nữ không những là vẻ đẹp Thượng Đế ban cho địa đàng mà còn là sự cần thiết Ngài ban tặng cho cuộc đời. Cách trình bầy câu chuyện sáng tạo mang chiều sâu của thi ca. Lời ngắn mà ý mênh mông. Vườn cây của địa đàng dưng dưng chờ đợi, và trái tim Ađam cũng thế, lặng lờ cho tới khi Evà vào đời. Bấy giờ mới thật đẹp xinh. đẹp thần tiên ấy: Chuyện nam nữ.
Ađam vào đời như một cung nhạc reo cao. Hân hoan. Thơ thới. Tuy nhiên, cái rong chơi của Ađam trong địa đàng có tự do, mà dường như là tự do trong không gian vắng của con tim. Có bướm bay và lá hoa khoe màu. Suối vui. Đẹp của địa đàng vẫn chỉ là đẹp trầm trầm. Có bình yên mà dường như vẫn thiếu. Ađam vẫn là Ađam của kiếm tìm. Bởi, chim và bướm không nói ngôn ngữ của Ađam. Và rồi, công trình tạo dựng của Thượng Đế chỉ trọn vẹn khi Evà xuất hiện.
Tác phẩm mà Thượng Đế để dành sau cùng để làm xinh tươi địa đàng là người thiếu nữ. Lối trình bày ấy đưa chân dung người nữ lên thành hình ảnh một kiện toàn rất thơ mộng cho vũ trụ.
Ađam bước một mình không tốt (Stk. 1:18). Nói việc tạo dựng nên Evà để Ađam được "tốt hơn", có phải cũng là cách nói sự vắng mặt của Evà làm Ađam không toàn vẹn? Như thế, Evà không đến để phục vụ Ađam mà Ađam cần Evà cho đời sống của mình phong phú hơn. Là phần đời của Ađam nên Ađam không thể không bỏ mọi sự mà yêu thương Evà, nếu Ađam muốn mình sống trọn vẹn phong phú ấy (Stk. 2:24). Qua hình ảnh thi vị của câu chuyện sáng tạo, người nữ không những là vẻ đẹp Thượng Đế ban cho địa đàng mà còn là sự cần thiết Ngài ban tặng cho cuộc đời. Cách trình bầy câu chuyện sáng tạo mang chiều sâu của thi ca. Lời ngắn mà ý mênh mông. Vườn cây của địa đàng dưng dưng chờ đợi, và trái tim Ađam cũng thế, lặng lờ cho tới khi Evà vào đời. Bấy giờ mới thật đẹp xinh.
Nhưng! khổ lụy khi Evà sa ngã thì sao?
Qua dòng lịch sử và văn hóa của nhiều miền đất, Evà đã bị coi như căn do làm địa đàng bất hạnh. Đã có thời nền tu đức coi người nữ nguy hiểm như nguyên nhân tội lỗi. Người nữ phải mang nhiều mặc cảm thua thiệt. Bị chối từ nhiều ơn gọi. Từ cuộc sống thực hôm nay, nhìn lại lối trình bầy bóng bẩy trong văn chương "tình" nhiều hơn "sử", ta thấy hình ảnh của người nữ là làm đẹp và kiện toàn sự sống trên vũ trụ như lời địa đàng thủa xưa.
Đặt vấn đề vì Evà mà Ađam mới sa ngã và quy tội cho người nữ là căn nguyên tội lỗi là đặt một phán quyết thiếu nghiêm túc. Đã có một thời của quá khứ với những suy tư đáng tiếc ấy. Hôm nay, người nữ đang tìm lại được nét duyên trang trọng của trang Cựu Ước ban đầu. Bởi đó, nên nhìn câu chuyện "tình sử" đẹp của ngày tạo dựng bằng "tình" hơn bằng "sử" và đọc với tâm hồn thi ca.
Thi ca bao dung. Người có tâm hồn thi ca không đơn giản nhìn đời dưới khía cạnh tất cả bóng tối là khổ nạn. Thi ca không đặt vấn đề vì hiện diện của Evà mà Ađam sa ngã. Nhưng tâm hồn thi ca muốn rủ đời thong thả đi vào sầu đắng để tìm mật ngọt. Nếu có đặt vấn đề thì băn khoăn của người có tâm hồn thi ca là nếu Ađam không sa ngã thì sao?
Ngôn ngữ của trang Kinh Thánh rất thơ thì ta cũng hãy đi tìm ý của ngôn ngữ ấy với tâm hồn rất thơ của thi ca. Giả sử Ađam không sa ngã thì địa đàng chắc buồn lắm! Evà phạm tội thì đời nàng sẽ phải khổ theo tội. tội. Dù không muốn biệt li, nàng cũng phải chia tay Ađam mà xa dần. Nhìn Evà khổ lụy, liệu Ađam có khỏi trầm luân? Nếu Ađam không sa ngã theo Evà, nếu Ađam cứ đi riêng con đường của mình thì con đường nào Evà sẽ đi, đi về đâu? Phải chăng địa đàng từ đó là hai lối đi, hai ngã rẽ, hai khung trời?
Nếu Ađam không theo lời Evà, cứ theo lộ trình khác đi riêng mình thì Ađam vẫn tiếp tục một mình vì thiếu vắng người nữ. Chính cái "một mình không tốt" ấy mà Thượng Đế đã tạo dựng cho Ađam người nữ. Vậy, giờ đây nếu Ađam không chung đường với Evà thì Thượng Đế có phải tạo một Evà khác cho Ađam? Mà tạo dựng Evà khác thì Thượng Đế sẽ tạo người nữ ấy từ hư vô hay cũng lấy xương thịt của Ađam? Cái thi vị trong cách trình bầy câu chuyện tạo dựng Evà là Thượng Đế đã lấy xương thịt của Ađam. Nếu lấy từ xương thịt Ađam thì Evà có đi đâu chăng nữa cũng vẫn là phần đời của Ađam. Ađam có một Evà khác xinh đẹp thế nào đi nữa thì cũng chẳng thể nguôi khoai được vì một phần đời của mình đã ở nơi Evà cũ. Nếu Evà thứ hai được tạo dựng từ hư vô thì liên hệ giữa Ađam với Evà thứ hai này có lẽ xa xôi như liên hệ của hai chủ nhân.
Ađam không sa ngã là Ađam của ánh sáng. Evà mang thân phận bóng tối rồi. Không còn chung một khung trời thiêng liêng thì trong địa đàng là ngã rẽ, ngổn ngang đằng trước, gập ghềnh phía sau. Nếu không nhìn bằng ý của thi ca trong câu chuyện sáng tạo thì Ađam phải li dị Evà. Lúc ấy địa đàng chắc buồn lắm.
Thượng Đế đã tạo dựng Evà từ xương thịt của Ađam là lối trình bầy thật quá thơ và quá thực. Thực, vì nó toát ra một gắn bó yêu thương quá tạo hình, không cần lí giải. Thơ, vì nó quá mênh mông nên cũng không thể dùng nhận thức của trí tuệ mà lí giải được. Tạo hình, vì Evà đến từ xương thịt Ađam thì địa đàng không thể có hai chủ nhân mà chỉ có một. Tình yêu ấy trở thành nhất thể. "Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác" (Stk. 2:24). Vì chỉ có một nên Ađam xúc phạm Evà là xúc phạm chính mình. Ađam cũng không thể yêu thương Evà như yêu một chủ thể ngoại tại được, như thích một bông hoa, một ngọn đồi. Evà là phần đời của mình, bởi đó, có phải con đường hạnh phúc và đẹp như thơ của Ađam là yêu thương Evà để yêu thương mình?
Đấng Cứu Thế đã giáng trần vì tội nguyên tổ. Trong đêm Phục Sinh, lời phụng vụ reo vui và gọi tội ấy là "ôi! tội hồng phúc". Tâm hồn thi ca có thể gọi sa ngã của Ađam là "tội yêu thương". Gọi là Kinh Thánh vì lời đó có chất "thánh". Vậy, ta hãy nhìn "tội" trong trang Kinh Thánh đầu tiên ấy với cái nhìn về phía "thánh" hơn là phía "tội". Rồi, chuyện "tình sử" ấy sẽ tiếp tục lung linh đẹp lên ý nghĩa chuyện tình yêu.
Cái sa ngã của Ađam làm cho Evà cùng đi chung một đường trần, cùng bước chung một nhịp tình. Tâm hồn thi ca thấy ý của sa ngã ấy, thấy nghĩa của lỗi phạm đó là địa đàng làm sao lại có thể có hai khung trời được. Địa đàng có đau khổ mà vẫn không thấy ngôn ngữ li dị. Có chao đảo mà không biệt li. Ađam đã nâng đầy một vận điệu sai cung cho ngõ cụt có lối đi. Phải chăng, vì thế, cùng đi trong hôn nhân có một giá trị đẹp. Ý của thơ không tìm cách giải lí tại sao trong hôn nhân lại có đau khổ. Trong sầu đắng tâm hồn thơ đi tìm mật ngọt. Đối với thơ thì tình yêu hôn nhân trong vườn địa đàng thuở xưa đẹp vì hai tâm hồn ấy đã lấy đau khổ mà dìu nhau đi.
Ađam đã cùng khổ lụy trong nỗi gian nan của Evà. Tình yêu từ đó đậm thêm ngôn ngữ thi ca. Có những quãng đời dường như không thấy hạnh phúc đâu. Lúc ấy hạnh phúc ẩn náu bằng ngôn ngữ của thơ. Thơ sẽ định nghĩa hạnh phúc là cùng nhau đau khổ. Ngôn ngữ của thi ca đi tìm hạnh phúc là khi cùng nhau sầu đắng thì có mật ngọt trong sầu đắng rịn ra. Đơn giản, kín đáo và siêu bạo.
Trong cái nhìn bao dung của ngôn ngữ thi ca, ta chẳng kết án Evà, không phàn nàn Ađam, rồi sẽ thấy ý đẹp của chuyện tình còn đó. Trong cái bao dung của ngôn ngữ ấy, ta thấy lỗi lầm của Ađam đã chủ động một tiềm lực sáng tạo ý nghĩa biết bao. Là chuyện "tình sử", hãy nhìn phía "tình". Là Kinh Thánh, hãy nghe tiếng nói từ phía "thánh". Rồi ta sẽ thấy hình ảnh Ađam làm một chọn lựa với Evà, hai người cùng nhau đi trong gian nan, không phải là ngôn ngữ thẳm sâu nói về tình yêu của hôn nhân sao?
Không đọc chuyện gian nan địa đàng xưa là chuyện cổ tích tội lỗi, mà với ý thơ, ta đọc như chuyện tình của chính mình. Người đàn ông ngã xuống với vụng về của Evà là bóng hình chính mình. Đức Kitô ngã xuống với nhân loại trong nghèo khó. Người đàn bà, bóng hình của người đàn ông, hạnh phúc vì nắm bắt được thiên đàng vừa vụt bay. Rồi bóng hình của nhau ấy cùng dìu nhau đi.
Chất thơ trong tội của Ađam là "mình bóc vỏ mình" để với người yêu của mình cùng đi, dẫu đời có chát chúa. Địa đàng sau khi Evà phạm tội có thay đổi nhưng vẫn một khung trời. Tâm hồn hai người có khác thủa mới tạo dựng nhưng vẫn chung một lối đi. Vẫn còn là chuyện tình. Chớ gì ta luôn có tâm hồn thơ để bao dung với đời. Thinh lặng nhặt những mẩu đời tầm thường trong cuộc sống mà đưa thành sáng tạo, kiên nhẫn, nhân từ với bóng hình của chính mình. Trong tình yêu có những hiu quạnh và sầu đắng, xin cuộc đời cho ta biết lắng nghe lời thi vị của thi ca mà tìm ý nghĩa.
Ý nghĩa cuộc đời mà linh hồn của thơ muốn tìm là nếu Ađam không cùng chung hệ lụy với Evà thì bây giờ địa đàng thế nào. Chắc mỗi người một nẻo, hai người hai ngả rẽ, chuyện tình ấy rồi biết đi về đâu.
Kinh Chiều
Nguyễn Tầm Thường (trích trong Viết Trong Tâm Hồn)
Đêm nay con muốn nói với Chúa về nỗi cô đơn của một linh mục. Con không còn trẻ như một linh mục mới ra trường để rạo rực thấy màu áo dòng luôn sáng mùa phục sinh. Con cũng chưa là tay thợ gặt đã sương gió quá đời người trên cánh đồng. Con chỉ vừa đủ một quãng đời cho một kinh nghiệm nỗi cô đơn của đời linh mục là gì.
Ngày giã từ nhà trường với hương thơm của sách vở như vẫn còn phảng phất đâu đây. Con nhớ ngày đó đẹp làm sao. Như cánh diều chờ gió cho một chân trời đã căng đầy ước mơ từ lâu. Giờ đã đến, tung gió mà bay cho bát ngát bầu trời. Chiếc áo dòng đóng dấu đời con một tình sử thiêng liêng. Con bước xuống cánh đồng với lời hứa sẽ đem về một mùa lúa hân hoan.
Đêm nay, nhìn màu áo trong thinh lặng của một đêm trằn trọc tâm tư. Có nhiều thứ cô đơn trong cuộc sống. Cô đơn con muốn nói với Chúa đêm nay là cô đơn mà một linh mục thấy cô đơn hơn cả.
Trong tình yêu, khi một người muốn yêu mà tình yêu cứ bay ngược gió, họ thấy hồn họ hiu hắt buồn. Họ có thể gọi nỗi buồn ấy là cô đơn. Dường như con tim phải đi tìm con tim. Chẳng thế, sao Chúa phải tạo dựng Evà cho Ađam? Trong câu chuyện tạo dựng Ađam-Evà, lời Kinh Thánh thật thơ mộng khi bảo rằng trái tim người thanh niên ở một mình không tốt. Đó là tiếng gọi nhiệm mầu liên hệ giữa nam và nữ. Từ thời gian đó về sau, con tim đi tìm con tim.
Nhưng câu chuyện yêu thương đẹp như thần thoại ấy cũng có lối rẽ riêng cho một màu sắc khác. Đó là khi Evà đến thì Ađam đã sa ngã. Vậy, nếu Evà đừng tới có phải trái tim một mình của Ađam tự do dong chơi hơn? Lời trong trang Kinh Thánh thì ngắn mà ý thì mênh mông vô bờ. Có liên hệ nhiệm mầu giữa hai người, nhưng giữa hai người vẫn có khoảng cách. Ađam đã sa ngã sau khi Evà đến cho thấy liên hệ nam nữ ấy không phải là định đề tất yếu tối hậu cho một hạnh phúc trọn hảo.
Tuy không là liên hệ tất yếu phải có, nhưng liên hệ nam nữ là tiếng gọi rất sâu trong thân xác. Tiếng gọi nhiệm mầu của con tim đi tìm con tim vẫn luôn là thôi thúc. Tuy nhiên, không phải là định đề tất yếu phải có cho hạnh phúc, nên tình yêu nam nữ chỉ là một thứ nhu cầu trong nhiều nhu cầu khác của cuộc sống. Trong khoảng cách nam nữ, nhiều người đi tìm một tình yêu dàn trải hơn, nó là sáng tạo, là nghệ thuật, là phụng sự, là lí tưởng tôn giáo như lí tưởng con đang theo.
Con yêu những chân trời nắng dội. Con không thể đánh đổi cho dù một vườn cung ngự uyển nào cả. Con muốn đi. Con hạnh phúc với cánh tay với mãi bầu trời. Con muốn bay. Con không thể đánh đổi những chiều băng gió, qua mây ngàn tìm ánh sao. Những buổi chiều ấy huyền nhiệm quá. Có những bóng chiều một mình, mây ngàn hun hút thẳm, trái tim có khi rất thơ cho một bóng hình. Con độc hành mà vẫn không cô đơn. Vắng bóng hình trong liên hệ nam nữ không là nỗi cô đơn của con. Bởi cô đơn làm sao được khi con đem kinh cầu gõ lối cho ý thơ bay cao. Vậy, nỗi cô đơn con muốn nói Chúa đêm nay là nỗi cô đơn nào.
Trong những định nghĩa về cô đơn cũng có thể là cô đơn vì thiếu quý mến của kẻ đồng hành. Đường về Nhà Chúa là ơn gọi đi chung. Con không thể là linh mục của Chúa nếu không đi với ai. Con có bước chân riêng, nhưng trong cái riêng ấy không vắng những bước chân bên nhau. Những bước chân bên nhau ấy đã có những bước lầm lẫn dẵm vào đời nhau. Và lầm lẫn ấy làm cho đôi chân xa nhau dần dần. Ái ngại. Sượng sần. Phải đi với nhau trên một lộ trình mà ngại nhìn nhau trong gặp gỡ đó là nỗi vắng giữa đám đông. Nó là nỗi vắng không dám định nghĩa là cô đơn. Khi chiều buông, lá cây xẻ cánh rũ vào đêm, hình hài nỗi vắng ấy lên màu. Khoảng màu ấy là sự xa cách. Lúc thinh lặng của bóng hoàng hôn và khi tiếng kinh chiều đã lịm, trăn trở của một chiều nghỉ ngơi mà thấy chung quanh mình là chống đối, đó không phải là những chiều cô đơn của sự đơn côi sao.
Nhưng thưa Chúa, không hẳn mọi xa cách đều mang màu đơn độc. Đối với con, có những xa cách cần thiết cho sáng lên một định đề lí tưởng mình đã chọn cho đời mình. Con có đủ can đảm chấp nhận khác í để giữ trọn lối sống. Bước đi bên cạnh bao nhiêu bước chân khác, con phải học can trường mà chấp nhận những giây phút bị những bước chân chống đối. Đẹp biết bao khi bước chân nào cũng rạo rực những thương cùng mến, những nhớ cùng mong. Là linh mục, con không mơ tưởng điều ấy, con nguyện xin và cố gắng, nhưng con phải thực tế nhìn những khía cạnh dang dở của cuộc đời và chấp nhận những ngày u ám. Và, con đủ nghị lực để không định nghĩa những chiều nghỉ ngơi trong trăn trở của những cảm tình xa cách mình ấy là cô đơn. Những giây phút không có Chúa bên mình, không thấm linh hồn trong cầu nguyện, xa cách ấy có thể làm lí tưởng linh mục bạc màu. Con cũng đã thấy có những tâm hồn linh mục mang nhiều thương đau của những chống đối đó. Con cũng sợ những giây phút con không thấm linh hồn trong cầu nguyện, không có Chúa bên con.
Còn hơi ấm của máu, còn tiếng thở của rung cảm là còn biết nỗi chán của những xa cách. Phải can đảm lắm mà chống cự. Phải anh hùng lắm mà giữ vững niềm vui. Tuy hoang vu thế nào đi nữa con vẫn không định nghĩa sự xa cách đó là cô đơn. Thiếu thương mến của những bước chân song hành, nếu có khó khăn của những bước chân đưa đời mình vào nghịch cảnh, con gọi đó là những u ám của mùa thương khó. Có chán nản con cũng không gọi đó là cô đơn. Vì con vẫn có Chúa. Nỗi cô đơn con muốn nói với Chúa đêm nay ở sâu mãi trong tâm hồn con.
Có lẽ con đủ can đảm để đi những tháng ngày u ám của mùa thương khó. Có lẽ con đủ tha thiết để bay cao trong những chiều có tiếng gọi thầm trong thân xác của vườn địa đàng. Nhưng nỗi cô đơn trong con là cô đơn khi con không muốn nghĩ về Chúa, không muốn nói về Chúa, không đủ năng lực đem Chúa cho người khác, và nhất là không có Chúa trong con.
Là linh mục, mà con không muốn nói về Chúa cho cuộc đời, con thấy trong con úa nắng làm sao. Là linh mục, mà mỗi sáng con ngại ngùng dâng lễ, con thấy trống vắng lắm. Những lúc như vậy, con thấy dâng lên một nỗi chán rất sâu. Nỗi chán ấy đến từ vùng sâu thẳm nhất của linh hồn. Là linh mục, mà con không đủ nghị lực đem Chúa cho người khác, con thấy những ngày như vậy giống như mùa thu rất ngắn trong khu vườn rất chật. Lặng lẽ và lặng lờ. Con gọi tất cả những nỗi chán và nỗi vắng ấy là cô đơn. Khi con không muốn nói về Chúa, nghĩ về Chúa, không có Chúa trong con, con thấy con lẻ loi. Con gọi sự lẻ loi ấy là cô đơn.
Con yêu những chân trời nắng dội của Phanxicô Xaviê. Người thanh niên một thuở nuôi mộng đời giữa kinh thành hoa lệ Paris đã giã từ bờ biển Tây Phương không hẹn ngày trở lại. Và thực sự, người thanh niên ấy đã ra đi không bao giờ trở lại quê hương của mình. Theo cánh buồm của đám thương gia tìm đường đi truyền giáo. Rời Lisbon đến Ấn Độ. Bỏ Ấn Độ tìm đường đi Mã Lai. Bỏ Mã lai tìm vào Nam Dương. Bỏ Nam Dương tìm vào Nhật Bản. Bỏ Nhật Bản tìm vào Trung Hoa. Một ngày u ám không tiếng sóng, chết trên bờ biển với người bạn duy nhất mà vẫn xuôi mắt nhìn vào Hoa Lục vì mơ ước chưa thành.
Lạy Chúa, không có nghịch cảnh nào ngăn nổi bước chân Phanxicô Xaviê vì người thanh niên ấy muốn nói về Chúa. Con muốn đi qua những giới hạn của liên hệ trong tâm hồn, trong thân xác, trong xã hội để cánh chim bay cao. Cô đơn của linh mục là không muốn nghĩ về Chúa, không muốn nói về Chúa. Và, lạy Chúa, khi con ngại dâng lễ, chán giờ kinh nguyện là dấu chỉ con đang đi vào cô đơn. Đêm nay, con muốn nói với Chúa về nỗi cô đơn đó.
Con đường chuẩn bị cho Thiên Niên 2000 được bắt đầu từ năm nay 1997, năm thứ nhất, qua chủ đề: Chúa Kitô, hôm qua, hôm nay và ngày maị Để sửa soạn cho chương trình ba năm, Lên Đường đang cùng với toàn thể giáo hội không những chỉ suy niện mà còn sống với Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô nữa Số báo đầu tiên của năm nay đến đúng trong dịp Mùa Xuân. LĐ hân hoan chọn Chúa Kitô và đặt Ngài vào giữa tâm hồn mình để cho chính Ngài là mẫu mực "loài người" của đời sống người linh thao mỗi ngày và tiếp tục trong suốt năm 97 này, từng giây phút ta sống đều là những phút giây Xuân thật tươi đẹp với Chúa Kitô
Chuông giáo đường sẽ ru em ngọt ngào
Tình sẽ đẹp sẽ nghìn thu óng ánh
Đã chấp nhận thì phong ba gió lạnh
Ta cũng đi, ta sẽ đi miệt mài
Tay vẫn gọi ta hướng trọn tương lai
Về vùng đất có máu trời loang đổ
Trăng dịu hiền nhưng là hoa cám dỗ
Trăng không đến Adam đâu đau khổ
Cửa thiên đàng đâu đóng ngõ cài then
Thôi trăng ạ trăng ơi đừng quyến luyến
Lệnh ban rồi giã từ thôi trăng ơi
Tình của ta là tình đất tình trời
Ta ôm mộng giang tay vòng thế giới
Hỡi trăng ơi, trăng ơi đừng chờ đợi
Một chuyến đi chuyến định mệnh cuộc đời
Giơ tay vẫy không bao giờ trở lại
Thôi trăng ạ, trăng ơi đừng chờ đợi
Nếu tình trăng tình mênh mông vời vợi
Hãy chấp tay mỉm cuờivới muôn sao
Lời sám hối có bao giờ em tự thú?
Ta gối mộng giang tay tròn vũ trụ
Thì trăng ơi trong ánh mắt đưa duyên
Sao không biến thành tình yêu diệu huyền
Để hai đứa hân hoan tình cao cả
Ta muốn chết trên đồi cao thánh giá
Ta yêu lắm, yêu thiết tha vô cùng
Chiều Do thái có đau khổ lao lung
Có máu đổ cho tình sầu nhân thế
Thôi trăng ạ, trăng ơi đừng kể lể
Dẫu vườn mơ đang phơi phới tầm xanh
Nhưng nụ hồng vẫn yếu đuối mỏng manh
Hãy tặng nhau mùa tình hoa kinh thánh
Tôi đã gặp Ngài
Người công nhân xây dựng
Bàn tay chai cứng
Tôi đã gặp ngài
Người phu xe thô sơ
Ao đẩm mồ hôi
Tôi đã gặp Ngài
Người công nhân cùng khổ
Màu da sạm nắng
Tôi đã gặp Ngài
Người công nhân quét đường
Lầm lũi trong đêm
Tôi đã gặp Ngài
Em bé mồ côi
Thiếu ăn – thiếu học
Còn nữa tôi đã gặp Ngài
Nơi phố thị đông vui
Nơi đồng sâu ngút ngàn
Nơi rừng xanh hoang vu
Nơi bầu trời cao thẩm
Nơi biển cả mênh mông
Điều đáng nói là
Tôi đã gặp Ngài
“Khi tôi vấp ngã”
Ngài đã đến bên tôi
Với ánh mắt bao dung
Với vòng tay rộng mở
Với giọng nói dịu êm
Chính Ta đây, đừng sợ (Ga 6, 20)
Từ đấy Ngài và tôi
Như bóng với hình
Không rời xa… mà mãi mãi song hành. Mùa chay
Thập Giá
“Hãy vác Thập giá mình…” (Mt 16, 24)
Những lời này thật khác thường cùng độc nhất. Cũng như những lời khác của Chúa Giêsu chúng chứa đựng một thứ ánh sáng mà thế gian không biết đến. Chúng thật sáng ngời đến độ những con mắt tối tăm của con người và của cả những tín hữu Kitô nguội lạnh đều biọ chói lòa.
Có lẽ không gì bí ẩn cùng khó hiểu cho bằng thập giá; nó không đi sâu vào đầu óc cùng tâm hồn con người. Nó không đi sâu vào vì người ta không hiểu, vì thường người ta cghỉ mang danh là tín hữu, chỉ được Rửa tội, có thể là mộ đạo, nhưng rất xa vời điều Chúa Giêsu muốn cho ta.
Ta nghe nói đến Thập giá vào mùa Chay, hôn Thập giá vào thứ sáu Tuần Thánh, treo Thập giá trên tường. Nó đóng dấu ấn trên một vào hoạt động của ta, nhưng không được ta hiểu. Có lẽ mọi sai lầm là tại vì trên đời người ta không hiểu gì về tình thương.
Tình thương là từ đẹp nhất, nhưng lại bị bóp méo nhiều nhất, bị làm thành xấu xí nhất. Đó là yếu tính của Thiên Chúa, là sự sống của con cái Thiên Chúa, là hơi thở của người tín hữu Kitô, Nhưng đã trở thành gia sản, độc quyền của thế gian; nó ở trên môi miệng của những kẻ không có quyền được nói lên.
Chắc chắn trên đời không phải mọi tình thương đều là như vậy. Vẫn còn tình mẫu tử chẳng hạn làm cho tình thương nên cao đẹp, vì nó trộn lẫn với đau khổ; còn có tình huynh đệ, tình vợ chồng, tình hiếu để, còn tốt đẹp, còn lành mạnh. Có lẽ đó là dấu vết mà ta không ý thức của tình thương Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên tất cả.
Nhưng điều không được hiểu biết là tình thương cao cả nhất :
Đó là Thiên Chúa, Đấng tạo thành nên ta , đã đến ở giữa chúng ta như một người giữa muôn người, đã sống với ta, đã ở lại với ta và đã chịu đóng đinh trên Thập giá vì ta : hầu cứu độ ta.
Điều đó quá cao xa, quá cao đẹp, quá thần thiêng, quá ít nhân loại, quá đẩm máu, đau thương, sắc bén để người ta hiểu được.
Có lẽ qua tình mẫu tử người ta hiểu được đôi chút, bởi vì tình thương của một người mẹ không chỉ là vuốt ve, âu yếm; nhưng trên hết là hy sinh.
Đối với Chúa Giêsu cũng vậy : tình thương đã thúc đẩy người nhận lấy Thập giá, điều mà nhiều người cho là điên rồ. Nhưng chỉ có sự điên rồ ấy mới cứu được nhân loại, mới nắn đúc nên các thánh nhân.
Thực thế thánh nhân là người có khả năng hiểu được Thập giá. Là nhữồi theo Chúa Giêsu, con người Thiên Chúa, các ngài đã nhận lấy Thập giá hằng ngày như một điều quí giá nhất trên đời, có khi các ngài đã giương cao Thập giá lên như một khí giới, gióng như những chiến sĩ của Thiên Chúa; các ngài đã mến yêu Thập giá trọn đời mình, và đã nhận biết cùng nghiệm được rằng Thập giá là chiế c chìa khóa, là chìa khóa duy nhất để mở kho tàng, kho tàng duy nhất. Thập giá dần dần mở rộng các tâm hồn đến chỗ hiệp thông với Thiên Chúa. Như vậy, qua con người, Thiên Chúa lại tỏ hiện cho thế gian, và cho dầu theo mọt cách thế hoàn toàn kém hơn, nhưng tương tự Ngài đã lập lại những tác động Ngài đã làm, khi còn là một người giữa muôn người, Ngài đã chúc phúc cho người chúc dữ mình, tha thứ cho người thóa mạ mình, cứu chữa, rao giảng những Lời của trời cao, làm cho người đói khát được no nê, thiết lập một xã hội mơí dựa trên tình thương, toỉ cho thấy quyền năng của Đấng đã sai Ngài. Tóm lại Thập giá là điều cần thiết để nhờ đó điều thần thiêng đi vào cõi nhân sinh và con người tham dự hoàn toàn hơn vào sự sống của Thiên Chúa, bằng cách vươn từ nước trần gian đến nước Thiên Chúa.
Nhưng cần phải “vác lấy Thập giá mình…”, phải thức dậy ban sáng trong niềm chờ đợi Thập giá vì biết rằng duy trì qua Thập giá các hồng ân mà thế gian không biết được mới đến với ta : đó là niềm an bình, vui tươi, ơn được biết những điều cao xa mà rất nhiều người không được biết.
Thập giá …một điều rất thường tình. Nó thật trung thành nên không lỡ hẹn ngày nào. Chỉ cần thu lượm Thập giá để nên thánh.
Thập giá, huy hiệu của tín hũu Kitô mà thế gian không muốn, vì tin là khi chạy trốn nó, người ta tránh được đau khổ và không biết rằng Thập giá mở rộng tâm hồn của người hiểu biết nó đến nước ánh sáng cùng tình thương : tình thương mà thế gian luôn tìm kiếm nhưng không có được.
Tôi chỉ biết Chúa Kitô chịu đóng đinh Thập giá
(1 Cor 2, 2)
Tôi chỉ có một người bạn trăm năm duy nhất trên đời :
Chúa Giêu chịu đóng đinh Thập giá và bị bỏ rơi;
Ngoài Người, tôi không có một Thiên Chúa nào khác.
Nơi người là tất cả thiên đàng
Cùng với Thiên Chúa Ba Ngôi
Và tất cả trần gian cùng với nhân loại.
Vì thề điều gì của Người là của tôi và không gì khác nữa.
Tất cả mọi đau khổ là của Người, vì thế là của tôi
Tôi sẽ rảo khắp thế giới để tìm kiếm Người
Trong mọi giây phút đời tôi.
Cái làm tôi đau đớn là của tôi
Của tôi niềm đau khổ đến trong hiện tại.
Của tôi niềm đau khổ của những ai gần kề.
Của tôi tất cả những gì không phải là an bình, vui tươi.
Đẹp đẽ, đáng yêu, tươi tỉnh..
Như vậy suốt những năm tháng còn lại trên đời :
Tôi sẽ khát khao những đau khổ, dằn vặt, thất vọng,
những chia lìa, đầy ải, bỏ rơi, những dày vò,
những …tất cả những gì là của Người
và người là khổ đau.
Như thế tôi sẽ lau khô nước mắt khổ ải
Nơi nhiều tâm hồn gần gũi
Và qua mối hiệp thông với người bạn trăm năm đầy quyền năng của tôi,
Nơi những tâm hồn ở xa.
Tôi sẽ đi qua như ngọn lửa, thiêu rụi những gì phải bạt đổ
Và chỉ để lại sự thật mà thôi.
Thánh lễ của người, thánh lễ của ta
Khi bạn đau khổ, và khổ đau của bạn đến độ
cản ngăn mọi hoạt động của mình, thì bạn hãy nhớ đến thánh lễ.
Trong thánh lễ,
Ngày nay cũng như thưở xưa,
Chúa Giêsu không làm việc, không giảng dạy :
Ngài hy sinh chính bản thân vì tình thương.
Trong cuộc đời
người ta vcó thể làm nhiều chuyện, nói nhiều lời,
nhưng tiếng của khổ đau,
có thể là ngươì khác không nghe thấy, không biết đến,
của khổ đau dâng lên vì mến yêu, là lời mạnh mẽ nhất, lời có sức xé trời.
Khi bạn đau khổ, hãy dìm khổ đau của bạn vào khổ đau của Ngài :
Hãy dâng thánh lễ của bạn;
Và nếu thế gian không hiểu,
Đừng bận tâm :
Chỉ cần Chúa Giêsu, Đức Maria các thánh hiểu bạn là đủ :
Hãy sống với các Ngài
Và hãy để cho máu của ban tuôn chảy
Vì lợi ích cho nhân loại :
Như Ngài !
Thánh lễ ! nó quá lớn lao để người ta có thể hiểu được.
Thánh lễ của Ngươì, thánh lễ của ta
Dang Dở
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Đời mất vui khi vẹn câu thề."
Đời có thật mất vui khi vẹn câu thề? Tình chỉ đẹp khi còn dang dở hay là cho dù dở dang tình vẫn đẹp? Người ta nói chấm dứt mối tình dở dang, nghĩa là lúc tình đó đang dang dở thì bị chấm dứt. Có phải đã chấm dứt rồi thì không còn dang dở nữa?
Chấm dứt là xong, là trọn vẹn không còn gì để nói. Khi đã chấm dứt thì tình đó thuộc về dĩ vãng nguyên tuyền. Nó dang dở trong quá khứ mà trọn vẹn xong ở hiện tại. Như vậy, tình thuộc dĩ vãng không còn tiếp tục hôm nay thì còn gì là dang dở?
Xem ra là thế, tuy nhiên, thuộc về dĩ vãng chưa hẳn là thuộc về vùng đã quên. Nếu còn nhớ thì ngay khi chấm dứt tình dang dở, tình vẫn chưa hết dở dang. Chấm dứt mà còn nhớ thì chuyện tình chỉ chấm dứt trong không gian ngoại cảnh chứ chưa hết trong không gian tâm hồn. Vì lẽ ấy, cũng khá khó cho một định nghĩa tình dang dở là gì, và còn khó hơn, tình dang dở có còn đẹp?
Có thể tìm một định nghĩa dễ hơn. Tình dang dở là tình còn nhớ. Ở đây, dang dở không có nghĩa là chấm dứt lúc còn dở dang. Dang dở là chưa xong.
"Rồi Người gục đầu xuống và tắt thở" (Yn. 19: 30). Đó là Tin Mừng Yoan tường thuật về cái chết của Đức Kitô. Hơi thở của Ngài không còn dang dở. Một sự gục đầu trọn vẹn kết thúc. Nhưng tình của Đức Kitô không phải là tình đã xong trong quá khứ. Tình ấy không chấm dứt ở thập giá chiều nào trên đồi Do Thái. Tình ấy vẫn hàng ngày gọi, hàng chiều chờ. Tôi gọi tình ấy là tình dang dở.
Đức Kitô tiếp tục yêu, còn tôi, tôi chưa nhận đủ. Ngài cho tình yêu, nhưng bàn tay tôi có nhiều khe rãnh, nên hứng lãnh mà tình ấy cứ rơi đi hoài. Vì cái dang dở ấy nên Ngài cứ băn khoăn làm sao cho tôi múc được nhiều để hồn tôi bớt trống và tim tôi thôi vơi. Và vì thế, dở dang của tình yêu ấy là dang dở đẹp. Tôi thấy trong dang dở của tình yêu này một trái tim bao dung và kiên nhẫn. Nhờ dang dở ấy mà tôi thấy Ngài không mòn mỏi vì phải đợi chờ, không đếm thời gian và đưa tình yêu vào thời khóa biểu. Giữa tôi với Ngài, còn thời gian thì còn dang dở, còn thương xót.
Đức Kitô yêu tôi bằng tình trọn vẹn. Ngài là tình yêu (1 Yn. 4:16). Ngài cho tôi chính Ngài với hơi thở sau cùng trên thập tự. Nói về công việc thì xong, biến cố lịch sử trên Núi Sọ hoàn tất. Nhưng tình yêu ấy không là biến cố lịch sử. Biến cố lịch sử chỉ là một trong những đường nét để vẽ chân dung tình yêu. Tình yêu ấy vẫn yêu tôi. Thập tự giá ngày xưa vẫn là thập tự giá hôm nay kéo dài trên bàn thờ khi tôi dâng lễ.
Đức Kitô đã phục sinh, nhưng trong đau đớn của chi thể Ngài là nhân loại thì Ngài vẫn còn bị đóng đinh. Trong yếu đuối, tôi làm phai nhạt bao nhiêu chuyện tình đẹp giữa tôi và Ngài, tôi vẫn có lỗi phạm. Trong lãng quên, tôi vẫn xuôi chiều bao nhiêu cám dỗ. Vì thế, tình tôi với Ngài làm sao mà không dang dở cho được.
Chỉ có tình trọn vẹn ở phía thập giá. Thập giá yêu thương nhân loại nhưng nhân loại không có tình trọn vẹn, nên khi tình trời nối với tình đất thì tình trời mang thương khó. Ngày nào còn nhân loại thì tình giữa nhân loại và thập giá còn là tình dở dang.
Không có tình yêu, trọn vẹn sẽ là trọn vẹn thiếu. Với tình yêu, dang dở sẽ thành dang dở quý mến.
Có những dang dở cần thiết. Dang dở cho chuyện tình còn dài, còn nhắc nhở, còn xám hối. Trong các phép lạ của Chúa, có một loại phép lạ có thể gọi tên là phép lạ dang dở. Một thứ dang dở mà Đức Kitô nhất định giữ:
— Khi chữa mắt cho người mù, Ngài chỉ chữa một cách dang dở. Ngài lấy bùn thoa vào mắt người mù nhưng anh ta chẳng khỏi. Anh ta phải đi rửa ở hồ Sứ Giả. Mù làm sao mà đi dễ dàng, thế mà Chúa không chữa cho xong (Yn. 9:1-41).
— Tiệc cưới Cana cũng vậy. Chúa không làm phép cho có rượu, nhưng chỉ làm cho nước hóa rượu. Đức Kitô bảo các gia nhân: "Hãy múc nước đổ đầy các chum" (Yn. 2:7). Sao Chúa không làm cho có rượu luôn đi mà lại bảo người ta đổ nước? Chúa chỉ làm một nửa. Thương xót thì trọn vẹn, nhưng thương xót ai, bởi đó, thương xót còn hệ tại đối tượng được thương xót muốn thương xót bao nhiêu. Do đấy, có những thương xót cần dang dở để đối tượng được thương xót kia lựa chọn mức độ thương xót cho mình. Nếu các gia nhân chỉ múc nửa bình thì chắc rượu chỉ có nửa bình thôi.
— Làm phép bánh từ "không có hóa ra có", và từ "có sẵn hóa ra có thêm" là hai thái độ, biểu tượng cho hai nội dung rất khác nhau. Chiều hôm ấy, đám dân chúng đói không có gì ăn. Các môn đệ không đủ bánh, nghĩa là có nhưng thiếu, hoặc nói cách khác là có mà dở dang. Chúa không vứt vất cái dang dở ấy rồi tự mình làm phép lạ. Chúa bảo đem cái dang dở ấy đến. Sao Chúa không làm phép lạ cho có bánh, mà chỉ làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Sao Chúa cứ thích cái dang dở của các tông đồ làm chi (Mc. 6:35-43).
— Thấy đền thờ thành nơi buôn bán, dơ uế mất rồi, Chúa bảo phá đi rồi trong ba ngày Ngài xây dựng lại. Tại sao Ngài không phá luôn cho tiện mà chỉ xây lại khi người khác phá (Yn. 2:13-22).
Chúa thích những phép lạ dang dở. Chúa làm có một nửa nên nhân loại mới được góp phần trong công việc trọng đại ấy. Cái dang dở Chúa để xẩy ra là dang dở huyền diệu. Thiếu dang dở này con người thiệt thòi biết bao. Cần có những dang dở của Chúa để dang dở của con người hết dở dang. Con người không thể làm phép lạ tự cứu lấy mình. Chúa cũng không cứu con người khi con người không tự do nhận lãnh. Phép lạ của Chúa cần là phép lạ một nửa, phép lạ dang dở để tôi được tham dự. Cái dang dở của Chúa là chỗ trống cho tôi bước vào.
Chúa không thể nào bất toàn. Bởi đó, những gì dang dở mà Chúa để xẩy đến trong cuộc sống, tôi phải tìm hiểu. Có khi là đau khổ, có khi là những ngày chán nản. Những mũi chỉ thêu ngang dọc làm cho tấm tranh rối mù lộn xộn, nhưng nó sẽ là tác phẩm nghệ thuật khi nó hết dở dang. Con đường Hội Thánh đang đi là con đường dang dở. Công cuộc rao giảng Tin Mừng là công cuộc dang dở. Nhưng trong dang dở ấy là ngưỡng cửa hi vọng. Đời truyền giáo của tôi là một hành trình đang dang dở. Tay tôi ngắn mà cánh đồng thì mênh mông. Nhưng nối tiếp những dang dở sẽ thành hoàn hảo. Người sống hi vọng phục sinh là kẻ chấp nhận những dang dở Chúa để xẩy đến, và nhìn thấy dang dở trong công cuộc rao giảng thập giá là dang dở lạc quan.
Dang dở của tình yêu giữa tôi và Chúa không là dang dở phải chấm dứt. Chúa không bao giờ chê căn nhà tôi nghèo nàn. Tôi cũng chẳng muốn bỏ Chúa. Dang dở chỉ vì yếu lòng. Dang dở vì vụng về trong những lựa chọn. Dang dở vì lấp lửng với những cám dỗ. Từ linh hồn thành thật rất sâu, tôi không muốn những dang dở này. Có băn khoăn về những sa ngã, có hối hận về những không trọn vẹn sẽ làm cho chuyện đường thập giá gồ ghề hơn. Những gồ ghề là những cản ngăn, nghĩa là đường thập giá sẽ thập giá hơn nữa. Khi đường thập giá trở nên thập giá hơn thì linh hồn gian nan hơn, nhưng vì gian nan đó cũng sẽ làm cho đường thập giá ấy ý nghĩa hơn.
Những chuyện tình gian nan bao giờ cũng là những chuyện tình nhiều kỉ niệm. Và, bởi đó, đường thập giá cho dù dang dở vẫn luôn luôn là những chuyện tình đẹp. Không phải dang dở thì mới đẹp, nhưng là vẫn đẹp khi dở dang.
Lạy Chúa, ngày nào còn hơi thở thì tim con còn rung cảm rực nóng. Còn rung cảm rực nóng thì còn những dang dở. Nhưng đường Chúa gọi đi là đường tình thập giá không đánh dấu bằng những lần ngã dở dang. Chúa nối những dang dở ấy thành đường thập giá. Bởi đó, con hi vọng và lạc quan trong mọi dang dở của hành trình thiêng liêng. Và con phải biết Chúa rất cần một thứ dang dở là Chúa không hoàn thành cho con tất cả ước mơ nếu con không thực sự mơ ước.
Ước mơ đẹp là mình ước mơ, còn ước mơ hững hờ là ước mơ người khác mơ ước dùm mình.
Xin cho con không bao giờ thở dài về sự dở dang trên đường thánh thiện. Không chán chường sự dở dang trong công cuộc truyền giáo rồi thôi rao giảng Tin Mừng để cho khỏi băn khoăn về những dang dở ấy.
Vâng, lạy Chúa, con không muốn làm cho chuyện tình thành dang dở, nhưng chỉ vì con yếu đuối. Chúa thương con, thì với Chúa, những chuyện tình dở dang của con trên đường theo Chúa vẫn là những chuyện tình đẹp.
Tình Yêu
Nguyễn Tầm Thường
Có bài ca trong đời hát rằng: "Con chim quý thì phải ở lồng son." Không biết lời ca đó có tự bao giờ, từ bao nhiêu thời gian thủa trước. Nhưng cũng từ gốc thời gian ấy có lời trầm buồn của một bài thơ. Tiếng người thục nữ u uẩn trong cung điện lầu son nhìn mây thênh thang đi về cuối chiều.
Có vì vua thương nàng nhiều lắm, nhưng nàng chẳng hạnh phúc. Nàng đẹp như dáng thu. Bên đồi dâu nàng hong tơ dệt lụa. Hạnh phúc êm ả, đơn sơ đi về trên lối cỏ may bốn mùa. Vị vua tiếc thương đời người thục nữ xinh mà chẳng có lầu son. Tiếc màu xanh thiên lí bên giàn gỗ mộc. Nhà vua bảo rằng hoa quý thì phải ở trong bình vàng cổ sứ cao sang. Vua đem người thục nữ về cung. Từ thủa đó có tiếng ru vào đời à ơi thương cho số phận: "Con chim quý thì phải ở lồng son!"
Có lời thương đau trong hồn hiu quạnh của cánh chim nhớ rừng. Vỗ về của bàn tay con người là khóc than trong trái tim của cánh chim thở dài nhìn trời cao. Có bàn tay dịu dàng đưa âu yếm. Nhưng trên đôi cánh ấy trĩu nặng mùa thập tự gian nan. Con chim nhỏ nói với "người yêu" của nó:
— Hãy mở cửa cho tôi bay cao. Tôi biết người âu yếm tôi. Nhưng tôi không cần được âu yếm, đó chỉ là âu yếm người cần. Tôi không là cánh chim nữa khi tôi không biết bay. Bởi đó, trong lồng son âu yếm người dành, không bao giờ có cánh chim thật, tôi chỉ là hình bóng mà thôi. Hạnh phúc của tôi ở cuối gió lưng đèo. Tôi chỉ cần gió và bầu trời. Hạnh phúc của loài chim là đôi cánh.
Nếu người thương tôi thật tình, xin hãy nhìn hạnh phúc của tôi chứ đừng nhìn tôi mà hạnh phúc.
Tiếng con chim nhỏ chỉ là lời kinh cầu thương khó. Bởi, làm sao định nghĩa được yêu thương?
Trong tình yêu, nhiều khi, yêu thương của trái tim này là khổ tâm cho trái tim khác. Biết rằng hạnh phúc của cánh chim nhỏ là trời cao. Nhưng tung cánh bay là chia li. Nhìn bóng bay xa về rừng vô tận là rưng rưng mất mát. Bởi đó, người ấp ủ cánh chim nhưng chỉ là thương mình. Và từ đấy, yêu thương là gian nan cho người được yêu. Tôi ray rứt người tôi thương mến bằng tình thương tôi trao tặng. Quà tặng yêu thương trở thành dằn vặt. Nhưng tôi vẫn nói với đời rằng tôi rộng lượng bao dung. Tôi vẫn nói với mình rằng tôi bác ái thật thà.
Khi tôi xây ngục thất cho tha nhân bằng hận thù thì tôi biết mình không có yêu thương. Nhưng khi lấy yêu thương xây ngục thất thì không biết mình đã mất thương yêu và tha nhân đang khổ đau.
Tôi yêu cánh chim nên tôi không thể để mất. Tất cả là tình yêu. Tôi nhân danh tình yêu để giữ gìn. Trong tình yêu ấy, cánh chim chỉ biết nhìn khung trời tự do trong ý muốn khắc khoải. Thở dài.
Tôi không muốn được yêu thương như thế. Đấy không phải là thương yêu mà chỉ là tiếng thở dài đìu hiu. Thôi, ta hãy mở cửa lồng cho cánh chim buông theo chiều gió. Nhìn cánh chim hạnh phúc đấy mới là yêu thương.
Rung cảm thì dễ dàng, còn yêu thương là sáng suốt lựa chọn và dũng cảm đi theo chọn lựa sáng suốt đó. Điều ấy có dáng dấp của khổ đau. Muốn yêu thương thật là muốn cho người hạnh phúc. Mà để người hạnh phúc thì yêu thương của ta phải thanh luyện bằng đau khổ.
Nhìn cánh chim bay về cuối trời. Nghĩ đến ngày mai trống trải thiếu một bóng hình. Đó là nỗi vắng rất âm u. Cái nhạt nhòa ở cuối trời nó đi vào hồn ta. Cái trống trải vì thiếu một bóng hình nó nhắc ta nỗi cô đơn mà từ lâu ta cứ tránh né. Vì thế, thứ tình yêu mình-yêu-thương-mình nằm kín rất sâu dưới lòng sông tâm hồn. Thôi thúc thỏa mãn nhu cầu mình-yêu-thương-mình có thể thành những con sâu độc trong màu áo vị tha.
Người nông phu nuôi con công thật chu đáo, bởi ông thương bộ lông. Có người thiếu nữ chỉ mơ một mái gia đình nhỏ bé với hạnh phúc đơn sơ. Nhưng niềm kiêu hãnh của bà mẹ bị đánh thức. Bởi, muốn rực rỡ như loài công xòe cánh nên bà muốn con mình phải ở lầu son gác tía. Người con gái chỉ thương một loại bông đơn sơ vì nó thật thà. Nhưng người mẹ bảo loài hồng nhung mới đáng quý.
Cho con sự khôn ngoan là tặng phẩm. Nhưng ngày nào lấy đường hạnh phúc của mình vẽ lối cho kẻ khác phải theo thì không còn là cho nhau tặng phẩm khôn ngoan nữa mà chỉ là khôn ngoan chọn tặng phẩm cho riêng mình.
Khi thành công của người con chỉ là thỏa mãn niềm kiêu hãnh của người mẹ thì người mẹ hạnh phúc, nhưng chưa chắc đã là hạnh phúc của người con.
Người khách qua đường khen màu sắc con công đẹp. Từ giá trị được xã hội đánh giá, ông nông phu muốn con công phải xòe màu. Như thế có gọi là tình yêu chăng?
Đi tìm định nghĩa cho tình yêu, tình yêu bảo rằng tình yêu có một định nghĩa đơn sơ thôi: Khi áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, đấy là tôi thương em. Tôi yêu hoa cúc, nên muốn em mặc áo lụa vàng, đấy là tôi thương tôi.
Vì yêu màu hoa cúc mà tôi muốn em mặc áo lụa vàng thì em chẳng có tự do. Vì em không mặc áo lụa vàng làm tôi nhớ màu hoa cúc, thì qua em, tôi tìm một bóng hình nào đó mà thôi. Tôi không muốn yêu người như thế. Ngược lại, tôi cũng không muốn ai thương tôi như vậy. Nếu người không thể mở cửa lồng cho cánh chim bay đi là lòng người thiếu tự do. Thiếu tự do thì trong trung thành có mầm chống đối. Trong chung thủy đã chán chường. Trong gần gũi đã cách xa. Nếu tôi được thương bằng tình không có tự do như thế tôi chỉ là đồ chơi.
Tôi không muốn cỗ quan tài buồn dù áo quan đó làm bằng thương mến. Chỉ là khổ đau cho kẻ bị yêu thương. Những cỗ áo quan dù gợi bao nhiêu nước mắt tiếc thương cũng chỉ là nước mắt rơi trên sự chết. Tôi không muốn tình yêu mang một chút gì tang chế.
Tin Mừng Luca (Lc. 15:11-31) có kể chuyện một người cha giàu có lắm, có hai đứa con. Đứa con thứ bảo cha chia gia tài cho mình. Sau khi nó tiêu hết sản nghiệp của cha cho rồi, nó túng thiếu quá phải đi chăn heo mà chẳng đủ ăn. Nó tìm đường về làng cũ. Ngày nhìn con đi, bóng nó nhạt dần ở cuối trời, như cánh chim bay, ông thấy trống trải vì thiếu vắng một bóng hình. Ông cầu mong cánh chim ấy gặp đường bay hạnh phúc, cúi nhìn hồn mình mất mát.
Rồi ngày kia, đứa con về trong thất bại tang tóc. Thua cuộc đời. Nó về, tức là làm dấy lên cho ông những lời bình phẩm của hàng xóm. Giả sử nó không về, câu chuyện có khi cũng lãng quên dần. Hôm nay trở về là nhắc nhớ cho người chung quanh sự thất bại trong gia đình ông. Cái hình hài và quá khứ "không ra gì" của đứa con bỏ nhà đi, bây giờ, có khi trở thành đề tài đầu môi câu chuyện ở đầu làng cuối xóm. Ông không tìm màu sắc rực rỡ của loài công. Bê béo đã giết. Tiệc liên hoan tưng bừng.
Khách đến hỏi con ông đâu. Người khách muốn hỏi xa xôi hơn rằng vì sao ông mở tiệc chúc mừng, đâu là sự nghiệp con ông mang về. Người khách muốn biết điều gì làm ông hãnh diện. Khách được mời chẳng ai hiểu vì sao ông lại mở tiệc ăn khao khi con ông trở về trắng tay. Đối với họ, không thể có chuyện đó. Bởi, họ muốn được chào kính bằng vinh quang của người khác. Những chuyện nhân gian là thế, người ta dấu kín chuyện đời thất bại của người khác, người ta mắc cở, có phải vì thương xót chính người trong cuộc, hay rất nhiều khi chỉ vì họ lấy thành công của tha nhân mà nuôi dưỡng niềm hãnh hiện của họ? Khách được mời ngỡ ngàng lắm khi ông chủ khoe rằng con ông nay trở về sau những ngày chăn heo.
Họ không hiểu được. Nếu chỉ có thế tại sao lại mở tiệc. Đáng lẽ ông phải xấu hổ mà dấu kín chuyện con ông đi chứ. Họ không hiểu vì mỗi người định nghĩa tình yêu một ý khác nhau. Riêng ông cha già thì biết rõ việc mình làm.
Ông hiểu tình yêu là gì vì ông không tìm định nghĩa cho tình yêu. Bởi, chính ông LÀ tình yêu. Lạy Chúa, đấy là hình ảnh tình yêu của Chúa đối với con.
Những Bước Chân
Nguyễn Tầm Thường
Nói đi vào hoặc đi ra là nói đến những bước chân. Nhưng khi vào đời, tôi không vào đời bằng chân vì tôi chỉ là hài nhi không biết đi. Ra khỏi cuộc đời, tôi cũng chẳng ra khỏi bằng chân vì tôi chết. Như thế, vào đời hay ra khỏi cuộc đời là những bước chân thiêng liêng. Đó là những bước chân liên quan đến hạnh phúc và ơn cứu độ.
Trong khoảng thời gian từ lúc tôi mới sinh ra, không biết đi, đến khi tôi không thể đi vì tôi chết, là một hành trình thật dài. Trong hành trình dằng dặc này của cuộc sống, tôi bước những bước chân. Tôi đi. Tôi đi rất nhiều. Vì tôi vào đời đón sự sống bằng bước chân thiêng liêng. Tôi từ giã cuộc đời, ra khỏi sự sống bằng vết chân thiêng liêng, nên những bước chân hàng ngày tôi đi trên mặt đất rất liên quan đến những ý nghĩa thiêng liêng.
Hướng chân đi
Đi, là đi đâu. Đi không định hướng sẽ là cuộc đi thiếu năng lực. Vì không có lí tưởng để tiến tới nên chân mỏi mệt lắm. Rồi, cuộc đời là cuộc đi buồn bã. Có bước chân ban sáng, có bước chân chiều tà. Bước đi trong đời, ai cũng mang một trong hai bước chân đó. Đức Kitô biết rõ những loại chân này, nên Ngài nói với các môn đệ: "Khi còn sáng ngày Ta phải làm việc của Cha Ta. Đến tối không ai còn làm việc nữa" (Yn. 9:4). Thời gian sẽ ngắn lại, bước chân ta chậm theo dòng đời. Bình minh gọi, kẻ không bước đi sẽ muộn phiền hối tiếc khi chiều buông xuống.
Có người đi ban đêm. Có kẻ đi ban ngày. Có người đi trên đường. Có kẻ đi dưới rãnh. Có nhiều thứ đi. Có nhiều thứ bước chân. Khi Đức Kitô bị bắt thì có những bước chân chạy trốn mà cũng có những bước chân đến gần. Khi Đức Kitô gọi, thì có những bước chân theo mà cũng có bước chân chối từ. Có bước chân đi phân vân và cũng có bước chân dứt khoát. Từ khởi điểm của vào đời và ra khỏi đời là trăm ngàn ngõ bước, lối đi, những bước chân khác nhau.
Điệu chân đi
Nói đến đi thì cũng nói tới bước chân đi và lối ngõ để bước chân đi trên đó. Có những lối ngõ khác nhau và phải bước theo cách thế của mỗi lối đi. Không thể bước trên đường sỏi đá giống như bước trên đồi cỏ. Rồi ngay mỗi người cũng có nhiều đoạn đường khác nhau trong một lối đường. Bởi đó, người ta phải học cách bước của mỗi đoạn đường. Đoạn đường Maria đi thăm chị họ mình để báo tin vui là bước chân đon đả, không giống đoạn đường trốn sang Ai Cập. Cách Đức Kitô bước vào dinh tổng trấn Philatô chắc không giống cách Ngài bước vào nhà người thu thuế. Thích nghi với hoàn cảnh, văn hóa trong công cuộc rao giảng Tin Mừng chẳng những là sáng tạo mà còn là một định luật. Chọn cho mình một lối đúng mà không bước đúng cách cũng chưa là đi đúng.
Người ta nói: Bước vào yêu. Thì nghe cũng như đúng vậy thôi. Tình yêu ở đâu để mà bước vào? Tình yêu tự nó không là thửa đất, không là cánh đồng. Tình yêu không giống như một bản đồ vẽ sẵn. Rồi ai nấy chọn một ngả. Tình yêu không chờ sẵn như căn nhà rồi ta vào ở. Đức Kitô không bước vào yêu mà Ngài là Tình Yêu vào thế gian (Yn. 3:16). Như thế, bước vào yêu theo nghĩa đẹp nhất là tình yêu đưa ta bước tới. Tình yêu nơi trái tim Đức Kitô đưa bước chân Ngài lên Núi Sọ. Ngài không lên Núi Sọ tìm tình yêu. Thập giá không phải là nơi Đức Kitô đi tìm tình yêu mà là tình yêu thúc đẩy Đức Kitô gặp thập giá, để thập giá có tình yêu.
Tình yêu và bước chân
Trong cuộc đời sẽ có hai bước chân của hai lối đi khác nhau về tình yêu. Một bước chân vào đời do tình yêu đưa lối. Và một bước chân tìm lối đi của tình yêu trong đời.
— Bước chân do tình yêu đưa lối thì có năng lực và không bao giờ bước sai. "Bỏ lại chín mươi chín con chiên đó mà đi tìm con chiên lạc" (Mt. 18: 12-13). Những bước chân này đi tới đâu là rộn rã yêu thương tới đó. "Vì Cha quá yêu thế gian nên đã sai Con Một vào thế gian" (Yn. 3:16). Không là chân đi tìm tình yêu mà là tình yêu đẩy chân đi tìm.
— Còn lối bước thứ hai là bước chân đi tìm tình yêu. Bước chân này rất dễ lầm đường lạc lối. Tình yêu không có sẵn khơi khơi. Bởi đó, làm sao tìm thấy tình yêu được. Họ không thấy tình yêu mà chỉ thấy cái họ thích yêu.
Khi tôi gặp người tôi thương mến, điều ấy có nghĩa là tôi bắt gặp điều làm tôi yêu thích. Tôi phải để tình yêu trong tôi lên tiếng thẩm định cho sự gặp gỡ này. Rạo rực của con tim khi gặp người tôi mến thương thúc đẩy tôi phải ôm giữ. Rồi, từ đó tôi ngỡ rằng đó là tình yêu và tôi đã gặp tình yêu. Khi trong tim tôi không có tình yêu thì sự ôm giữ này trở thành cuồng phong, vì tôi lầm lẫn cho đó là tình yêu. Nếu trái tim tôi có tình yêu thì tình yêu sẽ lên tiếng thẩm định và câu trả lời có thể là không cho phép tôi bước tới. Nếu bước tới, bước chân đó sẽ sai vì không nghe tiếng tình yêu nói mà chỉ là tìm cái tôi thích yêu.
Nếu nói gặp người tôi thương mến là gặp tình yêu thì làm sao có trung thành trong hôn nhân vì họ luôn luôn gặp những người yêu mới.
Đức Kitô không bao giờ đi sai vì chân Ngài được tình yêu thúc đẩy. Trước giờ chết, trước kẻ có quyền kết tội, Ngài không chối từ, không trốn tránh vì Ngài có tình yêu làm sức mạnh. Trên đường đời có những quãng vắng khắc nghiệt vì sỏi đá. Tình yêu sẽ đẩy chân bước tới. Còn bước chân đi tìm tình yêu sẽ phân vân ngại ngùng tránh né. Bởi đó, trong hôn nhân, và người tu sĩ cũng thế, không có lạc lối trong tình yêu mà chỉ là không có tình yêu nên mới lạc lối.
Những bước chân riêng
Mỗi người có một lối nên không thể lấy bước chân kẻ khác làm bước chân của mình. Sự nghèo khó, lí tưởng, con cái, dáo dục, thân xác, hoàn cảnh của mỗi gia đình không giống nhau. Áng màu nào cũng đẹp nhưng nó phải phù hợp với ơn gọi của nó. Bước lẫn sang lối đi của người khác là lạc lối. Vì lối đi của người khác đúng với họ mà thôi nên khi lấy cái đúng của họ làm của mình nó dễ trở thành cái sai. Khó mà nhận ra cái lạc lối của mình khi mình đi trong lối đi của kẻ khác, bởi vì cứ nghĩ rằng nó đúng với tha nhân thì cũng đúng với mình.
Những bước chân phải cùng nhau đi mà không đi cùng nhau là đi sai. Những bước chân phải đi đơn lẻ mà cứ quyến luyến nhau cũng là đi không đúng. Huyền nhiệm của những bước chân là thế.
Có những bước chân âm thầm. Có những bước chân trong chiều mưa. Là những bước chân riêng, nhưng bước chân nào thì cũng biết mỏi. Đường ở đây hay ở đó, hôm nay hay ngày mai, ở đâu và thời gian nào thì đường cũng có thể làm chân ê ẩm, gây thương tích đau đớn. Đường đời dài lắm. Nhất là đường xám hối, đường muốn tập nhân đức. Bởi vậy, chân cần nghỉ ngơi, cần xoa dịu. Là những bước chân riêng, nhưng cùng một ơn cứu độ. Có phải vậy mà đường chiều thập giá là Simon vác thập tự cho Đức Kitô đỡ té ngã. Có phải thế mà hôn nhân là cùng nhau đi.
Lạy Chúa, khi biết mình sắp xa các môn đệ, Chúa đã rửa chân cho họ. Nếu chỉ nhìn những bàn chân được rửa như một gương khiêm nhường Chúa đã làm thì con thấy chưa đủ. Bỏ trời cao xuống trần chưa đủ là khiêm nhường sao. Sinh ra trong nghèo khó đủ cho con thấy Chúa thế nào rồi. Thái độ rửa chân cho chúng con là hình ảnh tuyệt vời ý nghĩa của những bước chân. Cần thiết lắm. Một ý nghĩa rất sâu của những bàn chân sẽ bước đi rất chơi vơi trong đời. Sắp chết là Chúa sắp bước những bước chân vô cùng mầu nhiệm. Ai có thể đi theo những bước chân gian nan khổ nạn ấy? Phải là những bàn chân được Chúa rửa thì mới có năng lực bước theo Chúa vào khổ nạn được. Rửa cho rơi đi những ươn hèn, gian dối, nhỏ nhen. Bàn chân con phải được rửa bằng tình yêu của Chúa để bàn chân ấy có tình yêu thì con mới có thể bước đi trong đời mà không bước sai.
Vì hệ trọng, nên khi bước, chân phải biết mình đang đi đâu và bước như thế nào.
Chúa bảo chúng con rửa chân cho nhau. Bởi, chân nào đi mà không mỏi. Đường đời dài thăm thẳm. Lối đi nào mà không nhiều lúc dẵm sang đời nhau. Chúng con cần nâng đỡ cho đôi chân nghỉ ngơi, cần được nhắc nhở cho đôi chân tỉnh thức, cần thông cảm cho đôi chân khỏi chán nản.
Lạy Chúa, con phải suy tư thế nào về bước chân của mình và của người anh em?
Những người nghèo là người phải đi bộ. Và đi bộ thường phải đi bên lề đường. Nếu họ đi bên lề đường chỉ vì nghèo để tránh rộng lối cho con đi, và nếu chỉ vì nghèo mà bước chân bên lề đường ấy làm họ phải bước bên lề cuộc đời thì con nghĩ sao về bước chân của mình.
Giáo Hội
Nguyễn Tầm Thường
Tôi lớn lên với đất quê ruộng vườn nên kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với đồng lúa ngô khoai. Lũy tre, bờ dậu là hình ảnh tôi dán trên những trang đầu của cuốn album cuộc đời. Bởi thế, nó chìm sâu.
Một khung trời xanh. Một dòng nước đục lặng lờ. Có gì đâu. Thế mà hơn mười năm đi xa, những hình ảnh ấy vẫn không quên. Rồi tôi nghĩ nếu có một ngày nào đó được nhìn lại bóng dừa xuôi lá. Hơn mười năm tây phương không ánh trăng đêm rằm, nghĩ đến trăng khuya mà nghe như chuyện trong cổ tích vậy thôi. Tôi mong một ngày trở lại vùng nhiệt đới, nhìn lại cái nắng hanh, cái mưa rào.
Ước mơ cũng giống như làn sương mỏng. Nó mơ hồ lãng đãng đâu đó nhưng nó có thật. Từ những hạt sương mờ bụi, rồi dần dần đọng lên thành hạt sương sũng nước. Khi thời gian chín tới, những hạt sương trũng nước ấy trĩu nặng cho cọng lá thu trên cành rơi xuống. Đấy là lúc mơ ước thành sự thật.
Một ngày mùa hạ
Máy bay xuống phi trường Hongkong, nắng nhiệt đới chói chang. Hongkong về đêm chỗ nào cũng như trẩy hội họa đăng. Không thành phố nào rực đèn màu như thế. Nơi đây tôi không bắt gặp bóng dừa êm ả, tiếng dế mèn rỉ rả trong mưa. Hongkong là một thành phố tây phương hơn cả tây phương.
Rời HongKong qua Macao. Tôi muốn sống lại dấu ấn lịch sử của các vị thừa sai đã một thời dừng chân nơi này như cứ điểm cho công cuộc đem Tin Mừng vào đất nước Việt Nam. Tôi muốn hình dung lại một chút lịch sử, dù đã khuất bóng nhưng âm vọng vẫn bền bỉ như những hình ảnh mộc mạc của mảnh vườn cũ, quê xưa, cứ chìm chìm mà không mất dạng.
Tường thành cháy đổ của nhà thờ chính tòa, nay cỏ và rêu đang im lặng rủ kín bờ đá. Lưa thưa vài ba khách du lịch, chắc cũng đang đi tìm dấu ấn lịch sử như tôi. Có thể họ là con cháu của các anh hùng tử đạo mà thánh tích đã một thời lưu trữ ở đây, nay tìm về nguồn cội của mình. Trời Macao bắt đầu có dáng ít ồn ào. Mênh mông. Tôi gần vùng đất của Phanxicô Xaviê gởi lại thân xác cho đất bụi lắm rồi.
Mơ ước mà mình cứ tiếp tục ước mơ, bền bỉ và kiên nhẫn thì hơi sương của mơ ước rũ nặng cho cánh lá thu phải rơi xuống thành trái. Một lần nữa, mơ ước một ngày nào được thăm viếng mộ của Xaviê nơi vùng đất cấm đã thành sự thật. Rời Macao, tôi vào Trung Quốc, hi vọng tìm đến nơi Phanxicô Xaviê đã chết.
Tôi đang sống một buổi chiều hiền dịu nhất từ hơn mười năm qua. Miền quê Trung Quốc êm ả thanh bình. Tôi không thấy cờ đỏ và khẩu hiệu hô hào đấu tranh giai cấp. Tôi đã chuẩn bị tâm hồn để nhìn lại những bờ tường sơn đỏ búa liềm, dấu hiệu kinh hoàng tan tóc của một thời. Hôm nay không còn. Tôi qua những con đường miền quê hun hút thẳng tắp mà hai ven đường rủ ngợp bóng một loài dương liễu mềm mại rất thi ca. Không có tiếng động cơ. Không khói xe. Chỉ có những vành xe đạp thong thả như trong khuôn viên một tu viện vắng. Thong thả hơn nữa, như lười biếng già nua, dăm ba chiếc xe trâu.
Trời rất trong và rất xanh, rất cao và rất rộng. Thinh lặng êm đềm làm cho không khí nên dịu và như có chất ngọt trong hơi thở. Đã hơn mười năm sống trong môi trường đường phố ngộp xe cộ, một sự ngột ngạt chật chội trong thiên nhiên làm tôi, hôm nay, như cánh chim đứng trước cửa lồng, nó không muốn bay vội, nó muốn rũ cánh cho rơi xuống những bụi bặm ngày xưa cũ trước đã. Nơi đây giống hệt như miền đất quê hương tôi. Cũng có cánh bướm và hàng dậu với dây mướp hoa vàng. Bụi mía và cánh chuồn chuồn. Mẹ quê phơi thóc bên sân nhà.
Có mái nhà cong dáng chùa, đình làng và cổng vào làng nhưng không thấy tháp chuông. Cả miền đất rộng tôi đi qua mấy ngày nay rồi không thấy ngôi thánh đường nào. Nghe nói cách đây khá xa, ngày xưa có một làng Công Giáo, ở đó có nhà thờ, nhưng bây giờ không rõ có còn dân chúng không.
Người bạn dẫn đường ngỏ ý dẫn tôi đi nếu tôi muốn tham quan. Chúng tôi xuôi miền trên chuyến xe đò của một đường quê mà lâu lắm mới gặp một chiếc chạy ngược chiều. Đồng lúa mênh mông. Thanh thản. Không có dấu vết gì của xã hội mà một thời búa liềm đấu tố kinh hoàng. Có thể cái không khí ấy vẫn nằm trong tim những người dân này kín đáo, tôi chỉ là khách lạ từ phương xa nên không mang u uẩn của hồn thiêng oan trái mà chưa hẳn là đã vắng bóng đi xa. Không có màu đỏ xã hội chủ nghĩa, chỉ có màu xanh của ruộng vườn, màu vàng của cỏ rạ. Đối với viễn khách lạ như tôi, tôi thấy trời thật đẹp và tôi đang sống trên một quê hương thanh bình.
Người dẫn đường bắt đầu ngơ ngác tìm lại kí ức để chỉ cho tôi dấu tích của lịch sử. Trước mặt tôi là rừng tre. Ông ta phân vân, không xác định lắm, chỉ cho tôi một chỗ, bảo rằng ngày xưa ở đây có tượng Đức Mẹ. Ông nhớ trước khi vào làng, có một tượng đài Đức Mẹ mà chính ông cũng không biết bị phá từ bao giờ. Đã lâu quá rồi bây giờ ông mới trở lại nơi này. Chúng tôi đã xuống xe đò từ lúc nãy. Để đến nhà thờ, chúng tôi phải theo đường quê mà đi. Từ nãy đến giờ, tôi không gặp ai trên đường. Con đường vẫn còn nhưng không ai săn sóc đã trở thành dấu mòn ít người qua lại. Không thấy nhà nhưng có người ở vì chung quanh chỗ tôi đi là những nương sắn cao xanh đến đầu người. A! kia rồi! có bóng thánh giá.
Ngôi thánh đường khá lớn. Lối kiến trúc đông phương rất công trình, mái cong, cửa gỗ to nặng. Hôm nay hoàn toàn vắng lặng. Khi cách mạng tiêu diệt tôn giáo thì xứ đạo tản mác mỗi người một nơi. Chính quyền biến vùng đất này thành trại cùi, nhưng không ai săn sóc nên những người cùi cũng dần dần trốn bỏ đi hết. Đã bao năm như thế rồi, không ai nhớ. Ngôi nhà thờ vẫn còn, nhưng nó còn lại như niềm tin trong linh hồn không thể tiêu diệt được thôi. Niềm tin hằn lên những sù xì của thương tích. Chung quanh nhà thờ, tường vôi long lở. Trên kẽ đá, cỏ mọc bò từng khoảng. Các cửa sổ không còn, đã bị tháo gỡ từ bao đời. Trên tường, lưu lại vết mờ của những khẩu hiệu hô hào chủ nghĩa Marx. Nhà thờ được bao gọn, nổi bật lên giữa rừng khoai mì. Nó như một hải đảo trồi lên trên mặt biển xanh mà chung quanh là ruộng sắn. Khoai lang bò chung quanh giáo đường.
Gió lùa qua cửa sổ, giáo đường mát dịu từ bờ đá thở ra. Trong nhà thờ không còn dấu vết có người lui tới. Gian cung thánh hoang tàn. Trên nóc cao mấy con chim sẻ rỉa cách kêu liếp nhiếp. Hoang vu nhưng an bình. Vắng lặng nhưng êm đềm. Chắc lâu lắm rồi không ai lai vãng tới đây ngoại trừ những người làm vườn vào nghỉ trong những trưa hè nóng. Rừng thưa và ngôi thánh đường cổ. Âm có lời thơ như man mác một chút nỗi niềm riêng, nhưng trong thinh lặng kỹ lưỡng, thanh âm của hồn thơ rất cao siêu thanh thoát. Cái êm đềm ở đây là êm đềm thánh thiện trầm trầm lời kinh cầu của Hàn Mặc Tử: "Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu." Kinh cầu là những bờ đá. Giáo đường không còn lầu chuông vọng về khi chiều xuống. Người xưa đã khuất bóng. Một thủa nơi rừng thưa này chắc đã vui lắm vào những mùa hoa tháng năm kính dâng Mẹ. Tôi đứng trong giáo đường nghe âm u vọng về từ quá khứ đã mờ mịt. Thời gian và biến đổi của dòng đời.
Nắng ban trưa rộn rã nhưng không gay gắt. Rừng xanh như tấm thảm thấm hút nắng mặt trời rồi lọc đi sức nóng nào vô lễ quá độ làm cho tháng hạ nên dịu. Tôi ra ngồi nghỉ bên bờ dậu nhìn ngôi giáo đường. Ngôi thánh đường thanh thản không phàn nàn, không thao thức về số phận mình. Hôm nay nhà Chúa không còn nến hương hoa, nhưng là chỗ nghỉ trưa cho những người lao động nghèo khổ. Nhà Chúa thành chỗ cho các em chăn trâu có thể vui đùa. Lúc nào và chỗ nào thì Tin Mừng cũng có đất sống. Ở những nghịch cảnh khó khăn, người ta tưởng phải bứng rễ để bảo vệ Tin Mừng. Nhưng thật ra, Tin Mừng đã cho họ năng lực sống để khỏi bị bứng rễ. Tin Mừng như sợi dây leo, đứt từng khúc, thì từng khúc ấy nẩy mầm. Tôi không thấy tâm trạng chua xót cho ngôi thánh đường một thời vang bóng mà nay chìm im. Mỗi nét có vẻ đẹp riêng. Vang cung đàn thì vẻ đẹp thành quý phái sủng mộ. Hoang vu thì nét đẹp trở nên linh thiêng kín đáo.
Đáng nhẽ tôi phải tiếc lắm cho cái thời nguy nga tráng lệ của nền nhà thờ bóng loáng chứ. Không hiểu sao tâm tư tôi phẳng lặng và nghe như câu kinh vẫn còn âm. Ngôi thánh đường tự nó như đang đối thoại với vũ trụ nhân sinh. Không chết. Không hoang vu lạnh lẽo. Cứ nhìn thật kĩ, ngôi giáo đường bình an như một câu văn đẹp đang chờ người biết chữ.
Tôi biết ở đây sẽ có hoang vu. Trước khi đi, tôi sắp sẵn cho mình một tâm hồn mang màu tím. Tôi muốn đứng bên tường vôi đổ nát để âm vọng về những ngày loạn lạc điêu linh. Tôi muốn đi tìm di tích lịch sử để đem hồn mình vào một quá khứ u uẩn. Tôi như cần những dấu ấn đó cho khơi lửa tin mến trong hồn mình. Bây giờ, trước mặt tôi là dấu ấn lịch sử đó. Hoang tàn điêu linh còn lại. Im và vắng. Đáng lí sự đổ nát ấy phải chùng tim tôi cho nhớ tiếc một thủa vàng son của Giáo Hội. Nhưng không! Tôi không buồn, mà như có một cảm nghiệm thanh bình đang ở một độ rung rất lạ. Tôi yêu cái hoang vu nơi này. Tôi quý mến vẻ đẹp quanh năm chỉ có mưa nắng thiên nhiên rơi trên bờ đá còn lại của ngôi thánh đường.
Có phải cái nuối tiếc trong tôi khi xưa là nuối tiếc của những nghi lễ hoa đèn chứ chưa chắc là nuối tiếc niềm tin?
Tôi vẫn nhìn về Giáo Hội với cấu trúc của nó, phẩm trật, chức sắc, nhà cửa, tổ chức. Có phải khi người ta lệ thuộc vào những hình thức này quá độ thì khi mất nó người ta như mất cả niềm tin. Chiều nay, tôi thấy niềm tin nơi đây đã được đốt cháy hết những rêu tua bám chung quanh. Không nghi lễ, không chuông cầu, không bái phụng. Một niềm tin rất siêu thoát.
Tôi sẽ đi xa và không bao giờ trở lại nơi đây nữa. Tường đá này sẽ chịu đựng được bao nhiêu mùa nắng mưa? Có khi nào lời kinh trở về, có khi nào mùa hoa tháng năm sẽ lại nhộn nhịp chân người chung quanh giáo đường, hay sẽ là vĩnh viễn hoang vu như hôm nay?
Còn tôi, ngôi nhà thờ nào sẽ của tôi mai sau trong cuộc đời linh mục? Tôi sẽ là linh mục miền quê hay thành phố? Nhà thờ xứ tôi sẽ sang trọng hay đơn sơ? Tôi nhìn bầu trời mà muốn dâng một lời kinh ngắn. Tôi vào giáo đường lần cuối để từ giã những vuông cửa.
Không tiếng động. Có cụ già đang lau chân cột nhà thờ. Ánh nắng xế trưa, ngang qua rừng tre lao xao gió, dọi qua mấy khung cửa sổ đã mất cánh làm thành những đốm hoa nắng rải đó đây trên nền nhà sậm tối. Tôi tò mò dõi nhìn. Cụ xoa chân cột bằng cái khăn giẻ. Phải mất một lúc tôi mới bừng tỉnh. Im lặng. Tôi đứng chết im. Hai hàng cột là loại gỗ già, to lớn, uy nghi, thẳng hút. Lòng nhà thờ sâu thẳm. Bây giờ tôi mới hiểu rõ sự việc. Bụi phủ hai hàng cột dơ bẩn, nhưng từ chân cột ở nền nhà lên tới chỗ tay cụ với tới, tất cả các chân cột đều sạch bóng, đen sậm màu gỗ lim. Chúa ơi! cụ vẫn đến đây để lau những chân cột này sao?
Lạy Chúa, cụ có mơ một ngày nào đó có người linh mục trẻ về đây dựng lại giáo đường? Cụ đã lặng lẽ lau những chân cột này từ bao năm? Niềm tin của cụ có thưa dần như những cánh hoa tháng Năm dâng Mẹ ngày xưa mà nay không còn, hay lời kinh vẫn nở, cứ là đóa hoa lòng? Không có Mình Thánh Chúa, chẳng còn ai đến thưa kinh thì cụ lau những chân cột kia làm gì? Thánh đường thành hoang vu rồi mà. Âm thầm như thế đã bao mùa mưa nắng rồi hả Chúa? Ôi! lửa mến. Ôi! niềm tin.
Năm đó, hè 1989, tôi chuẩn bị lãnh chức Phó Tế. Chỉ một năm sau nữa tôi sẽ là linh mục. Tôi nhớ ngày ấy tôi rưng lệ nhìn cụ già còng lưng lặng lẽ lau từng chân cột nhà thờ. Ở một nơi quá xa xôi, không ai biết tới, có một ngôi thánh đường hoang vu, một niềm tin thiết tha. Tôi biết trong đời mình dù có dâng lễ sốt sáng đến đâu cũng chẳng thế nào đẹp như thánh lễ hàng ngày của cụ. Thánh lễ không bánh và rượu. Thánh lễ bằng một đời quá đỗi yêu mến.
Tôi xa dần khu rừng.
Bầu trời ở đó như lời kinh đang dâng lên cao. Một buổi chiều làm tôi muốn suy nghĩ về thành tố làm nên Giáo Hội và đâu là vẻ đẹp của Giáo Hội. Nhà thờ thì cần thiết, nhưng vẻ đẹp của Giáo Hội trong ý nghĩa ơn cứu độ lại không ở những nghi lễ đầy màu sắc, hay đền thờ to lớn. Vẻ đẹp của Giáo Hội quá sâu, nó thầm lặng trong tâm hồn. Thầm lặng đã là khó thấy rồi, lại còn thầm lặng trong tâm hồn nên nó quá sâu cho những dòng chữ có thể viết ra.
Từ trên cao nhìn xuống, Chúa có băn khoăn vì biết bao tâm hồn đang lo âu chỉ vì đền thờ, hay Chúa vui vì vẫn thấy lấp lánh những vì sao trên những ngôi thánh đường đổ vỡ.
Ý Thơ Trong Địa Đàng
Nguyễn Tầm Thường
Trước khi vào đoản khúc:
Lỗi phạm của Ađam, Evà là tội nguyên tổ, một sự dữ.
Sự sa ngã của Ađam là một điều xấu, không thể biện minh. Tôi nêu hai chú thích trên để khẳng định lời dạy của giáo lí Công Giáo, hầu hi vọng người đọc không thể hiểu lầm ý viết trong đoản khúc này.
Giả sử Ađam đã không sa ngã thì địa đàng ra sao?
Câu chuyện hôn nhân đầu tiên trong sách Sáng Thế Kí được trình bày bằng lối văn chương thật thơ mộng. Chuyện tình sử Ađam-Evà mang nhiều chất "tình" hơn chất "sử".
Ngay từ giây phút tạo dựng ban đầu, liên hệ nam nữ đã là đề tài thứ nhất. Thượng Đế không gọi Ađam đi tu. Ngài tìm cho Ađam một tâm hồn và một thân xác. Ngài dựng nên người nữ. Trong lối trình bầy đẹp như một chuyện thần tiên, những trang mở đầu của pho Kinh Thánh cũng là những trang nói về chuyện đẹp thần tiên ấy: Chuyện nam nữ.
Ađam vào đời như một cung nhạc reo cao. Hân hoan. Thơ thới. Tuy nhiên, cái rong chơi của Ađam trong địa đàng có tự do, mà dường như là tự do trong không gian vắng của con tim. Có bướm bay và lá hoa khoe màu. Suối vui. Đẹp của địa đàng vẫn chỉ là đẹp trầm trầm. Có bình yên mà dường như vẫn thiếu. Ađam vẫn là Ađam của kiếm tìm. Bởi, chim và bướm không nói ngôn ngữ của Ađam. Và rồi, công trình tạo dựng của Thượng Đế chỉ trọn vẹn khi Evà xuất hiện.
Tác phẩm mà Thượng Đế để dành sau cùng để làm xinh tươi địa đàng là người thiếu nữ. Lối trình bày ấy đưa chân dung người nữ lên thành hình ảnh một kiện toàn rất thơ mộng cho vũ trụ.
Ađam bước một mình không tốt (Stk. 1:18). Nói việc tạo dựng nên Evà để Ađam được "tốt hơn", có phải cũng là cách nói sự vắng mặt của Evà làm Ađam không toàn vẹn? Như thế, Evà không đến để phục vụ Ađam mà Ađam cần Evà cho đời sống của mình phong phú hơn. Là phần đời của Ađam nên Ađam không thể không bỏ mọi sự mà yêu thương Evà, nếu Ađam muốn mình sống trọn vẹn phong phú ấy (Stk. 2:24). Qua hình ảnh thi vị của câu chuyện sáng tạo, người nữ không những là vẻ đẹp Thượng Đế ban cho địa đàng mà còn là sự cần thiết Ngài ban tặng cho cuộc đời. Cách trình bầy câu chuyện sáng tạo mang chiều sâu của thi ca. Lời ngắn mà ý mênh mông. Vườn cây của địa đàng dưng dưng chờ đợi, và trái tim Ađam cũng thế, lặng lờ cho tới khi Evà vào đời. Bấy giờ mới thật đẹp xinh. đẹp thần tiên ấy: Chuyện nam nữ.
Ađam vào đời như một cung nhạc reo cao. Hân hoan. Thơ thới. Tuy nhiên, cái rong chơi của Ađam trong địa đàng có tự do, mà dường như là tự do trong không gian vắng của con tim. Có bướm bay và lá hoa khoe màu. Suối vui. Đẹp của địa đàng vẫn chỉ là đẹp trầm trầm. Có bình yên mà dường như vẫn thiếu. Ađam vẫn là Ađam của kiếm tìm. Bởi, chim và bướm không nói ngôn ngữ của Ađam. Và rồi, công trình tạo dựng của Thượng Đế chỉ trọn vẹn khi Evà xuất hiện.
Tác phẩm mà Thượng Đế để dành sau cùng để làm xinh tươi địa đàng là người thiếu nữ. Lối trình bày ấy đưa chân dung người nữ lên thành hình ảnh một kiện toàn rất thơ mộng cho vũ trụ.
Ađam bước một mình không tốt (Stk. 1:18). Nói việc tạo dựng nên Evà để Ađam được "tốt hơn", có phải cũng là cách nói sự vắng mặt của Evà làm Ađam không toàn vẹn? Như thế, Evà không đến để phục vụ Ađam mà Ađam cần Evà cho đời sống của mình phong phú hơn. Là phần đời của Ađam nên Ađam không thể không bỏ mọi sự mà yêu thương Evà, nếu Ađam muốn mình sống trọn vẹn phong phú ấy (Stk. 2:24). Qua hình ảnh thi vị của câu chuyện sáng tạo, người nữ không những là vẻ đẹp Thượng Đế ban cho địa đàng mà còn là sự cần thiết Ngài ban tặng cho cuộc đời. Cách trình bầy câu chuyện sáng tạo mang chiều sâu của thi ca. Lời ngắn mà ý mênh mông. Vườn cây của địa đàng dưng dưng chờ đợi, và trái tim Ađam cũng thế, lặng lờ cho tới khi Evà vào đời. Bấy giờ mới thật đẹp xinh.
Nhưng! khổ lụy khi Evà sa ngã thì sao?
Qua dòng lịch sử và văn hóa của nhiều miền đất, Evà đã bị coi như căn do làm địa đàng bất hạnh. Đã có thời nền tu đức coi người nữ nguy hiểm như nguyên nhân tội lỗi. Người nữ phải mang nhiều mặc cảm thua thiệt. Bị chối từ nhiều ơn gọi. Từ cuộc sống thực hôm nay, nhìn lại lối trình bầy bóng bẩy trong văn chương "tình" nhiều hơn "sử", ta thấy hình ảnh của người nữ là làm đẹp và kiện toàn sự sống trên vũ trụ như lời địa đàng thủa xưa.
Đặt vấn đề vì Evà mà Ađam mới sa ngã và quy tội cho người nữ là căn nguyên tội lỗi là đặt một phán quyết thiếu nghiêm túc. Đã có một thời của quá khứ với những suy tư đáng tiếc ấy. Hôm nay, người nữ đang tìm lại được nét duyên trang trọng của trang Cựu Ước ban đầu. Bởi đó, nên nhìn câu chuyện "tình sử" đẹp của ngày tạo dựng bằng "tình" hơn bằng "sử" và đọc với tâm hồn thi ca.
Thi ca bao dung. Người có tâm hồn thi ca không đơn giản nhìn đời dưới khía cạnh tất cả bóng tối là khổ nạn. Thi ca không đặt vấn đề vì hiện diện của Evà mà Ađam sa ngã. Nhưng tâm hồn thi ca muốn rủ đời thong thả đi vào sầu đắng để tìm mật ngọt. Nếu có đặt vấn đề thì băn khoăn của người có tâm hồn thi ca là nếu Ađam không sa ngã thì sao?
Ngôn ngữ của trang Kinh Thánh rất thơ thì ta cũng hãy đi tìm ý của ngôn ngữ ấy với tâm hồn rất thơ của thi ca. Giả sử Ađam không sa ngã thì địa đàng chắc buồn lắm! Evà phạm tội thì đời nàng sẽ phải khổ theo tội. tội. Dù không muốn biệt li, nàng cũng phải chia tay Ađam mà xa dần. Nhìn Evà khổ lụy, liệu Ađam có khỏi trầm luân? Nếu Ađam không sa ngã theo Evà, nếu Ađam cứ đi riêng con đường của mình thì con đường nào Evà sẽ đi, đi về đâu? Phải chăng địa đàng từ đó là hai lối đi, hai ngã rẽ, hai khung trời?
Nếu Ađam không theo lời Evà, cứ theo lộ trình khác đi riêng mình thì Ađam vẫn tiếp tục một mình vì thiếu vắng người nữ. Chính cái "một mình không tốt" ấy mà Thượng Đế đã tạo dựng cho Ađam người nữ. Vậy, giờ đây nếu Ađam không chung đường với Evà thì Thượng Đế có phải tạo một Evà khác cho Ađam? Mà tạo dựng Evà khác thì Thượng Đế sẽ tạo người nữ ấy từ hư vô hay cũng lấy xương thịt của Ađam? Cái thi vị trong cách trình bầy câu chuyện tạo dựng Evà là Thượng Đế đã lấy xương thịt của Ađam. Nếu lấy từ xương thịt Ađam thì Evà có đi đâu chăng nữa cũng vẫn là phần đời của Ađam. Ađam có một Evà khác xinh đẹp thế nào đi nữa thì cũng chẳng thể nguôi khoai được vì một phần đời của mình đã ở nơi Evà cũ. Nếu Evà thứ hai được tạo dựng từ hư vô thì liên hệ giữa Ađam với Evà thứ hai này có lẽ xa xôi như liên hệ của hai chủ nhân.
Ađam không sa ngã là Ađam của ánh sáng. Evà mang thân phận bóng tối rồi. Không còn chung một khung trời thiêng liêng thì trong địa đàng là ngã rẽ, ngổn ngang đằng trước, gập ghềnh phía sau. Nếu không nhìn bằng ý của thi ca trong câu chuyện sáng tạo thì Ađam phải li dị Evà. Lúc ấy địa đàng chắc buồn lắm.
Thượng Đế đã tạo dựng Evà từ xương thịt của Ađam là lối trình bầy thật quá thơ và quá thực. Thực, vì nó toát ra một gắn bó yêu thương quá tạo hình, không cần lí giải. Thơ, vì nó quá mênh mông nên cũng không thể dùng nhận thức của trí tuệ mà lí giải được. Tạo hình, vì Evà đến từ xương thịt Ađam thì địa đàng không thể có hai chủ nhân mà chỉ có một. Tình yêu ấy trở thành nhất thể. "Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác" (Stk. 2:24). Vì chỉ có một nên Ađam xúc phạm Evà là xúc phạm chính mình. Ađam cũng không thể yêu thương Evà như yêu một chủ thể ngoại tại được, như thích một bông hoa, một ngọn đồi. Evà là phần đời của mình, bởi đó, có phải con đường hạnh phúc và đẹp như thơ của Ađam là yêu thương Evà để yêu thương mình?
Đấng Cứu Thế đã giáng trần vì tội nguyên tổ. Trong đêm Phục Sinh, lời phụng vụ reo vui và gọi tội ấy là "ôi! tội hồng phúc". Tâm hồn thi ca có thể gọi sa ngã của Ađam là "tội yêu thương". Gọi là Kinh Thánh vì lời đó có chất "thánh". Vậy, ta hãy nhìn "tội" trong trang Kinh Thánh đầu tiên ấy với cái nhìn về phía "thánh" hơn là phía "tội". Rồi, chuyện "tình sử" ấy sẽ tiếp tục lung linh đẹp lên ý nghĩa chuyện tình yêu.
Cái sa ngã của Ađam làm cho Evà cùng đi chung một đường trần, cùng bước chung một nhịp tình. Tâm hồn thi ca thấy ý của sa ngã ấy, thấy nghĩa của lỗi phạm đó là địa đàng làm sao lại có thể có hai khung trời được. Địa đàng có đau khổ mà vẫn không thấy ngôn ngữ li dị. Có chao đảo mà không biệt li. Ađam đã nâng đầy một vận điệu sai cung cho ngõ cụt có lối đi. Phải chăng, vì thế, cùng đi trong hôn nhân có một giá trị đẹp. Ý của thơ không tìm cách giải lí tại sao trong hôn nhân lại có đau khổ. Trong sầu đắng tâm hồn thơ đi tìm mật ngọt. Đối với thơ thì tình yêu hôn nhân trong vườn địa đàng thuở xưa đẹp vì hai tâm hồn ấy đã lấy đau khổ mà dìu nhau đi.
Ađam đã cùng khổ lụy trong nỗi gian nan của Evà. Tình yêu từ đó đậm thêm ngôn ngữ thi ca. Có những quãng đời dường như không thấy hạnh phúc đâu. Lúc ấy hạnh phúc ẩn náu bằng ngôn ngữ của thơ. Thơ sẽ định nghĩa hạnh phúc là cùng nhau đau khổ. Ngôn ngữ của thi ca đi tìm hạnh phúc là khi cùng nhau sầu đắng thì có mật ngọt trong sầu đắng rịn ra. Đơn giản, kín đáo và siêu bạo.
Trong cái nhìn bao dung của ngôn ngữ thi ca, ta chẳng kết án Evà, không phàn nàn Ađam, rồi sẽ thấy ý đẹp của chuyện tình còn đó. Trong cái bao dung của ngôn ngữ ấy, ta thấy lỗi lầm của Ađam đã chủ động một tiềm lực sáng tạo ý nghĩa biết bao. Là chuyện "tình sử", hãy nhìn phía "tình". Là Kinh Thánh, hãy nghe tiếng nói từ phía "thánh". Rồi ta sẽ thấy hình ảnh Ađam làm một chọn lựa với Evà, hai người cùng nhau đi trong gian nan, không phải là ngôn ngữ thẳm sâu nói về tình yêu của hôn nhân sao?
Không đọc chuyện gian nan địa đàng xưa là chuyện cổ tích tội lỗi, mà với ý thơ, ta đọc như chuyện tình của chính mình. Người đàn ông ngã xuống với vụng về của Evà là bóng hình chính mình. Đức Kitô ngã xuống với nhân loại trong nghèo khó. Người đàn bà, bóng hình của người đàn ông, hạnh phúc vì nắm bắt được thiên đàng vừa vụt bay. Rồi bóng hình của nhau ấy cùng dìu nhau đi.
Chất thơ trong tội của Ađam là "mình bóc vỏ mình" để với người yêu của mình cùng đi, dẫu đời có chát chúa. Địa đàng sau khi Evà phạm tội có thay đổi nhưng vẫn một khung trời. Tâm hồn hai người có khác thủa mới tạo dựng nhưng vẫn chung một lối đi. Vẫn còn là chuyện tình. Chớ gì ta luôn có tâm hồn thơ để bao dung với đời. Thinh lặng nhặt những mẩu đời tầm thường trong cuộc sống mà đưa thành sáng tạo, kiên nhẫn, nhân từ với bóng hình của chính mình. Trong tình yêu có những hiu quạnh và sầu đắng, xin cuộc đời cho ta biết lắng nghe lời thi vị của thi ca mà tìm ý nghĩa.
Ý nghĩa cuộc đời mà linh hồn của thơ muốn tìm là nếu Ađam không cùng chung hệ lụy với Evà thì bây giờ địa đàng thế nào. Chắc mỗi người một nẻo, hai người hai ngả rẽ, chuyện tình ấy rồi biết đi về đâu.
Kinh Chiều
Nguyễn Tầm Thường (trích trong Viết Trong Tâm Hồn)
Đêm nay con muốn nói với Chúa về nỗi cô đơn của một linh mục. Con không còn trẻ như một linh mục mới ra trường để rạo rực thấy màu áo dòng luôn sáng mùa phục sinh. Con cũng chưa là tay thợ gặt đã sương gió quá đời người trên cánh đồng. Con chỉ vừa đủ một quãng đời cho một kinh nghiệm nỗi cô đơn của đời linh mục là gì.
Ngày giã từ nhà trường với hương thơm của sách vở như vẫn còn phảng phất đâu đây. Con nhớ ngày đó đẹp làm sao. Như cánh diều chờ gió cho một chân trời đã căng đầy ước mơ từ lâu. Giờ đã đến, tung gió mà bay cho bát ngát bầu trời. Chiếc áo dòng đóng dấu đời con một tình sử thiêng liêng. Con bước xuống cánh đồng với lời hứa sẽ đem về một mùa lúa hân hoan.
Đêm nay, nhìn màu áo trong thinh lặng của một đêm trằn trọc tâm tư. Có nhiều thứ cô đơn trong cuộc sống. Cô đơn con muốn nói với Chúa đêm nay là cô đơn mà một linh mục thấy cô đơn hơn cả.
Trong tình yêu, khi một người muốn yêu mà tình yêu cứ bay ngược gió, họ thấy hồn họ hiu hắt buồn. Họ có thể gọi nỗi buồn ấy là cô đơn. Dường như con tim phải đi tìm con tim. Chẳng thế, sao Chúa phải tạo dựng Evà cho Ađam? Trong câu chuyện tạo dựng Ađam-Evà, lời Kinh Thánh thật thơ mộng khi bảo rằng trái tim người thanh niên ở một mình không tốt. Đó là tiếng gọi nhiệm mầu liên hệ giữa nam và nữ. Từ thời gian đó về sau, con tim đi tìm con tim.
Nhưng câu chuyện yêu thương đẹp như thần thoại ấy cũng có lối rẽ riêng cho một màu sắc khác. Đó là khi Evà đến thì Ađam đã sa ngã. Vậy, nếu Evà đừng tới có phải trái tim một mình của Ađam tự do dong chơi hơn? Lời trong trang Kinh Thánh thì ngắn mà ý thì mênh mông vô bờ. Có liên hệ nhiệm mầu giữa hai người, nhưng giữa hai người vẫn có khoảng cách. Ađam đã sa ngã sau khi Evà đến cho thấy liên hệ nam nữ ấy không phải là định đề tất yếu tối hậu cho một hạnh phúc trọn hảo.
Tuy không là liên hệ tất yếu phải có, nhưng liên hệ nam nữ là tiếng gọi rất sâu trong thân xác. Tiếng gọi nhiệm mầu của con tim đi tìm con tim vẫn luôn là thôi thúc. Tuy nhiên, không phải là định đề tất yếu phải có cho hạnh phúc, nên tình yêu nam nữ chỉ là một thứ nhu cầu trong nhiều nhu cầu khác của cuộc sống. Trong khoảng cách nam nữ, nhiều người đi tìm một tình yêu dàn trải hơn, nó là sáng tạo, là nghệ thuật, là phụng sự, là lí tưởng tôn giáo như lí tưởng con đang theo.
Con yêu những chân trời nắng dội. Con không thể đánh đổi cho dù một vườn cung ngự uyển nào cả. Con muốn đi. Con hạnh phúc với cánh tay với mãi bầu trời. Con muốn bay. Con không thể đánh đổi những chiều băng gió, qua mây ngàn tìm ánh sao. Những buổi chiều ấy huyền nhiệm quá. Có những bóng chiều một mình, mây ngàn hun hút thẳm, trái tim có khi rất thơ cho một bóng hình. Con độc hành mà vẫn không cô đơn. Vắng bóng hình trong liên hệ nam nữ không là nỗi cô đơn của con. Bởi cô đơn làm sao được khi con đem kinh cầu gõ lối cho ý thơ bay cao. Vậy, nỗi cô đơn con muốn nói Chúa đêm nay là nỗi cô đơn nào.
Trong những định nghĩa về cô đơn cũng có thể là cô đơn vì thiếu quý mến của kẻ đồng hành. Đường về Nhà Chúa là ơn gọi đi chung. Con không thể là linh mục của Chúa nếu không đi với ai. Con có bước chân riêng, nhưng trong cái riêng ấy không vắng những bước chân bên nhau. Những bước chân bên nhau ấy đã có những bước lầm lẫn dẵm vào đời nhau. Và lầm lẫn ấy làm cho đôi chân xa nhau dần dần. Ái ngại. Sượng sần. Phải đi với nhau trên một lộ trình mà ngại nhìn nhau trong gặp gỡ đó là nỗi vắng giữa đám đông. Nó là nỗi vắng không dám định nghĩa là cô đơn. Khi chiều buông, lá cây xẻ cánh rũ vào đêm, hình hài nỗi vắng ấy lên màu. Khoảng màu ấy là sự xa cách. Lúc thinh lặng của bóng hoàng hôn và khi tiếng kinh chiều đã lịm, trăn trở của một chiều nghỉ ngơi mà thấy chung quanh mình là chống đối, đó không phải là những chiều cô đơn của sự đơn côi sao.
Nhưng thưa Chúa, không hẳn mọi xa cách đều mang màu đơn độc. Đối với con, có những xa cách cần thiết cho sáng lên một định đề lí tưởng mình đã chọn cho đời mình. Con có đủ can đảm chấp nhận khác í để giữ trọn lối sống. Bước đi bên cạnh bao nhiêu bước chân khác, con phải học can trường mà chấp nhận những giây phút bị những bước chân chống đối. Đẹp biết bao khi bước chân nào cũng rạo rực những thương cùng mến, những nhớ cùng mong. Là linh mục, con không mơ tưởng điều ấy, con nguyện xin và cố gắng, nhưng con phải thực tế nhìn những khía cạnh dang dở của cuộc đời và chấp nhận những ngày u ám. Và, con đủ nghị lực để không định nghĩa những chiều nghỉ ngơi trong trăn trở của những cảm tình xa cách mình ấy là cô đơn. Những giây phút không có Chúa bên mình, không thấm linh hồn trong cầu nguyện, xa cách ấy có thể làm lí tưởng linh mục bạc màu. Con cũng đã thấy có những tâm hồn linh mục mang nhiều thương đau của những chống đối đó. Con cũng sợ những giây phút con không thấm linh hồn trong cầu nguyện, không có Chúa bên con.
Còn hơi ấm của máu, còn tiếng thở của rung cảm là còn biết nỗi chán của những xa cách. Phải can đảm lắm mà chống cự. Phải anh hùng lắm mà giữ vững niềm vui. Tuy hoang vu thế nào đi nữa con vẫn không định nghĩa sự xa cách đó là cô đơn. Thiếu thương mến của những bước chân song hành, nếu có khó khăn của những bước chân đưa đời mình vào nghịch cảnh, con gọi đó là những u ám của mùa thương khó. Có chán nản con cũng không gọi đó là cô đơn. Vì con vẫn có Chúa. Nỗi cô đơn con muốn nói với Chúa đêm nay ở sâu mãi trong tâm hồn con.
Có lẽ con đủ can đảm để đi những tháng ngày u ám của mùa thương khó. Có lẽ con đủ tha thiết để bay cao trong những chiều có tiếng gọi thầm trong thân xác của vườn địa đàng. Nhưng nỗi cô đơn trong con là cô đơn khi con không muốn nghĩ về Chúa, không muốn nói về Chúa, không đủ năng lực đem Chúa cho người khác, và nhất là không có Chúa trong con.
Là linh mục, mà con không muốn nói về Chúa cho cuộc đời, con thấy trong con úa nắng làm sao. Là linh mục, mà mỗi sáng con ngại ngùng dâng lễ, con thấy trống vắng lắm. Những lúc như vậy, con thấy dâng lên một nỗi chán rất sâu. Nỗi chán ấy đến từ vùng sâu thẳm nhất của linh hồn. Là linh mục, mà con không đủ nghị lực đem Chúa cho người khác, con thấy những ngày như vậy giống như mùa thu rất ngắn trong khu vườn rất chật. Lặng lẽ và lặng lờ. Con gọi tất cả những nỗi chán và nỗi vắng ấy là cô đơn. Khi con không muốn nói về Chúa, nghĩ về Chúa, không có Chúa trong con, con thấy con lẻ loi. Con gọi sự lẻ loi ấy là cô đơn.
Con yêu những chân trời nắng dội của Phanxicô Xaviê. Người thanh niên một thuở nuôi mộng đời giữa kinh thành hoa lệ Paris đã giã từ bờ biển Tây Phương không hẹn ngày trở lại. Và thực sự, người thanh niên ấy đã ra đi không bao giờ trở lại quê hương của mình. Theo cánh buồm của đám thương gia tìm đường đi truyền giáo. Rời Lisbon đến Ấn Độ. Bỏ Ấn Độ tìm đường đi Mã Lai. Bỏ Mã lai tìm vào Nam Dương. Bỏ Nam Dương tìm vào Nhật Bản. Bỏ Nhật Bản tìm vào Trung Hoa. Một ngày u ám không tiếng sóng, chết trên bờ biển với người bạn duy nhất mà vẫn xuôi mắt nhìn vào Hoa Lục vì mơ ước chưa thành.
Lạy Chúa, không có nghịch cảnh nào ngăn nổi bước chân Phanxicô Xaviê vì người thanh niên ấy muốn nói về Chúa. Con muốn đi qua những giới hạn của liên hệ trong tâm hồn, trong thân xác, trong xã hội để cánh chim bay cao. Cô đơn của linh mục là không muốn nghĩ về Chúa, không muốn nói về Chúa. Và, lạy Chúa, khi con ngại dâng lễ, chán giờ kinh nguyện là dấu chỉ con đang đi vào cô đơn. Đêm nay, con muốn nói với Chúa về nỗi cô đơn đó.