« Lạy Cha chúng con ở trên trời »
(Lc 11, 1-13)
1. « Xin dạy chúng con cầu nguyện »
Chúng ta có thể nhận ra kinh Lạy Cha trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe ; nhưng không đúng nguyên văn, bởi vì kinh Lạy Cha mà chúng ta đọc hằng ngày, lúc lần hạt, trước bữa ăn và nhất là trong Thánh Lễ, đến chủ yếu từ Bài Giảng Trên Núi của Đức Giê-su, trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu.
a. Điểm thứ nhất. Chính Đức Giê-su đã cầu nguyện, trước khi Ngài dạy các môn đệ cầu nguyện. Như thế, lời nguyện mà Đức Giê-su truyền lại cho các môn đệ của Ngài và cho chính chúng ta hôm nay, xuất phát từ chính lời nguyện của Ngài. Và chúng ta cũng có thể chắc chắn rằng, lời nguyện mà Ngài đã nói với Chúa Cha và lời nguyện mà Ngài dạy cho chúng ta, đó là cùng một lời nguyện, bởi lẽ Người cũng gọi Thiên Chúa là Cha ; và nếu là như thế, lời kinh Lạy Cha sẽ phải mặc khải cho chúng ta biết cách sâu xa về chính ngôi vị của Đức Giê-su.
Vậy, trong đời sống hằng ngày và nhất là trong thời gian tĩnh tâm, chúng ta hãy xin với Đức Giê-su, như người môn đệ xưa : « Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện ». Bởi vì, đó cũng là vấn đề của chúng ta : một đàng, cầu nguyện giúp chúng ta sống sự sống của Thiên Chúa, được thông ban cách sung mãn và viên mãn nơi Đức Ki-tô ; đàng khác, cầu nguyện khó khăn biết bao, như mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm. Vì thế, để cầu nguyện, chúng ta cần được dạy và cần thực tập mỗi ngày.
b. Vừa rồi là điểm quan trọng thứ nhất, của kinh Lạy Cha theo thánh Luca. Điểm quan trọng thứ hai, đó là sự kiện Đức Giê-su dạy các môn đệ lời nguyện này được đặt ngay sau sự kiện Đức Giê-su đến thăm hai chị em, Mác-ta và Maria, sự kiện mà chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước. Và trong cuộc gặp gỡ này, hình ảnh đánh động chúng ta nhất, chính là hình ảnh cô Maria, ngồi dưới Đức Giê-su lắng nghe với hết tâm hồn lời của Ngài.
Như thế, lời kinh Lạy Cha, trước khi được thốt ra hướng về Chúa Cha, phải được chuẩn bị bằng một thái độ nội tâm là lắng nghe Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa trong việc cầu nguyện kiên nhẫn, chăm chú và lâu giờ, và cũng lắng nghe Lời Chúa, trong đời sống và cả trong công việc và trong sứ mạng phục vụ nữa.
Cũng tương tự như trong Thánh Lễ, kinh Lạy Cha chỉ được chúng ta đọc về cuối Thánh Lễ, trước khi rước Mình Thánh Đức Ki-tô, nghĩa là sau khi đã lắng nghe Lời Chúa và đã chiêm ngắm mầu nhiệm Thánh Thể được tái diễn trên bàn thánh. Và cũng giống như khi chúng ta thực hiện một bài Linh Thao theo thánh I-nhã, chúng ta được mời gọi đọc kinh Lạy Cha để kết thúc giờ cầu nguyện, là thời gian dành để lắng nghe Lời Chúa.
Lắng nghe Lời Chúa, rồi mới thưa với Thiên Chúa, Cha của chúng ta, bằng kinh Lạy Cha, chính là để giúp chúng ta nhận ra Ngài đang hiện diện ở giữa chúng ta, đang hiện diện ở trước mặt chúng ta, và chúng ta thật sự thưa với Ngài : « Lạy Cha chúng con », chứ không phải đọc thuộc một lời kinh dọn sẵn.
Lắng nghe Lời Chúa, sẽ giúp chúng ta hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Chính vì thế, trong lời nguyện “Lạy Cha của chúng con”:
Ø Chúng ta có thể ra khỏi mình để đi vào tương quan phụ-tử với Thiên Chúa, là Cha của chúng ta.
Ø Ra khỏi mình để quan tâm trước hết đến Danh Thánh của Cha, đến Triều đại của Cha.
Ø Và chỉ sau đó, chúng ta mới quan tâm đến sự sống của mình, nhưng không phải sự sống mà mình muốn, nhưng là sự sống đích thật mà Thiên Chúa muốn: đó là sự sống được xây dựng trên những ơn huệ: ơn huệ lương thực, ơn huệ thứ tha và ơn huệ giải thoát khởi sự dữ.
Vậy, mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, xin cho chúng ta có được kinh nghiệm sống bằng chính sự sống của Đức Giê-su, trong tương quan thân mật của Người với Thiên chúa Cha. Một sự sống hoàn toàn đón nhận từ Thiên Chúa, qua ơn lương thực, ơn tha thứ và ơn giải thoát khỏi sự dữ, và vì thế, làm vinh Danh Thiên Chúa.
2. Ơn tha thứ
Trong lời nguyện “Lạy Cha”, Đức Giêsu đặc biệt nhất mạnh đến ơn tha thứ (x. Mt 6, 7-15), vì con người không thể sống nếu không có ơn tha thứ: tha thứ của Cha nhân hậu dành cho từng người chúng ta và sự tha thứ mà chúng ta trao ban cho nhau. Chúng ta không thể sống với nhau nếu không tha thứ cho nhau (kinh nghiệm được bố mẹ và các anh các chị tha thứ khi chúng ta còn bé), và chúng ta cũng không thể “sống với” Chúa, nếu không được Ngài tha thứ.
Trong lời nguyện “Lạy Cha”, Đức Giêsu nhấn mạnh đặc biệt đến việc chúng ta cần tha thứ cho nhau: “vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Tuy nhiên, theo lời nguyện “Lạy Cha” ơn tha thứ của Thiên Chúa không “tự động” rơi xuống trên chúng ta một khi chúng ta đã tha thứ cho nhau. Chúng ta vẫn phải xin: “Xin tha tội cho chúng con”. Bởi lẽ ơn tha thứ không bao giờ là “tự động”, ơn tha thứ chỉ có thể được trao ban trong một tương quan nhìn nhận nhau, đón nhận nhau (x. dụ ngôn Người Con Hoang Đàng; và bí tích hòa giải cũng diễn tả tương quan này). Hơn nữa, nợ người ta mắc với chúng ta thì ít, còn nợ của chúng ta mắc với Thiên Chúa thì quá lớn (x. Mt 18, 23-35). Tuy nhiên, chúng ta không thể xin Thiên Chúa tha thứ, trong khi mình đã không tha thứ hay sẵn sàng tha thứ cho người khác.
Nhưng ai trong chúng ta cũng cảm thấy khó tha thứ cho nhau. Vì thế, kinh nghiệm lòng thương xót, sự bao dung và sự tha thứ của Thiên Chúa nơi bản thân mình chính là nguồn sức mạnh để chúng ta có thể tha thứ cho nhau.
3. Tình yêu của Thiên Chúa Cha
Để nói về tương quan giữa Thiên Chúa Cha và chúng ta, đặc biệt là trong cách Ngài làm thỏa mãn lòng ước ao của chúng ta, Đức Giê-su khơi dậy kinh nghiệm sống của người nghe, là chính chúng ta. Đó là kinh nghiệm về tình bạn và nhất là tình phụ tử. Đây là một Tin Mừng lớn cho chúng ta: tình thương chúng ta dành cho nhau giúp chúng ta hiểu và xác tín về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Có lẽ kinh nghiệm sống của mỗi người chúng ta cho thấy rằng, xin điều gì đó với ai, nhất là với những người thân yêu của chúng ta, thì chúng ta có nhiều cơ may nhận được, hơn là xin điều gì đó với Chúa. Chẳng hạn, chúng ta về gia đình xin mẹ đổ bánh xèo, là mẹ đổ ngay ; có khi không cần xin, chỉ nói thèm ăn thôi ; hơn nữa, mẹ còn hỏi : con có thích ăn gì không, để mẹ làm.
Tuy nhiên trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giê-su nói ngược lại với kinh nghiệm sống của chúng ta : nếu trong tương quan cha con hay mẹ con nơi gia đình, việc xin-cho xẩy ra cách hiển nhiên, chẳng hạn xin « bánh » hay xin « cá », thì trong tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa Cha, việc xin-cho lại càng hiển nhiên hơn, lại càng dễ hơn :
Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?
Chúng ta gặp khó khăn trong việc xin Chúa, đó là vì chúng ta xin Chúa « đổ bánh xèo » cho chúng ta. Chúng ta xin kiểu này là chúng ta làm khó Chúa rồi, nếu không muốn nói là thử thách Chúa, bởi vì trong thâm tâm chúng ta hay có tiếng nói này : nếu Chúa không ban, thì con sẽ bỏ Chúa, con đi thờ thần khác, Chúa khác. Chắc chắn, đây là tiếng nói của Con Rắn, của Ma Quỉ.
Điều này có nghĩa là, chúng ta xin Chúa thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta ; giống như dân Do Thái trong sa mạc, đòi Chúa cho ăn bánh, ăn thịt … ; và như chúng ta đều biết, nhu cầu hưởng thụ của con người, nhất là thời nay, thì vô cùng vô tận : được cái này, thì thèm cái kia. Và nếu chúng ta xin Chúa những thứ này, thì không sớm thì muốn chúng ta sẽ kêu trách Chúa, nghi ngờ tình thương của Chúa và bỏ rơi Chúa, bỏ rơi Chúa ở trong tim, trong nội tâm chúng ta.
Nhưng chúng ta sống đâu chỉ bằng thỏa mãn những nhu cầu, chúng ta còn sống bẳng tương quan nữa : yêu thương, cảm thông, chỉa sẻ, gánh vác cho nhau, tha thứ, lắng nghe, liên đới, đón nhận, bao dung… Chúng ta không thể sống, mà thiếu những tương quan này, trong gia đình cũng như trong đời tu.
Và đó chính là hoa trái mà Thánh Thần mang lại cho chúng ta, bởi vì Thánh Thần trong yếu tính là tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa chúng ta với nhau, Ngài hiệp nhất, nối kết, hòa giải và làm chúng ta nên một, như chúng ta được tạo dựng là một, như Thiên Chúa Ba Ngôi là một. Và về ơn Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su nói : « phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ? »
Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su nói đến « những điều tốt lành », mà Cha trên trời không bao giờ thiếu và luôn sẵn sàng ban cho chúng ta bất cứ lúc nào (Mt 7, 7-11). Thật ra, Chúa vẫn ban cho chúng ta mỗi ngày « những điều tốt lành » này, cách dồi dào, dù chúng ta có xin hay không, xứng đáng hay không :
Ø Đó là rất nhiều ơn huệ của trời đất, và của rất nhiều người để làm cho chúng ta sống mỗi ngày.
Ø Và đặc biệt, đó là Lời Chúa và Mình Chúa, vốn là những lương thực tuyệt hảo nhất, từ đó Chúa Thánh Thần Tin Mừng sẽ biến đổi thành sự sống yêu thương giữa chúng ta hôm nay và mãi mãi về sau.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ