http://www.giaoly.org
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
“Giới thiệu Năm Đức Tin”
Bài Giáo Lý II của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Đức Tin là Gì?
Bài Giáo Lý III của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Bản Chất Hội Thánh của Đức Tin
Bài Giáo Lý IV của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin: Lòng Ao Ước Thiên Chúa
“Tâm hồn chúng ta không thể an nghỉ cho đến khi được nghỉ an nơi Thiên Chúa”
Bài Giáo Lý 5 của ĐTC về Năm Đức Tin:
Ba con đường dẫn đến nhận thức về Thiên Chúa
Bài Giáo Lý VI của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin: Tính Hợp Lý của Đức Tin vào Thiên Chúa
Bài Giáo Lý VII của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Làm thế nào để nói về Thiên Chúa trong Thời Đại Chúng Ta?
Bài Giáo Lý VIII của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Thiên Chúa Măc Khải “Kế Hoạch Yêu Thương Nhân Lành”
Bài Giáo Lý IX của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Những Giai Đoạn Mặc Khải
Bài Giáo Lý X của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Đức Mẹ Maria, Mẫu Gương Vâng Phục của Đức Tin
Bài Giáo Lý XI của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Căn Tính của Chúa Giêsu
Bài Giáo Lý XII của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin:
Mầu Nhiệm Nhập Thể
Bài Giáo Lý XIII của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Học để Thấy Thánh Nhan Thiên Chúa
Bài Giáo Lý XIV của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Tôi Tin Kính Một Thiên Chúa
Bài Giáo Lý XV của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Thiên Chúa là Cha Toàn Năng
Bài Giáo Lý XVI của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành Trời Đất
Bài Giáo Lý I của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin “Giới thiệu Năm Đức Tin” Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành tại Quảng Trường Thánh Phêrô hôm thứ tư 17 tháng 10, 2012. Hôm nay, ĐTC bắt đầu một loạt bài giáo lý mới về Kinh Tin Kính để giúp chúng ta đào sâu hơn nền tảng của Đức Tin và sống Đức Tin trong đời sống thường nhật của mình.
* * *
Anh chị em thân mến,
Hôm nay tôi muốn giới thiệu một chu kỳ giáo lý mới. Chu kỳ này sẽ được kéo dài trong suốt Năm Đức Tin vừa bắt đầu, và tạm ngừng chu kỳ dành riêng cho trường cầu nguyện vào lúc này. Với Tông Thư Porta Fidei, tôi đã công bố năm đặc biệt này, chính là giúp Hội Thánh canh tâm lòng nhiệt thành trong việc tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của thế gian, phục hồi niềm vui đi theo con đường mà Người đã chỉ cho chúng ta, và làm nhân chứng một cách cụ thể quyền năng biến đổi của đức tin.
Dịp kỷ niệm năm mươi năm khai mạc Công đồng Vatican II là một cơ hội quan trọng để trở về với Thiên Chúa, để đào sâu và sống đức tin của chúng ta với lòng can đảm hơn, để củng cố việc là phần tử của Hội Thánh, “thầy của nhân loại”, qua việc công bố Lời Chúa, cử hành các bí tích và các công việc bác ái, dẫn chúng ta đến gặp gỡ và biết Đức Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đây không phải là cuộc gặp gỡ với một ý tưởng hoặc một kế hoạch của đời sống, nhưng một Con Người sống động, là Đấng biến đổi chúng ta tận đáy long, và tỏ cho chúng ta biết căn tính thật sự của chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ với Đức Kitô đổi mới những liên hệ nhân loại của chúng ta, bằng cách hướng chúng, ngày này qua ngày khác, về một tình liên đới và huynh đệ to lớn hơn, theo tiêu chuẩn của tình yêu. Có đức tin vào Chúa không phải là một điều gì chỉ ảnh hưởng đến trí tuệ của chúng ta, lãnh vực tri thức, mà còn là một sự thay đổi liên hệ đến đời sống, và toàn thể con người chúng ta: tình cảm, trái tim, trí thông minh, ý chí, thân xác, cảm xúc và những liên hệ giữa con người. Với đức tin, tất cả đều được thật sự biến đổi trong chúng ta và cho chúng ta, và như thế cho chúng ta thấy rõ định mệnh tương lai của mình, sự thật về ơn gọi của mình trong lịch sử, ý nghĩa cuộc đời, niềm vui thích được làm một khách lữ hành đang trên đường tiến về Quê Trời.
Nhưng chúng ta tự hỏi: đức tin có thực sự là sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, cuộc đời tôi hay không? Hay nó chỉ là một trong những yếu tố là một phần của cuộc đời, chứ không phải là điều quyết định liên hệ đến toàn thể cuộc đời? Với những bài giáo lý Năm Đức Tin này, chúng ta muốn mở ra một con đường để củng cố hoặc tìm lại niềm vui của đức tin, bằng cách hiểu rằng đức tin không phải là một điều gì xa lạ, tách rời khỏi đời sống cụ thể, nhưng chính là linh hồn của đời sống. Đức tin vào một Thiên Chúa là Tình Yêu, và là Đấng đến gần con người qua việc nhập thể và hiến mình trên Thánh Giá để cứu độ chúng ta và tái mở cửa Thiên Đàng cho chúng ta, chỉ cho chúng ta thấy một cách rạng ngời rằng sự sung mãn của con người chỉ được tìm thấy trong tình yêu. Ngày nay, cần phải tái xác nhận điều ấy một cách rõ ràng, trong khi những biến đổi văn hóa trong việc làm thường cho thấy biết bao nhiêu hình thức dã man, đang xảy ra dưới chiêu bài “những chinh phục của nền văn minh”: đức tin khẳng định rằng không có sự nhân đạo thật trừ khi ở các nơi, các cử chỉ, thời gian và những hình thức mà ở đó con người được được sinh động hóa bằng tình yêu đến từ Thiên Chúa, được diễn tả như một hồng ân, được biểu lộ bằng những liên hệ đầy bác ái, cảm thương, chú tâm và phục vụ vô vị lợi đối với tha nhân. Nơi nào có sự thống trị, chiếm hữu, lợi dụng, biến người khác thành món hàng để mưu lợi cho sự ích kỷ của mình, nơi nào có sự kiêu căng của cái tôi đóng kín nơi mình, thì con người trở nên nghèo nàn, bị mất phẩm giá và dị hình. Đức tin Kitô giáo hoạt động trong đức ái và mạnh mẽ trong đức cậy (hy vọng), không giới hạn, nhưng nhân bản hóa đời sống, và làm cho nó hoàn toàn nhân loại.
Đức tin nghĩa là đón nhận sứ điệp có sức biến đổi này trong cuộc đời chúng ta, là đón nhận mạc khải của Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta biết Ngài là ai, Ngài hoạt động ra sao và những kế hoạch của Ngài dành cho chúng ta là gì. Đương nhiên, mầu nhiệm của Thiên Chúa luôn luôn vượt ra ngoài những quan niệm và lý lẽ, các nghi lễ và kinh nguyện của chúng ta. Tuy nhiên, với mạc khải, chính Thiên Chúa tự truyền thông cho chúng ta, tự kể cho chúng ta về Ngài và cho chúng ta có thể đến gần Ngài. Và Chúng ta trở nên có khả năng lắng nghe Lời Chúa và đón nhận chân lý của Ngài. Và đây chính là điều kỳ diệu của đức tin: Thiên Chúa, trong tình yêu của Ngài, đã tạo ra nơi chúng ta, nhờ công trình của Chúa Thánh Thần, những điều kiện thích hợp để chúng ta có thể nhận ra Lời Ngài. Chính Thiên Chúa, trong ý muốn tự tỏ mình ra, tiếp xúc chúng ta, hiện diện trong lịch sử của chúng ta, làm cho chúng ta có khả năng lắng nghe và đón nhận Ngài. Thánh Phaolô đã diễn tả điều đó với lòng vui mừng biết ơn khi ngài nói: “Chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, bởi khi anh em đã đón nhận Lời Thiên Chúa mà anh em được nghe từ chúng tôi, thì anh em đã đón nhận không phải như lời người ta, nhưng đúng thật là Lời Thiên Chúa; và Lời đó đang hoạt động nơi anh em là những người tin” (1 Ts 2:13).
Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng những lời nói và việc làm trong suốt dòng lịch sử dài của tình bằng hữu với con người, và đạt đến tột đỉnh trong việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa và trong Mầu Nhiệm Cái Chết và Phục Sinh của Người. Thiên Chúa không những đã tỏ mình ra trong lịch sử của một dân tộc, không những đã chỉ nói qua các ngôn sứ, nhưng Người đã vượt qua ranh giới của Thiên Đình để vào thế giới của loài người, như một người, để chúng ta có thể gặp gỡ và lắng nghe Người. Và từ Giêrusalem, việc loan báo Tin Mừng cứu độ được loan truyền cho đến tận cùng trái đất. Hội Thánh, được khai sinh từ cạnh sườn Đức Kitô, trở nên sứ giả của niềm hy vọng mới và chắc chắn: Chúa Giêsu thành Nazareth, chịu đóng đanh và sống lại, Đấng Cứu Thế, đang ngự bên hữu Chúa Cha, và là Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết. Đó là lời rao giảng ban đầu, là lời loan báo chính yếu và không ngừng của đức tin. Nhưng ngay từ đầu, đã có vấn đề “qui luật của đức tin”, nghĩa là sự trung thành của các tín hữu với Chân Lý Tin Mừng, là điều mà họ phải tiếp tục trung thành, với chân lý cứu độ về Thiên Chúa và về loài người, được giữ gìn và được truyền lại. Thánh Phaolô viết: “Anh em được cứu độ, nếu anh em giữ [Tin Mừng] dưới hình thức mà tôi đã công bố cho anh em. Nếu không, anh em tin cách vô ích” (1 Corinthians 15:2).
Nhưng chúng ta tìm thấy công thức thiết yếu của đức tin ở đâu? Chúng ta tìm thấy chân lý được trung thành truyền lại và là ánh sáng cho đời sống hằng ngày của chúng ta ở đâu? Câu trả lời thật đơn giản: trong Credo (Kinh Tin Kính), trong bản Tuyên Xưng Đức Tin, (hay Biểu Tượng Đức Tin), trong đó chúng ta gắn liền với biến cố nguyên thủy của Con Người và lịch sử của Chúa Giêsu thành Nazareth; nó cụ thể hóa điều mà Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã nói với các tín hữu thành Côrinthô: “Vì trước tiên, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà tôi đã cũng nhận được là, Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta theo như Thánh Kinh, đã được mai táng và sống lại trong ngày thứ ba” (1 Corinthians 15:3).
Ngày nay cũng thế, chúng ta cần phải biết, hiểu và cầu nguyện Kinh Tin Kính một cách tốt hơn. Điều quan trọng đặc biệt có thể nói là về Kinh Tin Kính phải “lại được nhận biết”. Thực ra, nhận biết có thể là một hoạt động thuần túy tri thức, trong khi “tái nhận biết” có nghĩa là sự cần thiết để tái khám phá ra những liên hệ sâu xa giữa những chân lý mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính với cuộc sống hàng ngày của chúng ta, bởi vì những chân lý ấy thực sự và cụ thể là, như chúng đã luôn luôn là, ánh sáng soi các bước đi của cuộc đời chúng ta, là nước tưới lên những đoạn đường khô cằn trong cuộc hành trình của chúng ta, là sức sống thắng vượt một số sa mạc của cuộc sống hiện đại. Đời sống luân lý của người Kitô hữu được gắn liền với Kinh Tin Kính, và tìm thấy trong đó nền tảng và lý do biện minh cho nó.
Không phải ngẫu nhiên mà Chân Phước Gioan Phaolô II muốn rằng Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, một tiêu chuẩn vững chắc cho việc giảng dạy đức tin và nguồn tài liệu chắc chắn cho việc canh tân giáo lý, phải đặt trọng tâm vào Kinh Tin Kính. Sách này nhằm xác nhận và bảo vệ điều cốt yếu của các chân lý đức tin, trong khi truyền đạt nó bằng một ngôn ngữ dễ hiểu hơn cho dân chúng trong thời đại của chúng ta, cho chúng ta. Nhiệm vụ của Hội Thánh là truyền thụ đức tin, thông truyền Tin Mừng, để những chân lý của Kitô giáo trở thành một ánh sáng trong những biến đổi mới về văn hoá, và các Kitô hữu có thể trả lời về niềm hy vọng mà họ đang mang nơi mình (x. 1 Proverbs 3:14). Hôm nay chúng ta đang sống trong một xã hội thay đổi sâu xa, ngay cả so với một quá khứ gần đây, và liên tục biến hóa. Tiến trình tục hóa và sự lan tràn của một não trạng hư vô, trong đó tất cả mọi sự đều là tương đối, có một tác động mạnh mẽ đến tâm lý chung. Vì vậy, đời sống thường bị sống một cách lơ là, không có lý tưởng rõ ràng và hy vọng chắc chắn, trong các liên hệ xã hội và gia đình lỏng lẻo và tạm thời. Đặc biệt là những thế hệ trẻ không được giáo dục về việc tìm kiếm chân lý và ý nghĩa sâu xa của cuộc đời, là điều vượt trên những gì bất ngờ, về sự ổn định của những tình cảm, về lòng tin tưởng. Ngược lại, chủ thuyết tương đối dẫn họ đến chỗ không có những điểm quy chiếu vững chắc, sự nghi ngờ và thiếu kiên định tạo ra những đổ vỡ trong những liên hệ giữa con người, trong khi cuộc sống được sống trong những kinh nghiệm ngắn ngủi và vô trách nhiệm. Nếu chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tương đối dường như thống trị tâm trí của nhiều người đương thời, chúng ta không thể nói rằng các tín hữu vẫn hoàn toàn không bị lây nhiễm bởi những nguy hiểm mà chúng ta đang phải đương đầu trong việc truyền đạt đức tin. Cuộc điều nghiên được đẩy mạnh ở tất cả các châu lục để chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tân Phúc Âm Hóa, đã cho thấy rõ một số điều: một đức tin được sống một cách thụ động và riêng tư, việc chối từ giáo dục đức tin, sự cách biệt giữa đời sống và đức tin.
Các Kitô hữu thường không biết cốt lõi chính của đức tin Công Giáo của họ, về Kinh Tin Kính, đến nỗi để dành chỗ cho một chủ nghĩa pha trộn và tương đối về tôn giáo, mà không có sự rõ ràng về những chân lý cần phải tin, và đặc tính cứu độ độc đáo của Kitô giáo. Theo trào lưu ngày nay, có nguy cơ xây dựng một tôn giáo, có thể nói là “tự pha chế”. Ngược lại, chúng ta phải trở về với Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Chúa Giêsu Kitô, chúng ta phải tái khám phá ra sứ điệp của Tin Mừng, để đưa nó vào sâu hơn trong tâm trí của chúng ta và trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Trong các bài giáo lý về Năm Đức Tin này, tôi muốn cung cấp cho anh chị em một sự trợ giúp để đi trọn cuộc hành trình này, để hiểu rõ và đào sâu những chân lý của đức tin về Thiên Chúa, về con người, về Hội Thánh, về tất cả các thực thể xã hội và vũ trụ, trong khi suy niệm và suy nghĩ về những điều xác định của Kinh Tin Kính. Và tôi mong ước rằng nó làm sáng tỏ rằng nội dung hay chân lý của đức tin (fides quae) có liên hệ trực tiếp đến cuộc đời chúng ta. Chúng đòi buộc chúng ta phải có hoán cải đời sống, là điều mang đến cho cuộc đời một cách tin vào Thiên Chúa (fides qua) mới mẻ. Hãy biết Thiên Chúa, hãy gặp gỡ Ngài, hãy đào sâu những nét (đặc tính) của dung nhan Ngài đang làm cho cuộc sống của chúng ta hoạt động, bởi vì Ngài đi vào những động lực thầm kín của con người.
Chớ gì cuộc hành trình mà tất cả chúng ta sẽ thực hiện năm nay giúp chúng ta lớn lên trong đức tin và trong tình yêu của Đức Kitô, để chúng ta có thể học sống, trong những lựa chọn và hành động hàng ngày của chúng ta, cuộc sống tốt lành và xinh đẹp của Tin Mừng. Cảm ơn anh chị em.
Bài Giáo Lý II của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Đức Tin là Gì? “Đức Tin là hồng ân của Thiên Chúa, nhưng cũng là một hành động tự do sâu xa của con người”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ hai của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Quảng Trường Thánh Phêrô hôm thứ tư 24 tháng 10, 2012. Hôm nay ĐTC dạy về ý nghĩa của Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Thứ Tư tuần trước, với việc khai mạc Năm Đức Tin, tôi đã bắt đầu một loạt bài giáo lý về đức tin. Và hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy niệm về một câu hỏi cơ bản: đức tin là gì? Đức tin còn có ý nghĩa gì không trong một thế giới mà khoa học và kỹ thuật đã mở ra những chân trời mới, những chân trời mà từ trước đến giờ không ai có thể tưởng tượng nổi? Hôm nay tin có nghĩa là gì? Thực ra, thời đại chúng ta rất cần một nền giáo dục về đức tin được đổi mới, trong đó chắc chắn phải bao gồm sự hiểu biết về những chân lý và những biến cố của đức tin, nhưng trên hết nó phải phát sinh từ một cuộc gặp gỡ thật sự với Thiên Chúa trong Đức Chúa Giêsu Kitô, từ việc yêu Người, tin tưởng vào Người, để nó dính lứu đến trọn cuộc đời.
Ngày nay, giữa nhiều dấu hiệu của sự tốt lành, cũng phát triển một loại sa mạc tinh thần chung quanh chúng ta. Đôi khi, chúng ta cảm nhận từ những biến cố mà chúng ta nghe thấy mỗi ngày rằng thế giới sẽ không đi đến việc xây dựng một cộng đồng huynh đệ và hòa bình hơn. Chính những tư tưởng về tiến bộ và hạnh phúc cũng tỏ lộ những bóng tối của chúng. Mặc dù sự vĩ đại của những khám phá khoa học và những thành công của kỹ thuật, ngày nay người ta có vẻ không thực sự trở nên tự do và nhân đạo hơn. Vẫn còn nhiều hình thức khai thác, thao túng, bạo lực, áp bức và bất công … Thêm vào đó, một loại văn hóa nào đó đã dạy con người chỉ di chuyển trong phạm vi các sự vật, phạm vi khả thi, chỉ tin vào những gì mình nhìn thấy và sờ mó được. Tuy nhiên, trái lại, số người cảm thấy mất định hướng cũng cũng gia tăng, và những người ấy trong cố gắng tìm cách vượt qua một viễn tượng hoàn toàn nằm trong phạm vi cùa thực tại, lại sẵn sàng tin vào tất cả mọi thứ và sự trái ngược của chúng. Trong bối cảnh này, tái xuất hiện một số vấn đề cơ bản, là những điều cụ thể hơn những gì chỉ có vẻ khi thấy lần đầu: Ý nghĩa cuộc đời là gì? Có một tương lai nào cho con người, cho chúng ta và cho các thế hệ tương lai không? Phải hướng dẫn sự lựa chọn tự do của chúng ta theo chiều hướng nào để có một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc? Cái gì đang chờ đợi chúng ta bên kia ngưỡng cửa sự chết?
Những vấn đề hấp dẫn này cho thấy rằng thế giới của việc lập kế hoạch, tính toán chính xác và thử nghiệm, nói tóm lại là thế giới của kiến thức khoa học, mặc dù quan trọng đối với đời sống con người, chưa đủ. Chúng ta không những chỉ cần bánh vật chất, mà còn cần tình yêu, ý nghĩa và hy vọng, một nền tảng vững chắc, một mảnh đất vững vàng giúp chúng ta sống với một ý nghĩa đích thực ngay cả trong những cuộc khủng hoảng, trong bóng tối, trong những khó khăn và trong những vấn đề thường nhật. Đức tin ban cho chúng ta chính đều ấy: đó là một lòng phó thác đầy tin tưởng vào “Ngài” là Thiên Chúa, Đấng mang lại cho tôi một điều chắc chắn khác, nhưng không kém vững chắc hơn điều đến từ tính toán chính xác của khoa học.
Đức tin không đơn thuần là một sự đồng ý của trí tuệ con người với những chân lý cụ thể của Thiên Chúa. Đó là một hành động mà qua đó tôi tự do phó thác chính mình cho một Thiên Chúa, Đấng là Cha tôi và yêu thương tôi; là gắn bó với “Ngài” là Đấng ban cho tôi niềm hy vọng và tin tưởng. Chắc chắn rằng, việc gắn bó với Thiên Chúa này không phải là không có nội dung: nhờ nó mà chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra cho chúng ta trong Đức Kitô, đã cho chúng ta thấy dung nhan Ngài và thực sự trở nên gần gũi mỗi người chúng ta. Và thậm chí, Thiên Chúa đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho con người, cho mỗi người chúng ta, tình yêu khôn lường: trên Thánh Giá, Chúa Giêsu Thành Nazareth, Con Thiên Chúa làm người, đã cho chúng ta thấy một cách rõ ràng nhất rằng tình yêu này đi đến mức nào, đến tận mức tự hiến hoàn toàn.
Với Mầu Nhiệm Cái Chết và Phục Sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa tự hạ xuống chỗ tột cùng cùa bản tính nhân loại của chúng ta để đưa nó lên với Người, để nâng nó lên cao bằng Người. Đức tin là tin vào tình yêu của Thiên Chúa, là điều không thuyên giảm trước sự gian ác của con người, biến đổi tất cả các hình thức nô lệ, bằng cách ban cho khả năng có thể được cứu độ. Như thế, có đức tin nghĩa là gặp gỡ “Ngài” là Thiên Chúa, Đấng nâng đỡ tôi và ban cho tôi lời hứa của một tình yêu không thể hủy diệt được, một tình yêu không những chỉ khao khát sự vĩnh cửu, nhưng còn ban tặng nó. Nó có nghĩa là tín thác vào Thiên Chúa với thái độ của một trẻ nhỏ, biết rõ rằng tất cả những khó khăn, tất cả những vấn đề của mình đều được an toàn trong “Ngài” của người mẹ.
Và khả năng có thể được cứu độ này là một hồng ân mà Thiên Chúa ban tặng cho tất cả mọi người qua đức tin,. Tôi nghĩ rằng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, đặc trưng bằng những vấn đề và những hoàn cảnh đôi khi bi thảm, chúng ta phải suy niệm thường xuyên hơn về việc tin cách Kitô giáo có nghĩa là từ bỏ mình, phó thác cho ý nghĩa sâu xa, là điều nâng đỡ tôi và nâng đỡ thế giới, ý nghĩa này là điều chúng ta không thể tự cung cấp cho mình, nhưng chỉ lãnh nhận như một hồng ân, và là nền tảng mà trên đó chúng ta có thể sống mà không sợ hãi. Và chúng ta phải có khả năng rao giảng sự chắc chắn giải thoát trấn an này của đức tin bằng lời nói, và chứng tỏ nó bằng đời sống Kitô hữu của mình.
Nhưng hằng ngày chúng ta thấy chung quanh mình nhiều người đang dửng dưng hay từ chối chấp nhận lời rao giảng này. Hôm nay ở cuối của Phúc Âm Thánh Marcô, chúng ta đã được nghe lời nghiêm khắc của Chúa Phục Sinh rằng, “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị luận phạt.” (Mc 16:16), người ấy sẽ bị sẽ hư mất. Tôi muốn mời anh chị em suy niệm về điều này. Lòng tin tưởng vào hoạt động của Chúa Thánh Thần phải luôn luôn thúc đẩy chúng ta đi rao giảng Tin Mừng và can trường làm chứng của đức tin. Nhưng ngoài khả thể tích cực đáp trả hồng ân đức tin, cũng có nguy cơ chối từ Tin Mừng, không chấp nhận cuộc gặp gỡ sống còn với Đức Kitô.
Thánh Augustinô đã nêu lên vấn đề này trong chú giải về dụ ngôn người gieo giống, ngài nói: “Chúng ta nói, chúng ta gieo hạt giống, chúng ta trải hạt giống. Có những kẻ coi thường, có những người chỉ trích, những kẻ chê cười. Nếu chúng ta sợ họ thì chúng ta không còn gì để gieo nữa, và ngày thu hoạch chúng ta sẽ không có gì để gặt. Vì vậy xin cho hạt giống mọc lên từ đất tốt” (Bài giảng về kỷ luật Kitô giáo, 13,14: PL 40, 677-678).
Do đó, việc chối từ không có thể làm cho chúng ta thất đảm. Là Kitô hữu, chúng ta là nhân chứng của thửa đất màu mỡ này: đức tin của chúng ta, ngay cả trong giới hạn của mình, chứng tỏ rằng có những thửa đất tốt, mà trên đó các hạt giống của Lời Chúa sinh hoa trái dồi dào công lý, hòa bình, và tình yêu, một nhân loại mới, ơn cứu độ. Và toàn thể lịch sử Hội Thánh, với tất cả những vấn đề, cũng cho thấy rằng có thửa đất tốt, có hạt giống tốt, và hạt sinh hoa trái.
Nhưng chúng ta hãy tự hỏi: con người nhận được sự mở rộng lòng trí này từ đâu để tin vào Thiên Chúa, Đấng đã tự tỏ hiện trong Đức Chúa Giêsu Kitô, đã chết và đã sống lại, để nhận được ơn cứu độ của mình, để Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người thành sự hướng dẫn và ánh sáng của cuộc đời mình? Câu trả lời là: chúng ta có thể tin vào Thiên Chúa bởi vì Ngài đến gần chúng ta và chạm đến chúng ta, bởi vì Chúa Thánh Thần, là hồng ân của Chúa Phục Sinh, giúp cho chúng ta có thể đón nhận Thiên Chúa hằng sống. Như thế đức tin trước hết là một ân huệ siêu nhiên, một món quà của Thiên Chúa.
Công Đồng Vaticanô II khẳng định: “Để có được, đức tin này cần phải có ân sủng đi trước và trợ giúp của Thiên Chúa, cùng với những sự giúp đỡ bề trong của Chúa Thánh Thần, Đấng chạm đến tâm hồn và hướng nó về Thiên Chúa, mở mắt tâm trí và ban cho ‘tất cả mọi người niềm vui ngọt ngào để chấp nhận và tin vào chân lý’” (Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 5). Nền tảng của cuộc hành trình đức tin của chúng ta là Phép Rửa, bí tích ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, làm cho chúng ta thành con cái Thiên Chúa trong Đức Kitô, và đánh dấu việc gia nhập vào cộng đồng đức tin, vào Hội Thánh: Chúng ta không tin một mình mà không có sự đi trước của ân sủng Chúa Thánh Thần; và chúng ta không tin một mình, nhưng cùng tin với các anh chị em của mình. Từ khi chịu Phép Rửa, mỗi tín hữu được mời gọi để sống trở lại và biến lời tuyên xưng đức tin này thành của riêng mình, cùng với các anh chị em của mình.
Đức tin là một món quà của Thiên Chúa, nhưng cũng là một hành động tự do sâu xa của con người. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nói rõ rằng: “Chỉ có thể tin nhờ ân sủng và những sự trợ giúp bề trong của Chúa Thánh Thần. Nhưng không kém đúng rằng tin là một hành động đích thực của con người. Nó không ngược lại với sự tự do hay lý trí của con người” (số 154). Thực ra, nó liên hệ với chúng và nâng cao chúng, trong một canh bạc cuộc đời như một cuộc xuất hành, như một việc thoát ly chính mình, thoát ly những sự chắc chắn riêng, những mô thức suy nghĩ riêng của mình, để phó thác cho hành động của Thiên Chúa, là Đấng chỉ cho chúng ta thấy cách đạt được sự tự do thật, căn tính con người, niềm vui thật sự của tâm hồn và sự hòa thuận với mọi người. Tin là tự do và vui vẻ phó thác cho kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa trong lịch sử, như tổ phụ Abraham đã làm, cũng như Đức Maria thành Nazareth. Như thế, đức tin là một sự ưng thuận mà qua đó lòng trí chúng ta thưa “Vâng” cùng Thiên Chúa qua việc tuyên xưng rằng Chúa Giêsu là Chúa. Và lời “Vâng” này biến đổi cuộc đời, mở ra cho nó con đường hướng tới một sự viên mãn đầy ý nghĩa, làm cho nó nên mới, tràn đầy niềm vui và hy vọng đáng tin cậy.
Các bạn thân mến, thời đại chúng ta cần những Kitô hữu là những người đã được Đức Kitô chiếm hữu, đang lớn lên trong đức tin nhờ quen thuộc với Thánh Kinh và các Bí tích. Những người ấy phải như một cuốn sách mở ra kể lại kinh nghiệm về cuộc đời mới trong Chúa Thánh Thần, về sự hiện diện của Thiên Chúa này là Đấng nâng đỡ chúng ta trong cuộc hành trình và mở cho chúng ta con đường đến cuộc sống không bao giờ cùng. Xin cảm ơn anh chị em.
Bài Giáo Lý III của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Bản Chất Hội Thánh của Đức Tin “Không ai có thể có Thiên Chúa là Cha mà không có Hội Thánh là Mẹ”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ ba của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Quảng Trường Thánh Phêrô hôm thứ tư 31 tháng 10, 2012. Hôm nay ĐTC dạy về ý nghĩa của Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Chúng ta tiếp tục cuộc hành trình suy niệm về đức tin Công Giáo của chúng ta. Tuần trước tôi đã giải thích về đức tin là một hồng ân như thế nào, bởi chính Thiên Chúa đã có sang kiến đến gặp chúng ta trước, và như thế đức tin là một sự đáp trả mà chúng ta dùng để chào đón Ngài như là nền tảng vững chắc của cuộc đời chúng ta. Đó là một món quà biến đổi cuộc đời, bởi vì nó cho chúng ta nhìn với cái nhìn của Chúa Giêsu, Đấng hoạt động trong chúng ta và mở lòng chúng ta để yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
Hôm nay tôi muốn đi thêm một bước nữa trong bài suy niệm của chúng ta, bắt đầu một lần nữa từ một số câu hỏi: Có phải đức tin chỉ có đặc tính riêng tư, cá nhân hay không? Có phải nó chỉ liên quan đến cá nhân tôi không? Có phải tôi sống đức tin của tôi một mình hay không? Tất nhiên, hành động đức tin là một hành động tiên quyết cá nhân, xảy ra tận đáy lòng chúng ta và đánh dấu một sự chuyển hướng, một sự hoán cải cá nhân: chính cuộc đời của tôi được đánh dấu bởi một khúc quanh và nhận được một hướng đi mới.
Trong Phụng Vụ của Bí Tích Rửa Tội, vào lúc tuyên hứa, vị chủ sự yêu cầu tuyên xưng đức tin, và đưa ra ba câu hỏi: Anh/Chị/Em có tin vào Thiên Chúa là Cha Toàn Năng không? Anh/Chị/Em có tin vào Chúa Giêsu Kitô Con một Ngài không? Anh/Chị/Em có tin vào Chúa Thánh Thần không? Xưa kia, những câu hỏi này đã được đưa ra cách riêng cho người đã được rửa tội trước khi dìm người ấy vào nước ba lần. Và ngay cả ngày nay cũng thế, câu trả lời ở số ít là: “Tôi tin”.
Nhưng đức tin của tôi không phải là kết quả của sự suy nghĩ đơn độc của tôi, cũng không phải là sản phẩm của những suy tư riêng của tôi, nhưng là kết quả của một mối liên hệ, một cuộc đối thoại, trong đó có sự lắng nghe, và sự đón nhận một câu trả lời. Chính việc đối thoại với Chúa Giêsu làm cho tôi ra khỏi cái “tôi” bị đóng kín trong bản thân mình để mở ra cho tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Nó giống như một sự tái sinh mà trong đó tôi khám phá ra rằng tôi không những chỉ kết hợp với Chúa Giêsu, mà còn với tất cả những người đã đi và đang đi trên cùng một con đường. Và việc tái sinh này, bắt đầu với Bí Tích Rửa Tội, tiếp tục trong suốt dòng đời.
Tôi không thể xây dựng đức tin cá nhân của tôi trong một cuộc đối thoại riêng tư với Chúa Giêsu, bởi vì đức tin được Thiên Chúa ban cho tôi qua một cộng đồng các tín hữu là Hội Thánh, và tôi được kể vào số các tín hữu trong một cộng đồng, không chỉ thuộc về xã hội, nhưng được bắt nguồn từ tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa, mà trong Ngài là sự hiệp thông của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là tình yêu của Ba Ngôi. Đức tin của chúng ta chỉ thực sự là của cá nhân khi nó cũng là của cộng đồng: nó chỉ có thể là đức tin của tôi, chỉ khi nó sống và di động trong cái “chúng ta” của Hội Thánh, chỉ khi nó là đức tin của chúng ta, đức tin chung của một Hội Thánh Duy Nhất.
Vào ngày chúa nhật, khi chúng ta đọc “Tôi tin kính” trong Thánh Lễ, chúng ta xưng mình ở ngôi thứ nhất, nhưng chúng ta tuyên xưng một đức tin duy nhất của cộng đồng. Kinh “Tin Kính” mà mỗi người chúng ta tuyên xưng cách cá nhân được kết lại thành một ca đoàn bao la trải dài trong thời gian và không gian, trong đó có thể nói là mỗi người đóng góp vào một bản hòa âm nhiều bè của đức tin. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo tóm tắt một cách rõ ràng: “Tin” là một hành động của Hội Thánh. Đức tin của Hội Thánh đi trước, sinh ra, nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của chúng ta. Hội Thánh là Mẹ của mọi tín hữu. “Không ai có thể có Thiên Chúa là Cha, mà không có Hội Thánh là Mẹ” [Thánh Cyprianô]” (số 181). Vì vậy, đức tin được sinh ra trong Hội Thánh, dẫn đến Hội Thánh và sống trong Hội Thánh. Điều này là điều rất quan trọng mà chúng ta cần phải nhớ.
Ở bước đầu của cuộc mạo hiểm Kitô giáo, khi Chúa Thánh Thần đến với quyền năng trên các môn đệ vào ngày Lễ Ngũ Tuần, như được kể lại trong sách Tông Đồ Công Vụ (x. 2:1-13), Hội Thánh thời sơ khai nhận được sức mạnh để thực hiện sứ vụ được Chúa Phục Sinh trao phó: loan truyền Tin Mừng về Nước Thiên Chúa cho đến tận cùng trái đất, và như thế dẫn đưa mọi người đến một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô Phục Sinh và đến đức tin có sức cứu độ. Các Tông Đồ thắng vượt mọi nỗi sợ hãi trong việc công bố những gì các ngài đã nghe, đã thấy và cảm nghiệm cá nhân với Chúa Giêsu. Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, các ngài bắt đầu nói những ngôn ngữ mới, công khai công bố mầu nhiệm mà các ngài chứng kiến.
Trong Sách Tông Đồ Công Vụ, sau đó chúng ta được biết về bài giảng tuyệt vời của Thánh Phêrô vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Ông bắt đầu với một đoạn trích từ sách Ngôn Sứ Giôel (3:1-5), quy nó về Chúa Giêsu, và công bố cốt lõi của đức tin Kitô giáo: Người, Đấng đã đối xử cách rất tốt lành với tất cả mọi người, đã được Thiên Chúa chứng giám bằng những phép lạ và những dâu chỉ cả thể, đã bị đóng đinh trên thập giá và bị giết, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết, đặt Người làm Chúa và Đức Kitô.
Với Người, chúng ta đã bước vào ơn cứu độ dứt khoát đã được các ngôn sứ báo trước, và bất cứ ai kêu cầu Danh Người sẽ được cứu rỗi (x. Cv 2:17-24). Nhiều người khi nghe những lời của Thánh Phêrô, tự cảm thấy bị vấn lòng cách riêng, họ ăn năn tội lỗi của họ, được rửa tội và lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Cv 2: 37-41).
Như thế bắt đầu cuộc hành trình của Hội Thánh, một cộng đồng mang lời công bố này trong thời gian và không gian, một cộng đồng Dân Thiên Chúa được xây dựng trên Giao Ước Mới trong Máu của Đức Kitô, mà các thành viên không thuộc về một nhóm xã hội hoặc chủng tộc riêng biệt nào, nhưng là những người nam nữ từ mọi quốc gia và mọi nền văn hóa. Đó là một dân “công giáo”, nói những ngôn ngữ mới và phổ quát, mở ra đón nhận tất cả mọi người, siêu vượt mọi ranh giới và đập tan mọi chướng ngại. Thánh Phaolô nói: “Ở đây không còn người Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ (Scythia), nô lệ, tự do, nhưng Đức Kitô là tất cả và trong mọi người” (Colossians 3:11).
Do đó, ngay từ ban đầu Hội Thánh là chỗ của đức tin, nơi mà đức tin được truyền thụ, nơi mà qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được dìm vào Mầu Nhiệm Vượt Qua của Cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô, là điều giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và ban cho chúng ta sự tự do của con cái cùng đưa chúng ta vào hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đồng thời, chúng ta được nhận chìm vào sự hiệp thông với các anh chị em khác trong đức tin, với toàn thể Nhiệm Thể Đức Kitô, nhờ cách đó mà chúng ta thoát khỏi sự cô lập của mình. Công đồng Vatican II nhắc nhở chúng ta rằng: “Thiên Chúa muốn cứu độ và thánh hóa con người, không phải chỉ như những cá nhân không có một mối liên hệ nào giữa họ; nhưng Ngài muốn biến họ thành một dân, một dân nhận biết Ngài theo chân lý và phục vụ Ngài trong sự thánh thiện” (Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium , 9).
Khi nhớ lại phụng vụ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta nên lưu ý rằng khi kết thúc các lời hứa trong đó chúng ta hứa từ bỏ sự dữ và trả lời “Tôi tin” vào những chân lý của đức tin, vị chủ sự công bố: “Ðó là đức tin của chúng ta. Ðó là đức tin của Hội Thánh. Chúng ta hãnh diện tuyên xưng Ðức Tin ấy, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” Đức tin là một nhân đức đối thần do Thiên Chúa ban, nhưng truyền lại qua Hội Thánh trong suốt dòng lịch sử. Thánh Phaolô, khi viết cho cá tín hữu Côrinthô, khẳng định rằng ngài đã truyền lại cho họ Tin Mừng mà ngài đã nhận được (x. 1 Corinthians 15:3).
Có một dây xích không bị gián đoạn trong đời sống Hội Thánh, trong việc công bố Lời Chúa, việc cử hành các Bí Tích, đến với chúng ta mà chúng ta gọi là Thánh Truyền. Nó cho chúng ta sự đảm bảo rằng những gì chúng ta tin là thông điệp nguyên thủy của Đức Kitô, như được rao giảng bởi các Tông Đồ. Cốt lõi của lời loan báo nguyên thủy này là biến cố Cái Chết và Phục Sinh của Chúa, từ đó phát sinh ra toàn thể di sản đức tin. Công Đồng nói: “Lời rao giảng của các tông đồ, được diễn tả một cách đặc biệt trong những sách được linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế” (Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 8). Như vậy, nếu Thánh Kinh chứa đựng Lời Chúa, thì Thánh Truyền của Hội Thánh bảo tồn và trung thành truyền lại Lời ấy, để con người ở mọi thời đại có thể truy cập tài nguyên bao la của Lời ấy và được phong phú hóa bởi kho tàng ân sủng của nó. Vì vậy, Hội Thánh, “trong việc giảng dạy của mình, trong đời sống và việc phụng tự của mình bảo tồn và truyền lại cho mọi thế hệ tất cả những gì là thực chất của mình và tất cả những gì mình tin” (ibid.).
Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh rằng chính trong cộng đồng Hội Thánh mà đức tin cá nhân phát triển và trưởng thành. Thật đáng chú ý khi nhận thấy rằng trong Tân Ước thuật ngữ “thánh” được dùng để chỉ các Kitô hữu như một tập thể, và chắc chắn rằng không phải tất cả mọi người trong họ có những đức tính cần thiết để được Hội Thánh gọi là thánh. Như thế thì người ta muốn ám chỉ gì qua thuật ngữ này? Sự thể là những người đã có đức tin vào Đức Kitô Phục Sinh và sống đức tin ấy được mời gọi để trở thành mẫu mực (điểm tham chiếu) cho tất cả những người khác, bằng cách giúp họ tiếp xúc với Con Người và Sứ Điệp của Chúa Giêsu, Đấng mạc khải Dung Nhan Thiên Chúa hằng sống. Điều này cũng đúng cho chúng ta: một Kitô hữu để cho mình được đức tin của Hội Thánh từ từ hướng dẫn và hình thành, bất chấp những yếu đuối, giới hạn và khó khăn của mình, người ấy sẽ trở thành như một cửa sổ mở ra cho ánh sáng của Thiên Chúa hằng sống, nhận được ánh sáng này và truyền nó cho thế giới. Chân Phước Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris missio nói rằng “hoạt động truyền giáo canh tân Hội Thánh, khôi phục đức tin và căn tính Kitô giáo, cùng cung cấp nhiệt tình mới và động lực mới. Đức tin được củng cố bằng cách cho đi!” (số 2).
Do đó, xu hướng hiện đại được lan tràn rộng rãi, là giới hạn đức tin vào lĩnh vực riêng tư, mâu thuẫn với bản chất của chính đức tin. Chúng ta cần Hội Thánh xác nhận đức tin của mình và cảm nghiệm những hồng ân của Thiên Chúa: Lời Ngài, các Bí Tích, sư trợ giúp của ân sủng và chứng tá tình yêu. Vì vậy, trong cái “chúng ta” của Hội Thánh, cái “tôi” của chúng ta sẽ có khả năng nhận ra chính mình như người lãnh nhận và tham dự vào một biến cố vượt trên nó: kinh nghiệm hiệp thông với Thiên Chúa, Đấng thiết lập sự hiệp thông giữa con người. Trong một thế giới mà trong đó chủ nghĩa cá nhân dường như quy định các mối liên hệ giữa con người, làm cho những liên hệ ấy thành mỏng giòn hơn, đức tin mời gọi chúng ta làm Dân Thiên Chúa, là Hội Thánh, những người mang tình yêu và sự hiệp thông của Thiên Chúa đến cho tất cả nhân loại (xem Hiến Chế Mục vụ Gaudium et Spes, 1). Cảm ơn sự chú ý của anh chị em.
Bài Giáo Lý IV của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin: Lòng Ao Ước Thiên Chúa “Tâm hồn chúng ta không thể an nghỉ cho đến khi được nghỉ an nơi Thiên Chúa” Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ tư của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Quảng Trường Thánh Phêrô hôm thứ tư ngày 7 tháng 11, 2012. Hôm nay ĐTC dạy tiếp tục loạt Bài Giáo Lỳ về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Cuộc hành trình suy niệm mà chúng ta đang cùng nhau thực hiện trong Năm Đức Tin này dẫn chúng ta đến suy niệm hôm nay về một khía cạnh hấp dẫn của kinh nghiệm con người và Kitô giáo: con người mang trong mình một ao ước mầu nhiệm về Thiên Chúa. Bằng một cách rất ý nghĩa, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo mở đầu với lời nhận xét sau: “Sự ao ước Thiên Chúa được viết trong trái tim con người, vì con người được tạo ra bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa không bao giờ ngừng lôi kéo con người lại với chính mình. Chỉ trong Thiên Chúa, con người sẽ tìm thấy chân lý và hạnh phúc mà họ đã không ngừng tìm kiếm” (số 27).
Ngay cả ngày nay, hầu như hiển nhiên, một lời xác nhận như thế trong nhiều bối cảnh văn hóa có vẻ vẫn còn chấp nhận được, thay vì xem ra là một hành động khiêu khích như trong nền văn hóa Tây Phương bị tục hóa này. Thưc ra, nhiều người đương thời của chúng ta có thể cho rằng không tài nào họ cảm thấy một ao ước về Thiên Chúa như thế. Đối với phần lớn trong xã hội, Ngài không còn là Đấng mà người ta mong đợi, Đấng mà người ta ao ước, nhưng trái lại là một thực thể khiến cho người ta không quan tâm, trước thực thể ấy một người thậm chí không cần phải cố gắng bàn luận.
Trên thực tế, điều chúng ta đã định nghĩa là “ao ước Thiên Chúa” đã không hoàn toàn biến mất, và vẫn hiện hữu ngay cả hôm nay, bằng nhiều cách, ở trong tâm hồn con người. Ước ao của con người luôn hướng về những sự tốt lành cụ thể, thường là bất cứ điều gì ngoài những điều tinh thần, và thấy mình đứng trước thắc mắc về điều gì thực sự là “điều” tốt lành, do đó cảm thấy phải đương đầu với một điều gì đó khác với chính mình, mà con người không thể tạo ra, nhưng được mời gọi để nhận ra. Điều gì thật sự có thể thỏa mãn ao ước của con người?
Trong Thông Điệp đầu tiên của tôi, Deus Caritas Est, tôi đã cố gắng phân tích động năng này xảy ra thế nào trong kinh nghiệm về tình yêu con người, một kinh nghiệm mà trong thời đại chúng ta được người ta cảm nhận dễ dàng hơn như một giây phút xuất thần, đi ra ngoài chính mình, một nơi mà con người nhận ra rằng mình được tràn ngập bởi một ao ước vượt trên mình. Qua tình yêu, người nam và nữ nhờ nhau mà kinh nghiệm một cách mới mẻ sự cao cả và vẻ đẹp của cuộc đời và thực tại. Nếu điều tôi kinh nghiệm không chỉ đơn thuần là một ảo tưởng, nếu việc tôi thực sự mong muốn điều tốt cho người khác cũng là một cách đạt được điều tốt cho tôi, thì tôi phải sẵn sàng quên mình, để phục vụ tha nhân, cho đi đến độ từ bỏ chính mình. Như thế, câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa của kinh nghiệm về tình yêu phải trải qua thanh tẩy và chữa lành ý muốn, được đòi hỏi bởi chính tình yêu mà tôi dành cho tha nhân. Chúng ta phải thực hành điều này, chúng ta phải huấn luyện, và thậm chí sửa mình, để chúng ta có thể thực sự mong muốn điều tốt lành này.
Do đó sự xuất thần ban đầu trở thành một cuộc hành hương “một cuộc xuất hành liên tục ra khỏi cái tôi bị khép kín trong chính mình hướng về việc giải thoát nó qua việc tự hiến, và do đó hướng về việc thực sự tìm được chính mình và quả thực là tìm được Thiên Chúa” (Deus Caritas Est, 6). Qua con đường này, con người sẽ dần dần đào sâu hơn sự hiểu biết về tình yêu mà mình đã trải qua lúc ban đầu. Và mầu nhiệm mà nó đặc trưng sẽ càng ngày càng nổi bật: thực ra, ngay cả người được yêu cũng không có thể thỏa mãn được ao ước trong quả tim con người; trái lại, tình yêu dành cho người khác càng đích thực bao nhiêu thì nó càng tạo ra thắc mắc về nguồn gốc và số phận của nó, về việc có thể kéo dài tình yêu này mãi mãi hay không bấy nhiêu. Như vậy, kinh nghiệm về tình yêu của con người có trong chính nó một động năng dẫn họ vượt qua chính mình, đó là một kinh nghiệm về một điều tốt lành dẫn người ta đi ra ngoài chính mình và tìm thấy mình trước mầu nhiệm bao bọc toàn thể cuộc đời.
Chúng ta có thể có những suy nghĩ tương tự về những kinh nghiệm khác của con người, như tình bạn, kinh nghiệm về thẩm mỹ, lòng yêu thích sự hiểu biết: mọi điều tốt được con người cảm nghiệm đều hướng về mầu nhiệm bao bọc chính con người; mỗi ao ước phát sinh từ tâm hồn con người vang vọng một ước muốn không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Chắc chắn rằng từ ao ước sâu xa đó, là điều cũng che giấu một cái gì bí ẩn, mà một người không thể trực tiếp đạt đến đức tin được. Chung cuộc, con người biết rõ điều gì không làm cho mình thỏa mãn, nhưng không thể đoán hoặc xác định được điều làm cho họ cảm nghiệm hạnh phúc mà họ nhung nhớ trong tâm hồn. Người ta không thể biết Thiên Chúa đơn thuần dựa trên ao ước của con người. Từ quan điểm này, mầu nhiệm vẫn còn: con người là kẻ tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối, một người đi tìm tiến bước qua những bước nhỏ và không chắc chắn. Tuy nhiên, kinh nghiệm về ao ước, của “con tim không thể an nghỉ được” như Thánh Augustine gọi nó, là điều rất ý nghĩa. Nó cho chúng ta biết rằng con người, tận đáy lòng, là một hữu thể tôn giáo (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 28), một “kẻ ăn xin trước mặt Thiên Chúa.” Chúng ta có thể nói bằng những lời nói của Pascal: “Con người vượt qua con người một cách vô tận” (Pensées, ed Chevalier 438, ed Brunschvicg 434). Mắt chúng ta nhận ra các sự vật khi chúng được ánh sáng chiếu soi. Do đó ước muốn biết chính ánh sáng, là điều làm cho những gì thuộc về thế giới tỏa sáng và cùng với chúng, thắp lên ý nghĩa về vẻ đẹp.
Vì thế chúng ta phải tin rằng trong thời đại chúng ta, là thời đại dù có vẻ chống lại chiều kích siêu việt, vẫn có thể mở một lối đi hướng về ý nghĩa tôn giáo đích thực của cuộc đời, trong đó cho thấy làm sao hồng ân đức tin không phải là điều ngu xuẩn, không phải là điều vô lý. Thật là điều rất ích lợi, cho mục đích đó, để quảng bá một loại phương pháp sư phạm về ao ước, cho cả con đường của những người chưa tin, và cho những người đã nhận được hồng ân đức tin. Một phương pháp sư phạm bao gồm ít nhất hai khía cạnh. Thứ nhất, học hoặc tái học thưởng thức những niềm vui đích thực của cuộc đời. Không phải tất cả mọi thỏa mãn đều tạo ra cùng một hiệu quả trong chúng ta: một số để lại dấu vết tích cực, chúng có thể làm êm dịu tâm hồn, làm cho chúng ta hoạt động nhiều hơn và đại lượng hơn. Còn những thỏa mãn khác, sau ánh sáng ban đầu, có vẻ làm tiêu tan những kỳ vọng mà chúng đã tạo ra và đôi khi để lại đằng sau chúng sự đắng cay, không hài lòng, hay một cảm giác trống rỗng. Việc giáo dục con người từ thơ ấu để biết thưởng thức những niềm vui thật, trong tất cả các lĩnh vực của cuộc đời – gia đình, tình bạn, tình đoàn kết với những người đau khổ, từ bỏ mình để phục vụ tha nhân, yêu thích sự hiểu biết, nghệ thuật, những vẻ đẹp thiên nhiên – , tất cả những điều này có nghĩa là thực tập cách thưởng thức nội tâm và sản xuất ra những kháng thể có hiệu quả chống lại sự tầm thường hóa và bình thường phổ biến ngày nay. Người lớn cũng cần phải tái khám phá ra những niềm vui, ao ước những thực tại chân chính, thanh lọc mình khỏi sự tầm thường, mà họ thấy chính mình bị vướng mắc trong đó. Sau đó sẽ dễ dàng hơn để bỏ đi hoặc chối từ tất cả những gì, dù có vẻ hấp dẫn chứ không tỏ ra vô vị, là nguồn mạch của sự nghiện ngập chứ không phải của tự do. Và điều này sẽ làm xuất hiện lòng ao ước về Thiên Chúa mà chúng ta đang nói đến.
Một khía cạnh thứ hai, đi song song với khía cạnh trước là đừng bao giờ hài lòng với những gì mình đã đạt được. Chính những niềm vui chân thật nhất có khả năng giải phóng chúng ta khỏi tình trạng bất ổn lành mạnh ấy dẫn chúng ta đến việc trở nên đòi hỏi hơn – ao ước một sự tốt lành cao hơn và sâu xa hơn – và đồng thời, nhận thức càng ngày càng rõ ràng hơn rằng không có gì hữu hạn có thể đổ đầy trái tim của chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ học để vươn ra, bàng tay không, hướng về phía sự tốt lành ấy mà chúng ta không thể xây dựng hoặc mua cho mình bằng những nỗ lực riêng của mình; chúng ta sẽ học không để cho mình bị chán nản vì những khó khăn liên hệ hoặc những trở ngại đến từ tội lỗi của mình.
Về vấn đề này, chúng ta không được quên rằng động lực của ao ước luôn mở ra cho ơn cứu độ. Ngay cả khi nó tiến theo những con đường sai lầm, khi nó theo đuổi những thiên đàng nhân tạo và dường như mất khả năng khao khát những sự tốt lành chân thật. Ngay cả trong vực thẳm của tội lỗi, tia lửa ấy không bị dập tắt trong con người, cho phép người ta nhận ra điều tốt lành thật sự, để thưởng thức nó, và do đó bắt đầu một con đường đi lên, là con đường mà Thiên Chúa, qua món quà ân sủng của Ngài, không bao giờ ngừng ban phát sự giúp đỡ của Ngài. Hơn nữa, tất cả chúng ta cần phải bước đi trên một con đường thanh tẩy và chữa lành của ước muốn. Chúng ta là những khách lữ hành hướng về quê trời, hướng về sự tốt lành sung mãn và vĩnh cửu ấy, là điều mà không bao giờ có gì sẽ có thể giật khỏi tay chúng ta. Cho nên, không phải là vấn đề bóp nghẹt ao ước trong tâm hồn con người, nhưng giải thoát nó, để nó có thể đạt được tầm vóc thực sự của nó. Khi trong ao ước một cửa sổ được mở ra hướng về Thiên Chúa, đây đã là một dấu chỉ của sự hiện diện của đức tin trong linh hồn, đức tin là một hồng ân cùa Thiên Chúa. Thánh Augustinô nói: “Bằng cách để cho chúng ta chờ đợi, Thiên Chúa làm tăng ao ước của chúng ta, là điều mở rộng khả năng của linh hồn chúng ta” (Chú giải Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan, 4,6: 35 PL, 2009).
Trong cuộc hành hương này, chúng ta hãy cảm thấy mình là anh em của mọi người, những người cùng đồng hành, kể cả những người không tin, những người đang tìm kiếm, những người với lòng chân thành để cho động năng của ao ước chân lý và sự tốt lành của họ chất vấn họ. Trong Năm Đức Tin này chúng ta hãy cầu nguyện xin Thiên Chúa tỏ Dung Nhan Ngài cho tất cả những ai tìm kiếm Ngài với một lòng chân thành. Cảm ơn anh chị em.
Bài Giáo Lý 5 của ĐTC về Năm Đức Tin: Ba con đường dẫn đến nhận thức về Thiên Chúa Lm Trần Đức Anh, OP
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ năm của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Đại Sảnh Phaolô VI hôm thứ tư ngày 14 tháng 11, 2012. Hôm nay ĐTC tiếp tục dạy loạt Bài Giáo Lỳ về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến
Thứ Tư tuần trước (7-11-2012), chúng ta đã suy tư về niềm ước mong Thiên Chúa mà mỗi người mang trong thẳm sâu tâm hồn mình. Hôm nay tôi muốn tiếp tục đào sâu khía cạnh này, suy tư vắn tắt về một vài con đường để đạt tới sự nhận biết Thiên Chúa. Nhưng tôi muốn nhắc nhớ rằng sáng kiến của Thiên Chúa luôn đi trước mọi sáng kiến của con người, và cả trong hành trình tiến về Chúa, chính Chúa soi sáng cho chúng ta trước, Ngài hướng dẫn và dìu dắt chúng ta, luôn tôn trọng tự do của chúng ta. Chính Chúa cho chúng ta đi vào cuộc sống thân mật với Ngài, tự biểu lộ và ban cho chúng ta ơn có thể đón nhận mạc khải ấy trong đức tin. Chúng ta đừng bao giờ quên kinh nghiệm của thánh Augustino, theo đó không phải chúng ta sở hữu Chân Lý sau khi tìm kiếm Chân Lý, nhưng chính Chân Lý tìm kiếm và chiếm hữu chúng ta.
“Tuy nhiên có những con đường có thể mở tâm hồn con người để họ nhận biết Thiên Chúa, có những dấu hiệu dẫn đến cùng Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều khi chúng ta có nguy cơ lầm lẫn vì những ánh đèn của thế gian, làm giảm bớt khả năng của chúng ta đi theo những con đường hoặc đọc những dấu chỉ ấy. Nhưng Thiên Chúa không mỏi mệt trong việc tìm kiếm chúng ta, Ngài trung tín với con người mà Ngài đã tạo dựng và cứu chuộc, Ngài gần gũi cuộc sống chúng ta vì Ngài yêu thương chúng ta. Xác tín này phải tháp tùng chúng ta hằng ngày, cả khi có một số não trạng lan tràn làm cho Giáo Hội và Kitô hữu khó thông truyền niềm vui Tin Mừng cho mỗi thụ tạo và dẫn đưa mọi người đến gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất. Nhưng đó là sứ mạng của chúng ta, là sứ mạng của Giáo Hội, và mỗi tín hữu phải sống sứ mạng ấy trong vui tươi, cảm thấy sứ mạng ấy là của mình, qua một đời sống thực sự được đức tin linh hoạt, thấm đượm đức ái, phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, có khả năng chiếu tỏa hy vọng. Sứ mạng này chiếu tỏa rạng ngời, nhất là trong sự thánh thiện mà tất cả chúng ta đều được kêu gọi đạt tới.
“Ngày nay không thiếu những khó khăn và thử thách đối với đức tin, đức tin thường ít được hiểu rõ, bị phản đối và phủ nhận. Thánh Phêrô đã nói với các tín hữu Kitô của ngài: “Anh chị em hãy luôn sẵn sàng trả lời một cách dịu dàng và tôn trọng cho những ai hỏi anh chị em về niềm hy vọng trong tâm hồn anh chị em” (1 Pr 3,15). Tại Tây Phương trước đây, trong một xã hội được coi là Kitô, đức tin là môi trường trong đó chúng ta sinh sống; đối với phần lớn dân chúng, việc tham chiếu và gắn bó với Thiên Chúa là điều thuộc về đời sống thường nhật. Ai không tin thì phải chứng minh tại sao mình không tin. Nhưng trong thế giới ngày nay, tình trạng thay đổi và tín hữu Kitô ngày càng phải có khả năng làm chứng về đức tin của mình.
Chân phước Gioan Phaolô 2, trong thông điệp Fides et ratio (Đức tin và lý trí), đã nhấn mạnh rằng đức tin bị thử thách cả trong thời đại ngày nay, qua những hình thức tinh vi và xảo quyệt của chủ thuyết vô thần lý thuyết và thực hành (Xc nn.46-47). Từ thời thuyết soi sáng trở đi, sự phê bình tôn giáo ngày càng mạnh mẽ; lịch sử cũng bị ảnh hưởng nặng nề của những chế độ vô thần, trong đó Thiên Chúa bị coi như một điều do tâm hồn con người phóng tưởng ra, một ảo tưởng và là sản phẩm của một xã hội đã biến thái vì bao nhiêu điều tha hóa. Thế kỷ 20 vừa qua đã chịu một tiến trình tục hóa mạnh mẽ, dưới chiêu bài con người tuyệt đối tự trị, con người được coi là mẫu mực và là người kiến tạo thực tại, nhưng trở nên nghèo nàn vì bị coi là một thụ tạo, được dựng nên theo “hình ảnh giống Thiên Chúa”.
Thời nay người ta nhận thấy một hiện tượng đặc biệt nguy hiểm đối với đức tin: thực vậy có một hình thức vô thần mà chúng ta gọi là vô thần thực hành, trong đó người ta không phủ nhận các chân lý đức tin hoặc các lễ nghi tôn giáo, nhưng chỉ coi chúng là vô nghĩa, không quan trọng đối với cuộc sống thường nhật, những điều tách rời khỏi cuộc sống và vô ích. Vì thế, nhiều khi người ta chỉ tin nơi Thiên Chúa một cách hời hợt, người ta sống “như thể Thiên Chúa không hiện hữu” (etsi Deus non daretur). Nhưng rốt cuộc lối sống này càng tàn hại hơn nữa, vì nó đưa tới sự dửng dưng đối với đức tin và vấn đề Thiên Chúa.
“Trong thực tế, một khi xa lìa Thiên Chúa, thì con người bị thu hẹp vào một chiều kích, chiều ngang, và chính thái độ thu hẹp này là một trong những nguyên nhân căn bản đưa tới các chế độ độc tài, gây ra những hậu quả bi thảm trong thế kỷ vừa qua, cũng như cuộc khủng hoảng các giá trị mà chúng ta đang thấy. Khi làm lu mờ sự tham chiếu Thiên Chúa, thì người ta cũng che khuất chân trời luân lý đức, để nhường chỗ cho chủ thuyết duy tương đối và một quan niệm mơ hồ về tự do, tự do này thay vì có sức giải thoát, thì rốt cuộc lại rằng buộc con người vào những thần tượng. Những cám dỗ mà Chúa Giêsu đã đương đầu trong hoang địa trước khi bắt đầu sứ mạng công khai, cho thấy rõ rằng đâu là những “thần tượng” thu hút con người khi nó không đi xa hơn chính mình. Nếu Thiên Chúa không còn vị thế trung tâm nữa, thì con người cũng đánh mất chỗ đứng đúng đắn của mình, không còn tìm thấy chỗ đứng của mình nữa trong các loài thụ tạo, trong tương quan với tha nhân. Điều mà triết lý cổ xưa gợi lại qua huyền thoại Prometeo vẫn không biến mất: con người nghĩ mình có thể trở thành thần minh của chính mình, là chủ tể sự sống và sự chết.
Đứng trước bối cảnh đó, Giáo Hội, trung thành với mệnh lệnh của Chúa Kitô, không bao giờ ngừng khẳng định chân lý về con người và về vận mệnh của con người. Công đồng chung Vatican 2 đã quả quyết vắn tắt rằng: “Lý do cao quí nhất của phẩm giá con người hệ tại ơn gọi hiệp thông của họ với Thiên Chúa. Ngay từ khi mới sinh ra, con người đã được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa: thực vậy con người không hiện hữu, nếu không được Thiên Chúa bảo tồn; vì được Thiên Chúa dựng nên, và được Ngài luôn luôn yêu thương, con người không sống hoàn toàn theo chân lý nếu không nhìn nhận Chúa một cách tự do và nếu không tín thác vào Đấng Tạo Dựng nên mình” (Gaudium et Spes, 19).
“Như vậy, đức tin được kêu gọi mang lại câu trả lời, – một cách dịu dàng và tôn trọng -, cho chủ thuyết vô thần, chủ thuyết hồ nghi, sự dửng dưng đối với chiều dọc, để con người thời nay có thể tiếp tục tự hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa và tiến bước trên những con đường dẫn đến Chúa? Tôi muốn nhắc đến vài con đường, xuất phát từ suy tư tự nhiên, cũng như từ chính sức mạnh của đức tin. Tôi muốn trình bày một cách rất cô đọng 3 từ này là: thế giới, con người, và đức tin.
- Thứ nhất là thế giới. Thánh Augustino, người đã tìm kiếm Chân Lý lâu dài trong cuộc đời và đã được Chân Lý nắm bắt, thánh nhân có một trang rất hay và nổi danh, trong đó ngài khẳng định: “Hãy hỏi vẻ đẹp của trái đất, của biển khơi, của không khí bị loãng và lan ra khắp tới, hãy hỏi vẻ đẹp của trời cao…, hãy hỏi tất cả những thực tại ấy. Tất cả đều sẽ trả lời bạn: Hãy nhìn chúng và xem chúng đẹp dường nào. Vẻ đẹp của chúng như một bài ca chúc tụng. Vậy những thụ tạo đẹp đẽ như vậy, tuy là hay thay đổi, ai đã làm ra chúng nếu không phải là Đấng chính là vẻ đẹp bất biến?” (Bài giảng 241,2: PL 38,1134). Tôi thiết nghĩ cần phải phục hồi và giúp con người ngày nay phục hồi khả năng chiêm ngắm thiên nhiên, vẻ đẹp và cơ cấu của thiên nhiên. Thế giới không phải là một mớ hỗn mang không hình dạng, nhưng hễ càng biết thế giới, và càng khám phá những cơ cấu tuyệt vời của nó, chúng ta càng thấy một kế hoạch, và thấy rằng có một trí tuệ sáng tạo. Nhà bác học Albert Einstein nói rằng trong các luật lệ thiên nhiên, “có biểu lộ một lý trí cao cả đến độ tất cả lý lẽ của tư tưởng và những hệ thống của con người chỉ là một phản ánh hết sức nhỏ bé so với lý trí ấy” (Il Mondo come lo vedo io, Roma 2005). Vì thế, con đường thứ I dẫn đến sự khám phá Thiên Chúa là chiêm ngắm thiên nhiên với cặp mắt chăm chú.
- Thứ hai là con người. Cũng thánh Augustino có một câu thời danh trong đó ngài nói rằng Thiên Chúa ở sâu thẳm trong tôi hơn cả chính tôi (Xc Tự Thứ, III, 6,11). Từ đó thánh nhân đưa ra lời mời gọi: “Bạn đừng đi ra khỏi chính mình, hãy trở về lòng mình: trong con người nội tâm có chân lý cư ngụ” (De vera religione, 39, 72). Đây là một khía cạnh khác mà chúng ta có nguy cơ lạc mất trong thế giới ồn ào và chia trí chúng ta đang sống: khả năng dừng lại và nhìn vào chiều sâu của chính mình và đọc niềm khao khát vô biên mà chúng ta mang trong mình, thúc đẩy chúng ta đi xa hơn và dẫn chúng ta đến một Đấng có thể làm cho mãn nguyện. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo quả quyết: “Với sự cởi mở đối với chân lý và vẻ đẹp, đới với cảm thức về điều thiện, với tự do và tiếng nói của lương tâm, với khát vọng vô biên và mong ước hạnh phúc, con người tự hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa” (n.33).
- Thứ ba là đức tin. Nhất là trong thực tại thời nay, chúng ta không được quên rằng một con đường dẫn đến sự nhận thức và gặp gỡ Thiên Chúa chính là cuộc sống đức tin. Ai tin thì kết hiệp với Thiên Chúa, cởi mở đối với ân thánh của Ngài, sức mạnh của bác ái. Như thế cuộc sống của họ trở thành chứng tá không phải về mình, nhưng về Đấng Phục Sinh, và họ không sợ biểu lộ niềm tin của mình trong đời sống thường nhật, họ cởi mở đối thoại biểu lộ tình bạn sâu xa trên hành trình của mỗi người, và biết mở ra những ánh sáng hy vọng cho nhu cầu cần được cứu chuộc, nhu cầu hạnh phúc, tương lai. Thực vậy, đức tin là cuộc gặp với Thiên Chúa, Đấng nói và hành động trong lịch sử và hoán cải cuộc sống hằng ngày của chúng ta, biến đổi nơi chúng ta não trạng, những phán đoán giá trị, những chọn lựa và hành động cụ thể. Đức tin không phải là một ảo tưởng, trốn chạy thực tại, một sự nương náu thoải mái, một thái độ duy tình cảm, nhưng đức tin là một sự dấn thân trọng cuộc sống và loan báo Tin Mừng, Tin Vui có khả năng giải thoát toàn thể con người. Một Kitô hữu, một cộng đoàn chăm chỉ hoạt động và trung thành với dự phóng của Thiên Chúa Đấng yêu thương chúng ta trước, là một con đường ưu tiên đối với những người ở trong sự dửng dưng hoặc nghi ngờ về cuộc sống và hoạt động của mình. Nhưng điều này đòi mỗi người làm cho chứng về đức tin của mình ngày càng trong sáng, thanh tẩy cuộc sống của mình để nó phù hợp với Chúa Kitô. Nhiều người có một quan niệm hạn hẹp về đức tin Kitô, vì họ coi đó chỉ là một mớ hệ thống tín điều và giá trị chứ không phải là một chân lý về một Vị Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta trong lịch sử, một Thiên Chúa muốn thông ban cuộc sống thân mật với con người, trong một quan hệ yêu thương với Ngài. Trong thực tế, nơi nền tảng của mỗi đạo lý hoặc giá trị có một cuộc gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Kitô giáo, trước khi là một nền luân lý đạo đức, chính là một biến cố tình thương, là sự đón nhân con người của Chúa Giêsu. Vì thế, Kitô hữu và các cộng đoàn Kitô phải nhìn và giúp người khác nhìn Chúa Kitô là Đường chân thực dẫn đến Thiên Chúa.
Lm Trần Đức Anh, OP
Bài Giáo Lý VI của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin: Tính Hợp Lý của Đức Tin vào Thiên Chúa “Nhờ Đức Tin chúng ta đạt được sự hiểu biết chân thật về Thiên Chúa và chính mình”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ sáu của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Đại Sảnh Phaolô VI hôm thứ tư ngày 21 tháng 11, 2012. Hôm nay ĐTC tiếp tục dạy loạt Bài Giáo Lỳ về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Chúng ta tiến bước vào Năm Đức Tin này bằng cách mang trong tâm hồn niềm hy vọng tái khám phá ra tất cả niềm vui khi tin và tìm thấy sự nhiệt tình để truyền thông tất cả chân lý của đức tin. Các chân lý này không phải là một sứ điệp đơn giản về Thiên Chúa, một phần kiến thức về Ngài. Trái lại, chúng diễn tả biến cố của cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, một cuộc gặp gỡ cứu độ và giải thoát, làm thỏa mãn những khát vọng sâu xa nhất của con người, những khao khát hòa bình, tình huynh đệ và tình yêu của họ. Đức tin dẫn đến việc khám phá ra rằng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa tăng gia, thanh lọc và nâng cao những gì là chân thiện mỹ nơi con người. Như vậy, nhờ Thiên Chúa tự tỏ mình ra và cho chúng ta biết về Ngài mà con người biết Thiên Chúa là ai, và vì biết Ngài, họ khám phá ra chính mình, nguồn gốc và số phận của mình, sự cao quý và phẩm giá của sự sống con người.
Đức tin cho phép chúng ta có một sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa liên trong liên quan với toàn thể con người: đó là một “tri thức”, một sự hiểu biết cung cấp hương vị cho cuộc đời, một thị hiếu mới cho cuộc sống, một cách sống vui vẻ trên thế gian. Đức tin được diễn đạt qua món quà tự hiến cho người khác trong tình huynh đệ, tạo ra tình đoàn kết, khả năng yêu thương, chiến thắng sự cô đơn là điều làm cho chúng ta buồn. Do đó, sự hiểu biết về Thiên Chúa nhờ đức tin này không những chỉ thuộc về phạm vi trí tuệ, mà còn cần cho đời sống. Đó là sự hiểu biết về Thiên Chúa Tình Yêu, nhờ chính tình yêu của Ngài. Như thế tình yêu của Thiên Chúa làm cho chúng ta nhìn thấy, mở mắt chúng ta, cho phép chúng ta biết toàn thể thực tại, vượt ra ngoài những quan điểm hẹp hòi của các chủ nghĩa nhân và chủ quan, là những điều làm cho lương tâm bị lạc hướng. Cho nên, sự hiểu biết về Thiên Chúa là một kinh nghiệm của đức tin và đồng thời bao hàm một con đường trí tuệ và luân lý: được đánh động tận đáy lòng bởi sự hiện diện của Thần Khí Chúa Giêsu trong chúng ta, chúng ta vượt qua những chân trời ích kỷ của mình và mở chính mình ra cho những giá trị đích thực của cuộc đời.
Hôm nay, trong bài giáo lý này, tôi chú trọng đến tính hợp lý của đức tin vào Thiên Chúa. Truyền thống Công Giáo ngay từ đầu đã không chấp nhận thuyết duy tín, là ý muốn tin ngược lại với lý trí. Credo quia absurdum (Tôi tin vì nó vô lý) không phải là công thức diễn tả đức tin Công Giáo. Thực ra, Thiên Chúa không phải là vô lý, nếu có thì là một mầu nhiệm. Còn mầu nhiệm không phải là điều không hợp lý, nhưng tràn đầy ý thức, ý nghĩa và sự thật. Nếu khi nhìn vào mầu nhiệm, lý trý của một người nhìn thấy bóng tối, không phải là vì không có ánh sáng trong mầu nhiệm ấy, nhưng vì có quá nhiều ánh sáng. Giống như khi đôi mắt của một người nhìn thẳng vào mặt trời, họ chỉ thấy bóng tối, nhưng ai dám nói rằng mặt trời không ngời sáng? Trái lại, nó là nguồn gốc của ánh sáng? Đức tin cho phép chúng ta nhìn lên “mặt trời,” là Thiên Chúa, bởi vì đức tin là sự đón nhận mặc khải của Ngài trong lịch sử, và có thể nói, thực sự nhận được tất cả ánh sáng của mầu nhiệm của Thiên Chúa, qua việc nhận ra phép lạ cả thể: Thiên Chúa đã đến gần con người, và đã ban Chính Mình để con người biết Ngài, bằng cách hạ xuống để cho những giới hạn thụ tạo của lý trí con người có thể hiểu được (x. CĐ Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 13). Đồng thời, Thiên Chúa, với ân sủng của Ngài, soi sáng lý trí, mở ra chân trời mới, khôn lường vô tận, cho nó. Vì lý do đó mà đức tin là một sự khích lệ mạnh mẽ để luôn luôn tìm kiếm, không bao giờ ngừng lại và không bao giờ nghỉ ngơi, trong việc khám phá ra sự vô tận của chân lý và thực tại. Thành kiến của một số tư tưởng gia hiện đại, mà theo đó lý trí con người bị ngăn chặn bởi những tín điều của đức tin, là một điều thật sai lầm. Điều hoàn toàn ngược lại là điều đúng, như các bậc thầy vĩ đại của truyền thống Công Giáo đã chứng tỏ. Thánh Augustinô, trước khi hoán cải, đã thao thức tìm kiếm chân lý qua tất cả các triết lý có sẵn và thấy rằng tất cả đều không thỏa đáng. Đối với ngài, việc tìm kiếm chăm chỉ theo lý trý của ngài là một phương pháp sư phạm quan trọng cho cuộc gặp gỡ chân lý của Đức Kitô. Khi ngài nói, “hiểu để tin, và tin để hiểu” (Bài Giảng 43, 9: 38 PL, 258), như thể ngài đang kể lại kinh nghiệm cuộc đởi của chính ngài. Trước mặc khải của Thiên Chúa, trí tuệ và đức tin không xa lạ hay đối nghịch nhau, nhưng đều là những điều kiện để hiểu được ý nghĩa, để đón nhận sứ điệp đích thực của (mặc khải), và đến gần ngưỡng cửa của mầu nhiệm. Thánh Augustinô, cùng với nhiều tác giả Kitô giáo khác, đã làm chứng cho một đức tin được thể hiện nhờ sử dụng lý trí. Ngài suy nghĩ và mời gọi chúng ta suy nghĩ. Theo đường hướng này, Thánh Ansêlmô nói trong Proslogion (Bài giảng về sự hiện hữu của Thiên Chúa) của ngài nói rằng đức tin Công giáo là fides quaerens intellectum (Đức tin đi tìm sự hiểu biết): việc tìm kiếm sự hiểu biết là một hành động nội tại của đức tin. Đặc biệt là Thánh Tôma Aquinô, nhờ truyền thống này, sẽ đối diện với lý luận của các triết gia, cho thấy bao nhiêu hiệu quả sống động mới đến với tư tưởng hợp lý của con người nhờ tháp nhập những nguyên tắc và chân lý của đức tin Kitô giáo.
Cho nên, đức tin Công Giáo là điều hợp lý và cũng nuôi dưỡng sự tin tưởng vào lý trí con người. Công Đồng Chung Vaticanô I, trong Hiến Chế Tín Lý Dei Filius đã khẳng định rằng lý trí có thể biết một cách chắc chắn sự hiện hữu của Thiên Chúa qua con đường tạo dựng, trong khi khả năng có thể nhận biết “một cách dễ dàng, với sự chắc chắn tuyệt đối và mà không sai lầm” (DS 3005) những chân lý về Thiên Chúa, trong ánh sáng ân sủng, chỉ thuộc về đức tin mà thôi. Hơn nữa, sự hiểu biết về đức tin không chống lại lý lẽ đúng đắn. Thực ra, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Thông điệp Fides et Ratio (Đức Tin và Lý Trí), mô tả nó một cách tổng hợp: “Lý trí của con người không bị hủy bỏ, cũng không bị hạ giá trong việc đồng ý với những nội dung đức tin, là những điều đạt đến được trong bất kỳ trường hợp nào bằng cách lựa chọn tự do và có ý thức” (số 43). Trong ao ước chân lý không thể cưỡng lại được, chỉ có mối liên hệ hài hòa giữa đức tin và lý trí là con đường đúng đắn dẫn đến Thiên Chúa và làm thỏa mãn chính mình.
Chúng ta có thể dể dàng nhận ra học thuyết này khắp nơi trong Tân Ước. Thánh Phaolô nói khi viết cho các tín hữu thành Côrinthô, như chúng ta đã nghe: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, một chướng ngại cho người Do Thái, và một sự điên rồ đối với Dân Ngoại” (1 Corinthians 1:22-23). Thực ra, Thiên Chúa đã cứu thế gian không phải bởi một hành động quyền lực, nhưng qua sự sỉ nhục của Con Một Ngài: theo những tiêu chuẩn của loài người, cách thức khác thường mà Thiên Chúa dùng mâu thuẫn với những đòi hỏi của sự khôn ngoan Hy Lạp. Tuy nhiên, thập giá Đức Kitô có lý do của nó mà Thánh Phaolô gọi là: ho logos tou staurou, “lời của thập giá” (1 Corinthians 1:18). Ở đây, từ ‘logos” vừa có nghĩa là lý trí vừa có nghĩa là lời, và nếu nó ám chỉ lời, là vì nó diễn tả bằng lời nói điều mà lý trí suy nghĩ cẩn thận. Vì vậy, Thánh Phaolô thấy thập giá không phải là một biến cố phi lý, nhưng một thực thể cứu độ trong đó có sự hợp lý riêng của nó, là điều có thể nhận biết được trong ánh sáng đức tin. Đồng thời, ngài có một lòng tin tưởng vào lý trí con người đến nỗi ngài kinh ngạc về sự kiện nhiều người, trong khi thấy vẻ đẹp của các công trình mà Thiên Chúa tạo ra, đã nhất định không tin vào Ngài. Thánh nhân viết trong Thư gửi tín hữu Rôma: “Vì những gì không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa từ khi tạo thành vũ trụ, nghĩa là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Ngài, có thể được nhìn thấy rõ ràng, và hiểu thấu qua những tạo vật của Ngài.” (1:20). Vì vậy, cả Thánh Phêrô cũng khuyên Kitô hữu bị phân tán ngoài vùng Palestin hãy tôn thờ “Ðức Kitô là Chúa trong lòng anh em, và luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai hỏi anh em về lý do của niềm hy vọng nơi anh em” (1 Proverbs 3:15). Trong một bầu khí bị bách hại và với một nhu cầu thúc bách để làm chứng cho đức tin, các tín hữu được yêu cầu biện minh cho việc tuân hành Lời của Tin Mừng với những lý do chắc chắn cho niềm hy vọng của chúng ta.
Trên những tiền đề về mối dây liên kết hiệu quả giữa sự hiểu biết và niềm tin này, sự liên hệ đoan chính giữa khoa học và đức tin cũng được xây dựng. Nghiên cứu khoa học dẫn đến sự hiểu biết về những sự thật luôn mới mẻ về con người và vũ trụ, như chúng ta thấy. Những sự tốt lành thực sự của nhân loại, có thể đạt đến được trong đức tin, mở ra chân trời mà hướng về đó cuộc hành trình khám phá của khoa học phải đi đến. Do đó những nghiên cứu này cần được khuyến khích, thí dụ như những nghiên cứu nhằm phục vụ sự sống và diệt trừ các bệnh tật. Các cuộc nghiên cứu để khám phá những bí mật của hành tinh và vũ trụ của chúng ta cũng rất quan trọng, trong ý thức rằng con người là tột đỉnh của việc tạo dựng, không phải để khai thác nó một cách điên rồ, nhưng để bảo vệ nó và làm cho nó có thể cư ngụ được. Vì vậy, đức tin, khi được sống cách thực sự, không mâu thuẫn với khoa học; trái lại đức tin hợp tác với khoa học bằng cách cung cấp những tiêu chuẩn cơ bản là điều thăng tiến sự tốt lành cho mọi người, bằng cách yêu cầu nó từ bỏ những nỗ lực trái ngược với kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa, là những điều có thể tạo ra những hậu quả chống lại chính con người. Vì lý do đó mà cũng hợp lý để tin rằng: nếu khoa học là một đồng minh quý giá của đức tin trong sự hiểu biết về kế hoạch của Thiên Chúa trong vũ trụ, thì đức tin cũng cho phép tiến bộ khoa học luôn xảy ra vì lợi ích và sự thật của con người, trong khi trung thành với cùng một kế hoạch ấy.
Đó là lý do tại sao việc người ta mở lòng ra cho đức tin cùng cho việc biết Thiên Chúa và kế hoạch cứu độ của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô là điều rất quan trọng. Trong Tin Mừng, một chủ nghĩa nhân bản mới được khai trương, một “văn phạm” thật sự của con người và tất cả các thực thể. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo xác quyết: “Chân lý của Thiên Chúa là sự khôn ngoan của Ngài, chỉ huy toàn bộ trật tự của việc tạo dựng và việc điều hành trần gian. Một mình Thiên Chúa ‘đã tạo dựng trời đất’ (Tv 115:15), nên chỉ một mình Ngài có thể ban sự hiểu biết đích thực về mọi thụ tạo trong tương quan của chúng với Ngài” (số 216).
Vì thế chúng ta hy vọng rằng quyết tâm của chúng ta trong việc Phúc Âm hóa giúp hoàn lại cho Tin Mừng địa vị trung tâm trong cuộc đời của nhiều người nam nữ trong thời đại chúng ta. Và chúng ta cầu nguyện để tất cả mọi người tái tìm thấy trong Đức Kitô ý nghĩa của cuộc đời và nền tảng của sự tự do đích thực: thực ra, không có Thiên Chúa con người đánh mất chính mình. Lời chứng của những người đã đi trước chúng ta và đã tận hiến cuộc đời của họ cho Tin Mừng xác nhận điều này mãi mãi. Tin là điều hợp lý, vì có liên hệ sống còn với cuộc đời chúng ta. Dồn hết nghị lực cho Đức Kitô là điều đáng giá, chỉ một mình Người có thể thỏa mãn những khao khát chân lý và sự tốt lành đã ăn sâu trong tâm hồn mỗi người: bây giờ, trong thời gian đã qua, và ngày vô tận của Cõi Phúc Muôn Đời.
Bài Giáo Lý VII của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Làm thế nào để nói về Thiên Chúa trong Thời Đại Chúng Ta? “Chúng ta càng đặt Thiên Chúa, chứ không đặt mình, ở trung tâm bao nhiêu, thì việc truyền thông sẽ càng có hiệu quả bấy nhiêu.”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ bảy của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Quảng Trường Thánh Phêrô hôm thứ tư ngày 28 tháng 11, 2012. Hôm nay ĐTC dạy tiếp tục loạt Bài Giáo Lỳ về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Câu hỏi chính mà chúng ta đặt ra hôm nay là câu hỏi dưới đây: làm thế nào để nói về Thiên Chúa trong thời đại chúng ta? Làm thế nào để truyền đạt Tin Mừng, để mở đường cho chân lý cứu độ của Người trong những tâm hồn thường đóng kín của những người đương thời của chúng ta, và tâm trí của họ đôi khi bị phân tâm bởi nhiều tia sáng hào nhoáng của xã hội? Các Thánh sử cho chúng ta biết rằng chính Chúa Giêsu trong khi công bố Nước Thiên Chúa đã tự hỏi mình điều này: “Chúng ta có thể so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì, hoặc chúng ta sẽ sử dụng dụ ngôn nào?” (Mc 4:30). Ngày nay chúng ta nói về Thiên Chúa thế nào? Câu trả lời đầu tiên là chúng ta có thể nói về Thiên Chúa, bởi vì Ngài đã nói với chúng ta. Do đó điều kiện đầu tiên để nói về Thiên Chúa là lắng nghe những gì chính Thiên Chúa đã nói. Thiên Chúa đã nói với chúng ta! Cho nên Thiên Chúa không phải là một giả thuyết xa xưa về nguồn gốc của thế giới, hay một trí thông minh toán học xa cách với chúng ta. Thiên Chúa chăm sóc cho chúng ta, yêu thương chúng ta, đã tự mình đi vào thực tại của lịch sử của chúng ta. Ngài đã thông truyền chính mình đến nỗi trở nên nhập thể. Vì vậy, Thiên Chúa là một thực tại của cuộc sống chúng ta, Ngài quá tuyệt vời đến nỗi Ngài thậm chí có thì giờ cho chúng ta, chăm sóc chúng ta. Trong Chúa Giêsu thành Nazareth, chúng ta gặp gỡ dung nhan của Thiên Chúa, Đấng từ Trời xuống để lặn ngụp trong thế giới loài người, trong thế giới của chúng ta, và dạy chúng ta “nghệ thuật sống”, con đường đi đến hạnh phúc, để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và làm cho chúng ta thành con cái Thiên Chúa (x. Ephesians 1:5; Romans 8:14). Chúa Giêsu đã đến để cứu chúng ta và chỉ cho chúng ta cuộc sống tốt đẹp của Tin Mừng.
Nói về Thiên Chúa trước hết có nghĩa là biết rõ ràng về những gì chúng ta phải mang đến cho những người nam nữ của thời đại chúng ta: Ngài không phải là một Thiên Chúa trừu tượng, một giả thuyết, nhưng một Thiên Chúa cụ thể, một Thiên Chúa có thật, đã đi vào lịch sử và hiện diện trong lịch sử, Thiên Chúa của Đức Chúa Giêsu Kitô, như là câu trả lời cho câu hỏi cơ bản về lý do tại sao và làm thế nào để sống. Vì vậy, để nói về Thiên Chúa đòi hỏi một sự quen thuộc với Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, đòi hỏi một sự hiểu biết cá nhân về Thiên Chúa và một đam mê thực sự để sống kế hoạch cứu độ của Ngài, không chiều theo cám dỗ về thành công, nhưng theo phương pháp của chính Thiên Chú. Phương pháp của Thiên Chúa là phương pháp khiêm nhường: Thiên Chúa đã trở thành một người trong chúng ta; đó là phương pháp được thể hiện trong việc nhập thể, trong ngôi nhà đơn sơ ở Nazareth và trong hang đá ở Bethlehem, phương pháp hạt cải. Chung ta đừng sợ sự khiêm tốn của những bước nhỏ, và tin tưởng ở nấm men lan dần trong bột từ từ làm nó dậy lên cách mầu nhiệm (x. Matthew 13:33). Để nói về Thiên Chúa trong công việc Phúc Âm hóa, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần phục hồi sự đơn giản, cần trở lại với yếu tố thiết yếu của lời loan báo: Tin Mừng về một Thiên Chúa, Đấng là có thật và cụ thể, một Thiên Chúa quan tâm đến chúng ta, một Thiên Chúa Tình Yêu đã đến gần chúng ta trong Đức Chúa Giêsu Kitô cho đến tận Thánh Giá, và là Đấng trong việc Phục Sinh của Người ban cho chúng ta niềm hy vọng và mở ra cho chúng ta một đời sống vĩnh cửu, sự sống đời đời, sự sống thật. Nhà truyền thông biệt tài là Thánh Phaolô cho chúng ta một bài học đi thẳng vào trung tâm của đức tin, của câu hỏi về việc biết “làm sao để nói về Thiên Chúa” với sự đơn giản tuyệt vời. Ngài đã viết trong Thư Thứ Nhất gửi tín hữu Côrinthô: “Đối với tôi, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hấp dẫn hay kiến thức cao siêu để loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì khi còn ở với anh em, tôi đã quyết tâm không biết gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Ðấng chịu đóng đinh“ (2, 1-2). Như thế thực tại thứ nhất là Thánh Phaolô không nói về một triết lý mà ngài đã tự mình khai triển, ngài không nói về những tư tưởng được tìm thấy ở nơi khác hoặc được sáng chế, nhưng nói về một thực tại của đời sống của ngài, nói về Thiên Chúa đã đi vào đời sống của ngài, nói về một Thiên Chúa thật hằng sống, đã nói với thánh nhân và sẽ nói với chúng ta, ngài nói về Đức Kitô Chịu Đóng Đinh và Đã Sống Lại. Thực tại thứ hai là Thánh Phaolô không vụ lợi, không muốn tạo ra một nhóm đông người hâm mộ mình, không muốn đi vào lịch sử như thủ lãnh một trường phái có những kiến thức vĩ đại, không tìm danh lợ, nhưng Thánh Phaolô rao giảng Đức Kitô và muốn đưa mọi người về với Thiên Chúa chân thật và có thật. Thánh Phaolô chỉ nói với một lòng ao ước rao giảng Đấng đã đi vào cuộc đời ngài và Đấng là sự sống thật, là Đấng đã chinh phục được ngài trên đường đi Đamascô. Vì vậy, nói về Thiên Chúa có nghĩa là dành chỗ cho Đấng đã tỏ cho chúng ta biết Ngài, Đấng đã tỏ lộ dung nhan yêu thương của Ngài. Điều này có nghĩa là ra khỏi chính cái tôi của mình bằng cách dâng nó cho Đức Kitô, trong khi ý thức rằng chúng ta không phải là những người có thể đưanhững người khác về cho Thiên Chúa, nhưng phải chờ họ từ chính Thiên Chúa, phải cầu cho họ từ Ngài. Như thế việc nói về Thiên Chúa luôn phát sinh từ việc lắng nghe Ngài, từ sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa được thực hiện trong việc quen thuộc với Ngài, trong đời sống cầu nguyện và theo các Giới Răn.
Đối với Thánh Phaolô, thông truyền đức tin không có nghĩa là tự khoe mình, nhưng nói một cách cởi mở và công khai về những gì ngài đã thấy và đã nghe trong cuộc gặp gỡ Đức Kitô, những gì ngài đã kinh nghiệm trong cuộc đời của ngài, là cuộc đời đã được biến đổi từ ngày đó bởi cuộc gặp gỡ này: nghĩa là kể lại về Chúa Giêsu là Đấng mà ngài cảm thấy hiện diện nơi mình và đã trở thành hướng đi thực sự của cuộc đời ngài, để làm cho mọi người hiểu rõ rằng Người thật sự cần thiết cho thế gian và quyết định cho sự tự do của mọi người. Thánh Tông Đồ không hài lòng với việc chỉ rao giảng bằng lời, nhưng gói ghém toàn thể cuộc đời ngài trong công trình cả thể của đức tin. Để nói về Thiên Chúa, chúng ta phải dành chỗ cho Ngài, trong niềm tin tưởng rằng Ngài hành động trong sự yếu đuối của chúng ta: dành chỗ cho Ngài mà không sợ hãi, với lòng đơn sơ và niềm vui, trong niềm xác tín sâu xa rằng chúng ta càng đặt Ngài, chứ không đặt mình, ở trung tâm bao nhiêu, thì việc truyền thông sẽ càng có hiệu quả bấy nhiêu. Điều này cũng đúng cho các cộng đoàn Kitô hữu: các cộng đoàn này được mời gọi để chứng tỏ tác động biến đổi của ân sủng của Thiên Chúa, bằng cách thắng vượt cá nhân chủ nghiã, sự đóng cửa lòng, tính ích kỷ, sự thờ ơ và bằng cách sống tình yêu của Thiên Chúa trong các liên hệ hàng ngày của họ. Chúng ta có tự hỏi rằng các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta có thực sự giồng như thế không? Chúng ta cần phải cất bước lên đường để luôn luôn và thực sự trở thành những người rao giảng về Đức Kitô chứ không rao giảng về mình.
Ở điểm này, chúng ta phải tự hỏi rằng chính Chúa Giêsu đã truyền đạt thế nào. Chúa Giêsu trong địa vị độc đáo của Người, nói về Cha của Người là Abba – và về Nước Thiên Chúa, với đôi mắt đầy lòng nhân từ đối với những phiền muộn và khó khăn của cuộc sống con người. Người nói một cách rất hiện thực và, tôi dám nói, điều chính yếu của lời loan báo của Chúa Giêsu là làm cho chúng ta biết rõ ràng rằng thế giới và đời sống của chúng ta có gía trị đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu chứng tỏ rằng dung nhan của Thiên Chúa được tỏ lộ trong thế giới và trong việc tạo dựng, và Người cũng cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa hiện diện trong những biến cố của đời sống thường nhật của chúng ta như thế nào. Điều này đúng cả trong những dụ ngôn về thiên nhiên, về hạt cải, về cánh đồng với nhiều hạt giống khác nhau, lẫn trong đời sống chúng ta, như trong các dụ ngôn người con hoang đàng, ông Lazarus và các dụ ngôn khác của Chúa Giêsu. Từ các sách Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu quan tâm đến mọi hoàn cảnh của nhân loại mà Người gặp như thế nào, Người lặn ngụp trong thực tại của những người nam nữ ở thời đại của Người, với một lòng tín thác hoàn toàn vào sự trợ giúp của Chúa Cha. Thiên Chúa hiện diện thực sự trong lịch sử một cách tàng ẩn, và chúng ta có thể gặp Ngài nếu chúng ta để tâm. Và các môn đệ, là những người sống với Chúa Giêsu, đám đông là những kẻ gặp Người, xem cách Người phản ứng với những vấn đề khác nhau, họ thấy Người nói năng thế nào, cư xử ra sao, và họ thấy trong Người hoạt động của Chúa Thánh Thần, hoạt động của Thiên Chúa. Trong Người lời rao giảng và cách sống đi đôi với nhau: Chúa Giêsu hoạt động và giảng dạy, luôn luôn bắt đầu từ một mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa Cha. Cách này trở thành một biểu thị cần thiết cho chúng ta, là những Kitô hữu: cách chúng ta sống trong đức tin và đức ái trở thành một cách nói về Thiên Chúa thởi nay, bởi vì nó cho thấy rằng, với một cuộc đời sống trong Đức Kitô, sự đáng tin cậy, sự hiện thực của những gì chúng ta nói bằng lời nói, không còn chỉ là lời nói, nhưng cho thấy thực tại, thực tại thật sự. Và trong điều này, chúng ta phải cẩn thận đọc các dấu chỉ của thời đại mình, đó là, phân biệt các tiềm năng, các ước muốn, và các trở ngại mà chúng ta đang gặp trong nền văn hóa hiện đại, đặc biệt là lòng ước muốn sự chân thực, lòng khao khát sự siêu việt, sự nhạy cảm đối với việc bảo vệ các tạo vật, và truyền thông mà không sợ hãi câu trả lời được đức tin vào Thiên Chúa cung cấp. Năm Đức tin là một cơ hội để khám phá những con đường mới ở mức độ cá nhân và cộng đoàn, với óc tưởng tượng của chúng ta được sinh động hóa bởi Chúa Thánh Thần, để rồi ở khắp nơi quyền năng của Tin Mừng thành sự khôn ngoan của đời sống và hướng đi của cuộc đời.
Trong thời đại chúng ta cũng thế, có một nơi đặc biệt để nói về Thiên Chúa là gia đình, trường học đầu tiên cho việc truyền đạt đức tin cho các thế hệ mới. Công đồng Vaticanô II nói về cha mẹ như là những sứ giả đầu tiên của Thiên Chúa (x. Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 11; Sắc Lệnh Apostolicam Actuositatem, 11.), được mời gọi tái khám phá sứ mệnh của mình, gánh trách nhiệm trong việc giáo dục, trong việc mở lương tâm của những trẻ nhỏ cho tình yêu của Thiên Chúa, như là những giáo lý viên và thầy cô dạy đức tin đầu tiên cho con cái của mình. Và trong nhiệm vụ này, điều quan trọng hàng đầu là tỉnh táo, nghĩa là biết nắm lấy những cơ hội thuận tiện để đưa vào gia đình những buổi nói chuyện về đức tin và để giúp con cái trưởng thành trong việc suy nghĩ có phán đoán về nhiều cách thức điều kiện hóa mà con cái phải chịu. Sự chú ý này của cha mẹ cũng có nghĩa là nhạy cảm trong việc nhận ra những thắc mắc về tôn giáo có thể có trong tâm trí con em, đôi khi hiển nhiên, đôi khi tiềm ẩn. Kế đến là niềm vui: việc thông truyền đức tin phải luôn có một âm điệu vui tươi. Đó là niềm vui Phục Sinh, là niềm vui không im lặng cũng không che đậy những thực tại đau đớn, khổ sở, cực nhọc, khó khăn, hiểu lầm, và chính cái chết, nhưng có thể cung cấp các tiêu chuẩn để giải thích tất cả mọi sự theo quan điểm của niềm hy vọng Kitô giáo. Cuộc sống tốt đẹp của Tin Mừng chính là cái nhìn mới này, khả năng này để nhìn thấy mọi hoàn cảnh với đôi mắt của Thiên Chúa. Điều quan trọng là giúp tất cả tất cả các phần tử của gia đình hiểu rằng đức tin không phải là một gánh nặng nhưng là một nguồn vui sâu xa, nó có nghĩa là cảm nhận được hoạt động của Thiên Chúa, nhận ra sự hiện diện của điều tốt lành, mà không làm ồn ào; và nó cung cấp những hướng đi có giá trị để sống cuộc đời của mình một cách tốt đẹp. Cuối cùng, khả năng lắng nghe và đối thoại: gia đình phải là một môi trường trong đó chúng ta học chung sống bên nhau, hòa giải những xung đột trong cuộc đối thoại hỗ tương, là cuộc đối thoại tạo ra bởi việc lắng nghe và bằng lời nói, để hiểu hiểu nhau và yêu thương nhau, để thành dấu chỉ của tình yêu đầy thương xót của Thiên Chúa cho nhau.
Như thế, nói về Thiên Chúa có nghĩa là chứng tỏ qua lời nói và đời sống rằng Thiên Chúa không phải là một Đấng đi đôi với cuộc sống của chúng ta, nhưng trái lại là Đấng đảm bảo thật của nó, Đấng đảm bảo cho sự cao cả của con người. Vậy, chúng ta trở lại lúc đầu: nói về Thiên Chúa có nghĩa là truyền thông bằng sức mạnh và sự đơn giản, bằng lời nói và đời sống của chúng ta, điều thiết yếu là: Thiên Chúa của Đức Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy một tình yêu quá cao cả đến nỗi nhập thể, chết và sống lại cho chúng ta. Thiên Chúa này đòi hỏi chúng ta theo Ngài và để cho mình được tình yêu bao la của Ngài biến đổi, ngõ hầu canh tân cuộc đời chúng ta và những mối quan hệ của chúng ta. Thiên Chúa này đã ban cho chúng ta Hội Thánh, để chúng ta cùng bước với nhau, và qua Lời Chúa cùng các Bí tích, đổi mới toàn thể Thành của loài ngưởi, để nó có thể trở thành Thành của Thiên Chúa.
Bài Giáo Lý VIII của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Thiên Chúa Măc Khải “Kế Hoạch Yêu Thương Nhân Lành” “Thiên Chúa mặc khải kế hoạch yêu thương cao cả của Ngài bằng cách bước vào sự liên hệ với loài người, lại gần họ đến nỗi trở thành một người.”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ tám của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 5 tháng 12, 2012. Hôm nay ĐTC dạy tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Ở đầu thư gửi tín hữu Êphêsô (x 1:3-14) Thánh Tông Đồ Phaolô đưa ra một kinh nguyện chúc tụng Thiên Chúa, Cha của Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngài đưa chúng ta vào sống Mùa Vọng trong bối cảnh của Năm Đức Tin. Chủ đề của bài thánh thi ngợi khen này là kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người, được xác định bằng những thuật ngữ đầy vui mừng, kinh ngạc và tri ân, như một “Kế hoạch Yêu Thương Nhân Lành” (câu 9), của lòng thương xót và tình yêu.
Tại sao Thánh Tông Đồ lại cầu nguyện với Thiên Chúa từ tận đáy lòng mình bằng lời chúc tụng này? Bởi vì ngài chiêm ngắm hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, đạt đến tột đỉnh trong sự Nhập Thể, Cái Chết và Sự Sống Lại của Chúa Giêsu, và chiêm niệm việc Cha Trên Trởi đã chọn chúng ta trước khi tạo thành vũ trụ, để trở nên dưỡng tử, trong Con Một của Ngài, là Đức Chúa Giêsu Kitô (x. Romans 8:14; Galatians 4:4tt). Chúng ta đã có trong tâm trí của Thiên Chúa từ thuở đời đời, trong một kế hoạch cả thể mà Thiên Chúa đã giữ riêng cho Ngài và đã quyết định thực hiện và mặc khải “vào thời viên mãn” (x. Ephesians 1:10). Như thế, Thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu làm sao tất cả tạo vật, và đặc biệt là những người nam nữ không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên, nhưng là của việc thực hiện một kế hoạch yêu thương của lý trí vĩnh cửu của Thiên Chúa, là Đấng, với quyền năng sáng tạo và cứu độ của Lời Ngài, đã tạo thành vũ trụ. Lời xác quyết đầu tiên này nhắc nhở chúng ta rằng ơn gọi của chúng ta không chỉ đơn thuần là sống trên thế gian, được bao gồm trong một lịch sử, hoặc chỉ là một tạo vật của Thiên Chúa; nhưng là một cái gì cao quý hơn: đó là được Thiên Chúa chọn, ngay cả trước khi tạo thành vũ trụ, trong Chúa Con, là Đức Chúa Giêsu Kitô. Như thế trong Người chúng ta đã hiện hữu, có thể nói là từ muôn thủa. Thiên Chúa nhìn ngắm chúng ta trong Đức Kitô, như những nghĩa tử. “Kế hoạch nhân lành” của Thiên Chúa được Thánh Tông Đồ xác định là một “kế hoạch yêu thương” (Ephesians 1:5), được gọi là “mầu nhiệm” của Thánh Ý Thiên Chúa (câu 9), được che giấu và giờ đây được tỏ lộ trong Con Người và việc làm của Đức Kitô. Sáng kiến của Thiên Chúa đi trước bất kỳ đáp ứng nào của con người: đó là một món quà nhưng không của tình yêu Ngài, là tình yêu bao bọc và biến đổi chúng ta.
Nhưng mục tiêu cuối cùng của kế hoạch mầu nhiệm này là gì? Trọng tâm của Thánh Ý của Thiên Chúa là gì? Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng là để “kết hợp mọi sự dưới một Thủ Lãnh duy nhất, là Đức Kitô” (câu 10). Trong cách diễn tả này, chúng ta tìm thấy một trong những công thức chính của Tân Ước giúp chúng ta hiểu được kế hoạch của Thiên Chúa, kế hoạch yêu thương của Ngài dành cho toàn thể nhân loại, một công thức mà Thánh Irenê thành Lyon, trong thế kỷ thứ hai, đã đặt làm cốt lõi của Kitô học của ngài: “thâu tóm” toàn thể thực tại trong Đức Kitô. Có lẽ một số anh chị em nhớ công thức được sử dụng bởi Đức Thánh Giáo Hoàng Piô X để thánh hiến thế giới cho Thánh Tâm Chúa Giêsu: “Instaurare omnia in Christo (phục hồi mọi sự trong Đức Kitô)”, một công thức có liên quan đến cách diễn tả này của Thánh Phaolô, và nó cũng là phương châm của vị Thánh Giáo Hoàng này. Tuy nhiên, Thánh Tông Đồ nói một cách cụ thể hơn về việc thâu tóm vũ trụ trong Đức Kitô, và điều này có nghĩa rằng, trong chương trình cả thể của việc tạo dựng và của lịch sử, Đức Kitô đứng như trung tâm của cuộc hành trình của toàn thế giới, như trục gánh đỡ tất cả, thu hút toàn bộ thực tại về Mình, để thắng vượt sự phân tán và những giới hạn, cùng dẫn tất cả đến sự viên mãn mà Thiên Chúa mong muốn (x. Ephesians 1:23).
Có thể nói rằng “Kế hoạch yêu thương nhân lành” đã không ở mãi trong sự thinh lặng của Thiên Chúa, ở thượng giới của Thiên Đàng của Ngài, nhưng Ngài đã làm cho chúng ta biết đến nó bằng cách bước vào một liên hệ với con người, là những kẻ mà Ngài đã không những chỉ tiết lộ một điều gì đó, nhưng Chính Ngài. Ngài không chỉ đơn thuần truyền đạt một mớ chân lý, nhưng tự thông truyền Chính Mình cho chúng ta, đến độ làm một người trong chúng ta, trở thành Nhập Thể. Công Đồng Chung Vaticanô II trong Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum nói, “Trong sự tốt lành và khôn ngoan của Ngài, Thiên Chúa đã chọn tỏ lộ Chính Mình, chứ không phải chỉ một điều gì đó về Mình, và làm cho chúng ta biết mầu nhiệm Thánh Ý của Ngài, là nhờ Đức Kitô, Ngôi Lời làm người, mà con người có thể đến cùng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần và do đó trở thành những người thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (số 2). Thiên Chúa không chỉ nói điều gì đó, nhưng Ngài tự truyền thông Chính Mình, lôi kéo chúng ta vào bản tính Thiên Chúa để chúng ta được tham gia vào bản tính ấy, được trở nên thần thánh. Thiên Chúa mặc khải kế hoạch yêu thương cao cả của Ngài bằng cách bước vào sự liên hệ với loài người, lại gần họ đến nỗi trở thành một người. Công Đồng nói tiếp: “Thiên Chúa vô hình (x. Colossians 1:15 ; 1 Timothy 1:17) trong sự phong phú của tình yêu Ngài nói với con người như bạn hữu (x. Xh 33:11, Ga 15:14-15) và sống giữa họ (x. Baruch 3:38) để mời họ và đón nhận họ vào sự hiệp thông với Ngài” (ibid.). Chỉ với trí thông minh và khả năng của mình con người không thể đạt đến sự mặc khải rõ ràng như thế về tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa, là Đấng đã mở Thiên Đàng của Ngài và hạ Mình xuống để đưa con người vào vực thẳm của tình yêu Ngài.
Thánh Phaolô cũng viết cho các tín hữu thành Côrintô: “Điều mà mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa hề nghĩ đến, là điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa.” (2:9-10). Thánh Gioan Kim Khẩu, trong một trang thời danh chú giải phần đầu của Thư gửi tín hữu Êphêsô, mời chúng ta thưởng thức tất vẻ đẹp của “kế hoạch yêu thương nhân lành” này của Thiên Chúa được mặc khải trong Đức Kitô, bằng những lời này: “Bạn còn thiếu gì? Bạn đã trở nên bất tử, bạn đã trở nên tự do, bạn đã trở nên một người con, bạn đã trở nên công chính, bạn đã trở nên em, bạn đã trở nên một người đồng thừa tự, với Đức Kitô bạn cai trị, với Đức Kitô bạn được vinh quang. Mọi sự đã được ban cho chúng ta, và như có lời chép rằng, làm sao Ngài (Thiên Chúa) lại sẽ không ban mọi sự cho chúng ta với Người?” (Romans 8:32. Những của lễ đầu mùa của bạn (x. 1 Cr 15:20,23) được các thiên thần trang điểm [...]: vậy bạn còn thiếu gì?” (PG 62,11)
Sự hiệp thông này trong Đức Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người với ánh sáng của Mặc Khải, không phải là một cái gì có thể chồng lên trên nhân tính của chúng ta, nhưng là việc thỏa mãn những khát vọng sâu thẳm nhất của con người, ước mong sự vô hạn và sự viên mãn ở tận đáy lòng con người, và mở lòng họ ra cho một hạnh phúc, không phải tạm bợ và bị hạn chế, nhưng đời đời. Thánh Bonaventura, khi đề cập đến Thiên Chúa, Đấng tỏ Mình ra và nói với chúng ta qua Thánh Kinh để dẫn chúng ta đến với Ngài, nói như sau: “Thánh Kinh là [...] cuốn sách mà trong đó viết những lời về sự sống đời đời để chúng ta không những chỉ tin, nhưng cũng chiếm hữu được sự sống đời đời, trong đó chúng ta sẽ thấy, chúng ta sẽ yêu mến và tất cả những mong ước của chúng ta sẽ được thực hiện” (Breviloqum, Prol. ; Opera Omnia v, 201s). Cuối cùng, Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc lại rằng “Mặc khải đặt vào trong lịch sử một điểm tham chiếu mà chúng ta không thể coi thường nếu chúng ta muốn biết mầu nhiệm về đời sống con người. Nhưng sự hiểu biết này lại liên tục quy chiếu về mầu nhiệm của Thiên Chúa, là điều trí tuệ không thể hiểu thấu, mà chỉ có thể cảm nhận và đón nhận được trong đức tin” (Thông điệp Fides et Ratio, 14).
Vậy, theo quan điểm này thì hành vi đức tin là gì? Nó là sự đáp trả của con người đối với Mặc Khải của Thiên Chúa, Đấng tỏ Mình ra, Đấng bày tỏ kế hoạch nhân từ của Ngài cho nhân loại. Nghĩa là, như mượn cách diễn tả của Thánh Augustinô, chúng ta hãy cứ để cho Chân Lý là Thiên Chúa nắm bắt lấy mình, một Chân Lý là Tình Yêu. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng Thiên Chúa, Đấng đã mặc khải mầu nhiệm của Ngài, chúng ta phải “vâng phục của đức tin” (Romans 16:26; 1,5; 2 Corinthians 10:5-6), thái độ mà qua đó “con người tự do phó thác toàn thân cho Ngài, dâng lên Thiên Chúa, là Đấng mặc khải, sự tuân phục hoàn toàn của cả lý trí lẫn ý chí của mình” (Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 5). Tất cả những điều này dẫn đến một sự thay đổi cơ bản trong cách chúng ta liên hệ với toàn bộ thực tại; tất cả mọi sự xuất hiện trong một ánh sáng mới, do đó nó là một sự “hoán cải” thật sự, đức tin là một “sự thay đổi não trạng” bởi vì Thiên Chúa, Đấng đã tự tỏ Mình ra trong Đức Kitô, và đã tỏ cho chúng ta biết chương trình yêu thương của Ngài, bắt được chúng ta, lôi kéo chúng ta lại với chính Ngài, trở nên ý nghĩa nâng đỡ cuộc sống, đá tảng trên đó nó có thể tìm thấy sự ổn định. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy một cách diễn tả súc tích về đức tin, rằng Thiên Chúa trao phó cho ngôn sứ Isaia phải truyền thông cho Aha, vua Giuđa. Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không tin – nghĩa là, nếu ngươi không tiếp tục trung thành với Thiên Chúa – ngươi sẽ không đứng vững được” (Isaiah 7:9 b). Cho nên, có một sự liên kết giữa việc sống và sự hiểu biết, là điều được diễn tả làm sao đức tin là một sự đón nhận vào cuộc đời mình quan điểm của Thiên Chúa về thực tại, để cho Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta qua Lời và các Bí tích của Ngài, ngõ hầu hiểu được chúng ta phải làm gì, và phải theo con đường nào, phải sống cách nào. Tuy nhiên, đồng thời, nó là sự hiểu biết theo Thiên Chúa, nhìn với đôi mắt của Ngài, là điều làm cho cuộc đời được vững chắc, cho phép chúng ta “tiếp tục đứng”, mà không ngã.
Các bạn thân mến, Mùa Vọng, mùa phụng vụ mà chúng ta mới vừa bắt đầu và chuẩn bị chúng ta cho Lễ Giáng sinh, đặt trước mặt chúng ta một mầu nhiệm ánh sáng của việc Con Thiên Chúa đến, trước “Kế hoạch nhân lành” cao cả mà Ngài muốn thu hút chúng ta đến với Ngài, để làm cho chúng ta sống trong sự hiệp thông trọn vẹn của niềm vui và sự bình an với Ngài. Mùa Vọng một lần nữa mời gọi chúng ta, giữa nhiều khó khăn, để nhắc lại sự đảm bảo rằng Thiên Chúa hiện diện: Ngài đi vào thế gian, trở nên một con người như chúng ta, để mang kế hoạch yêu thương của Ngài đến hoàn thành. Và Thiên Chúa cũng yêu cầu chúng ta trở nên một dấu chỉ của hành động của Ngài trên thế gian. Qua đức tin, đức cậy và đức mến của chúng ta, Ngài muốn bước vào thế gian một lần nữa, để ánh sáng của Ngài lại chiếu tỏa trong đêm đen của chúng ta.
Bài Giáo Lý IX của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Những Giai Đoạn Mặc Khải “Nơi Chúa Giêsu thành Nadareth, Thiên Chúa biểu lộ dung nhan của Ngài và yêu cầu con người quyết định nhận ra Người và làm theo Người”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ chín của ĐTC Bênêđictô IX về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 12 tháng 12, 2012. Hôm nay ĐTC dạy tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý trước, tôi đã nói về sự Mặc Khải của Thiên Chúa, như Ngài đã truyền thông về Chính Ngài và về kế hoạch yêu thương nhân lành của Ngài. Sự Mặc Khải này của Thiên Chúa được ghi khắc trong thời gian và lịch sử nhân loại: một lịch sử trở thành “nơi mà chúng ta có thể nhận thấy hành động của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài gặp gỡ chúng ta trong những gì quen thuộc nhất và dễ dàng xác minh nhất đối với chúng ta vì nó tạo thành cảnh sống hàng ngày của chúng ta, mà không có nó, chúng ta không thể hiểu được” (Gioan Phaolô II, TĐ Fides Et ratio, số 12).
Thánh sử Marcô, như chúng ta đã nghe, tường trình, bằng những thuật ngữ rõ ràng và tổng hợp, việc rao giảng của Chúa Giêsu, “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại T
hiên Chúa đã gần” (Mc 1:15). Đấng soi sáng và cung cấp ý nghĩa trọn vẹn cho lịch sử thế giới và nhân loại bắt đầu tỏa sáng trong hang đá Bethlehem; đó là mầu nhiệm mà chúng ta chiêm ngưỡng ở đây trong dịp lễ Giáng sinh: ơn cứu độ được thực hiện nơi Đức Chúa
Giêsu Kitô. Nơi Chúa Giêsu thành Nadareth, Thiên Chúa biểu lộ dung nhan của Ngài và yêu cầu con người quyết định nhận ra Người và làm theo Người. Sự Măc Khải của Thiên Chúa trong lịch sử để đi vào một mối liên hệ đối thoại yêu thương với con người, ban tặng một ý nghĩa mới cho toàn thể cuộc hành trình của nhân loại. Lịch sử không chỉ đơn thuần là một sự nối tiếp của nhiều thế kỷ, của những tháng năm và những ngày, nhưng là thời gian của một sự hiện diện cung cấp cho cho nó trọn vẹn ý nghĩa và mở ra một niềm hy vọng vững chắc.
Chúng ta có thể đọc những giai đoạn Mặc Khải này của Thiên Chúa ở đâu? Thánh Kinh là nơi đặc quyền để khám phá những biến cố của cuộc hành trình này mà tôi muốn một lần nữa mời mỗi người, trong Năm Đức Tin này, thường xuyên hơn cầm sách Thánh Kinh trong tay để đọc và suy niệm cùng chú ý nhiều hơn đến các bài đọc của Thánh Lễ Chúa Nhật, tất cả điều này tạo thành một lương thực quý giá cho đức tin của chúng ta.
Khi đọc Cựu Ước, chúng ta có thể thấy rằng những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử của dân mà Ngài đã tuyển chọn và với dân ấy Ngài đã thiết lập một giao ước, không phải là những sự kiện đã qua và rơi vào quên lãng, nhưng chúng trở thành “kỷ niệm” (hay “ký ức”), chúng tạo thành “lịch sử cứu độ”, được duy trì một cách sống động trong ý thức của dân Israel qua việc cử hành những biến cố cứu độ. Như vậy, trong Sách Xuất Hành, Chúa truyền cho ông Môsê cử hành giây phút giải phóng cả thể khỏi ách nô lệ Ai Cập, lễ Vượt Qua, với những lời này: “Ngày này đối với các ngươi sẽ là ngày tưởng niệm; và các ngươi hãy giữ làm ngày lễ cho Đức Chúa qua mọi thời đại, các ngươi sẽ giữ lễ này như một lề luật cho đến muôn đời” (Xh 12:14). Đối với toàn thể dân Israel, việc nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm trở thành một loại mệnh lệnh liên tục ngõ hầu thời gian đã qua được đánh dấu bởi kỷ niệm sống động về những biến cố trong quá khứ, mà do đó, ngày qua ngày, một lần nữa hình thành lịch sử và vẫn còn hiện diện. Trong sách Đệ Nhị Luật, ông Môsê nói với dân chúng rằng: “Anh em đừng quên những điều mà mắt anh em đã thấy, và mọi ngày trong đời anh em, đừng để chúng rời xa tâm hồn anh em, cùng dạy cho các con cháu anh em.” (4:9). Và do đó, ông cũng nói với chúng ta rằng “đừng quên những điều mà Thiên Chúa đã thực hiện với chúng ta.” Đức tin được nuôi dưỡng bởi việc khám phá và kỷ niệm về Thiên Chúa luôn trung tín, Đấng hướng dẫn lịch sử và tạo dựng nền tảng chắc chắn và ổn định mà trên đó cuộc sống của chúng ta dựa vào. Kinh Ngợi Khen (Magnificat), mà Đức Trinh Nữ Maria dâng lên Thiên Chúa, cũng là một thí dụ rất cao quý của lịch sử cứu độ này, của kỷ niệm này, là điều bảo tồn và giữ cho hành động của Thiên Chúa được hiện diện. Đức Maria chúc tụng hành động thương xót của Thiên Chúa trên hành trình cụ thể của dân Ngài, lòng trung thành với những lời hứa của giao ước mà Ngài đã thiết lập với ông Abraham và con cháu ông; và tất cả những điều ấy là ký ức sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa là điều không bao giờ phai mờ (x. Lc 1:46-55).
Đối với dân Israel, Xuất Hành là biến cố lịch sử chính yếu mà trong đó Thiên Chúa tỏ bày hành động quyền năng của Ngài. Thiên Chúa đã giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập để họ có thể trở về Đất Hứa và tôn thờ Ngài như Thiên Chúa chân thật và duy nhất, dân Israel không lên đường để trở thành một dân tộc như các dân tộc khác, để cũng có cho Ngài một dân tộc độc lập, nhưng để phục vụ Thiên Chúa trong việc thờ phượng và trong cuộc sống, để tạo ra cho Thiên Chúa một nơi mà con người sống trong sự vâng phục Ngài, nơi mà Thiên Chúa hiện diện và được tôn thờ trên thế gian; và đương nhiên, không chỉ cho họ, nhưng để làm chứng cho các dân tộc khác. Việc cử hành biến cố này có nghĩa là làm cho Ngài hiện diện và thực sự, ngõ hầu công trình của Thiên Chúa không bị thất bại. Ngài trung thành với kế hoạch giải phóng của Ngài và tiếp tục theo đuổi nó để con người có thể nhận biết và phục vụ Chúa mình cùng đáp lại hành động của Ngài bằng đức tin và đức mến.
Như thế Thiên Chúa mặc khải chính Ngài không những chỉ trong hành động nguyên thủy của việc tạo dựng, mà còn bằng cách đi vào lịch sử của chúng ta, vào lịch sử của một dân tộc nhỏ bé, không phải là dân tộc đông người nhất, cũng không mạnh mẽ nhất. Và sự Mặc Khải này của Thiên Chúa, được tiếp tục trong lịch sử, đạt đến tột đỉnh nơi Đức Chúa Giêsu Kitô: Thiên Chúa, là Ngôi Lời(Logos), Lời tạo dựng là nguồn gốc của thế giới, đã nhập thể trong Chúa Giêsu và tỏ cho thấy dung nhan thật sự của Thiên Chúa. Nơi Chúa Giêsu tất cả các lời hứa được thực hiện, nơi Người, lịch sử về Thiên Chúa với nhân loại đạt đến tột đỉnh. Khi chúng ta đọc câu chuyện về hai môn đệ trên đường Emmaus, được Thánh Luca kể lại, chúng ta thấy rõ ràng rằng con người của Đức Kitô làm sáng tỏ Cựu Ước cùng toàn thể lịch sử cứu độ và cho thấy chương trình hợp nhất tuyệt vời giữa hai Giao Ước, cho thấy tính độc đáo của nó. Thực ra, Chúa Giêsu giải thích cho hai người lữ khách bị mất mát và thất vọng rằng Người là sự hoàn thành của tất cả các lời hứa: “Và, bắt đầu từông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (24:27). Thánh sử tường trình lời thốt lên của hai môn đệ sau khi đã nhận ra người đồng hành trong cuộc hành trình chính là Chúa: “Tâm hồn chúng ta đã không rạo rực khi Người đàm luận với chúng ta dọc đường và giải thích Thánh Kinh cho chúng ta sao?” (v. 32).
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo tóm lược các giai đoạn Mặc Khải của Thiên Chúa bằng cách cho thấy một cách tổng hợp sự phát triển của nó (x. số 54-64): Thiên Chúa đã mời gọi con người ngày từ ban đầu để hiệp thông một cách mật thiết với Ngài, ngay cả khi con người, vì sự bất phục tùng của họ, đã đánh mất tình bằng hữu của Ngài, Thiên Chúa đã không bỏ mặc họ dưới quyền lực của sự chết, nhưng đã nhiều lần ban cho con người giao ước của Ngài (x. Sách Lễ Rôma, Lời Nguyện Thánh Thể IV). Sách Giáo Lý đi lại cuộc hành trình của Thiên Chúa với con người từ giao ước với ông Noe sau trận Đại Hồng Thủy, đến việc kêu gọi ông Abraham rời bỏ quê quán của ông để trở thành tổ phụ của nhiều dân tộc. Thiên Chúa hình thành dân Israel của Ngài qua những biến cố Xuất Hành, giao ước Sinai và món quà Lề Luật, qua trung gian của ông Môsê, để Ngài được công nhận và phục vụ như Thiên Chúa duy nhất chân thật và hằng sống. Với các ngôn sứ, Thiên Chúa hướng dẫn dân Ngài trong niềm hy vọng cứu độ. Qua ngôn sứ Isaia, chúng ta biết về “Cuộc Xuất Hành thứ hai”, việc hồi hương từ cuộc lưu đày ở Babylon về mảnh đất của riêng Ngài, việc tái xây dựng của dân chúng; đồng thời, tuy thế, vẫn còn nhiều người sống trong vô vọng và do đó bắt đầu tính phổ quát của đức tin này. Cuối cùng, người ta không còn chỉ mong đợi một vua, vua Đavid, con vua Đavid, nhưng một “Con Người”, ơn cứu độ của mọi dân tộc. Những cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa, trước hết với Babylon và Syria, rồi với nhiều người Hy Lạp. Như vậy, chúng ta thấy con đường của Thiên Chúa được mở rộng như thế nào, và càng ngày càng mở rộng hơn nữa cho mầu nhiệm của Đức Kitô, Vua Vũ Trụ. Trong Đức Kitô, sự Mặc Khải cuối cùng được thực hiện trong sự viên mãn của nó, là mục đích của lòng nhân lành của Thiên Chúa: Chính Ngài cũng làm một người trong chúng ta.
Tôi xin ngừng lại ở những lời nhắc nhở về hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại, để chứng tỏ những giai đoạn của kế hoạch yêu thương cao cả nảy được chứng tỏ trong Cựu và Tân Ước: một kế hoạch cứu độ duy nhất dành cho toàn thể nhân loại, được mặc khải cách tiệm tiến và được thực hiện bởi quyền năng của Thiên Chúa, ở đó Thiên Chúa luôn đáp ứng với những sự đáp trả của con người. Điều ấy là nền tảng vững chắc của cuộc hành trình đức tin. Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng của năm phụng vụ để chuẩn bị mừng Lễ Giáng sinh. Như tất cả chúng ta đều biết, thuật ngữ “Mùa Vọng” có nghĩa là “đến”, “hiện diện”, và thời xưa ám chỉ cách cụ thể sự xuất hiện của vua hoặc hoàng đế ở một tỉnh được quy định. Đối với chúng ta là những Kitô hữu, thuật ngữ này ám chỉ một thực tại tuyệt vời và sửng sốt: Thiên Chúa rời khỏi Trời Cao của Ngài và cúi xuống trên con người; Ngài đã lập một giao ước với con người bằng cách đi vào lịch sử của một dân tộc; Ngài là vị vua ngự xuống trong tỉnh nghèo nàn này là trái đất, và Ngài đã ban tặng cho chúng ta trong chuyến viếng thăm của Ngài việc mặc lấy xác phàm của chúng ta như một món quà, trở thành một con người như chúng ta. Mùa Vọng mời gọi chúng ta nhớ lại con đường của sự hiện ấy diện và nhắc nhở chúng ta luôn mãi rằng Thiên Chúa đã không rút lui khỏi thế gian, không vắng mặt, không bỏ mặc chúng ta, nhưng đến gặp chúng ta bằng những cách khác nhau, mà chúng ta phải học cách phân biệt. Chúng ta cũng thế, với đức tin, đức cậy và đức mến của mình, chúng ta được mời gọi mỗi ngày tìm kiếm và làm chứng cho sự hiện diện này trong một thế giới thường hời hợt và điên cuồng, cùng làm chiếu tỏa trong cuộc đời chúng ta ánh sáng đã chiếu soi hang đá ở Bethlehem. Cảm ơn.
Bài Giáo Lý X của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Đức Mẹ Maria, Mẫu Gương Vâng Phục của Đức Tin “Vinh quang Thiên Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và sức mạnh của một vị vua, không tỏa sáng trong một thành phố thời danh, nơi cung điện xa hoa, nhưng ngự trong cung lòng của một trinh nữ, tỏ lộ trong sự nghèo nàn của một Hài Nhi.”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 19 tháng 12, 2012. Hôm nay ĐTC dạy tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Trong cuộc hành trình Mùa Vọng, Đức Trinh Nữ Maria chiếm một địa vị đặc biệt như người chờ đợi, một cách duy nhất, việc thể hiện những lời hứa của Thiên Chúa là chấp nhận Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trong đức tin và trong xác phàm, trong sự hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Hôm nay, tôi muốn cùng anh chị em suy niệm một cách vắn tắt về đức tin của Đức Mê Maria từ mầu nhiệm Truyền Tin cao cả.
“ Chaîre kecharitomene, ho Kyrios meta sou”, “Hãy vui lên, Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1: 28). Đó là những lời được Thánh Luca kể lại, qua đó Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel nói cùng Đức Mẹ Maria. Thoáng nhìn, từ chaîre “hãy vui lên,” được coi như một lời chào bình thường, thường được dùng trong thế giới Hy Lạp, nhưng khi đọc trong bối cảnh của truyền thống Thánh Kinh, từ này có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Cùng một từ này xuất hiện bốn lần trong bản Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp và luôn luôn được dùng như lmột lời công bố vui mừng về sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai (x. Xp 3:14, Genesis 2:21; Dcr 9:9, Acts 4:21). Lời Thiên Sứ chào Đức Mẹ Maria là một lời mời vui mừng, một niềm vui cả thể, lời ấy công bố việc chấm dứt nỗi buồn mà thế giới đang phải chịu trước sự giới hạn của cuộc sống, sự đau khổ, cái chết, sự tàn ác và bóng tối của sự dữ, là những điều dường như che khuất ánh sáng của sự tốt lành của Thiên Chúa. Nó là một lời chào đánh dấu sự khởi đầu của Phúc Âm, của Tin Mừng.
Nhưng tại sao Đức Mẹ lại được mời vui mừng theo cách này? Câu trả lời nằm trong phần thứ hai của lời chào: “Chúa ở cùng bà.” Ở đây cũng thế, để hiểu được ý nghĩa của thuật ngữ này, chúng ta phải trở về với Cựu Ước. Trong Sách Xôphônia, chúng ta tìm thấy cách diễn tả này: “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion … Chúa là Vua của Israel đang ở giữa ngươi … Chúa là Thiên Chúa ngươi đang ở giữa ngươi, một Đấng Cứu Thế oai hùng” (3:14-17). Trong những lời này có một lời hứa đôi dành cho dân Israel, cho thiếu nữ Sion: Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế và sẽ ở giữa dân Người, trong cung lòng thiếu nữ Sion. Trong cuộc đối thoại giữa thiên sứ và Đức Mẹ, chính lời hứa này được thể hiện: Đức Mẹ Maria được đồng hóa với dân được kết hôn cùng Thiên Chúa, Mẹ thực sự là hiện thân của thiếu nữ Sion; trong Mẹ sự mong chờ việc đến lần sau hết của Thiên Chúa được thể hiện, trong Mẹ Thiên Chúa hằng sống cư ngụ.
Trong lời chào của thiên sứ, Đức Mẹ Maria được gọi là “Đấng đầy ân sủng”; trong tiếng Hy Lạp, từ “ân sủng”, charis có cùng một căn ngữ như từ “niềm vui”. Trong cách diễn tả này nguồn gốc niềm vui của Đức Mẹ cũng được sáng tỏ thêm: niềm vui đến từ ân sủng, nghĩa là, từ sự hiệp thông với Thiên Chúa, từ việc có một mối liên hệ sống còn với Ngài, từ việc trở nên nơi cư ngụ của Chúa Thánh Thần, từ việc hoàn toàn được hình thành bởi hành động của Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria là tạo vật đã mở rộng cửa với Đấng Tạo Hóa của mình một cách độc nhất vô nhị, Mẹ đã phó thác mình trong tay Ngài, mà không giới hạn. Mẹ sống hoàn toàn bởi và trong mối liên hệ với Chúa; Mẹ sống trong một thái độ lắng nghe, chú tâm nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong cuộc hành trình của dân Ngài; Mẹ được đưa vào một lịch sử đức tin và hy vọng vào lời hứa của Thiên Chúa, là điều tạo thành cơ cấu của cuộc đời Mẹ. Và Mẹ tự ý tuân phục lời Mẹ đã nhận được, tuân phục thánh ý Chúa trong sự vâng phục của đức tin.
Thánh Ký Luca kể lại câu chuyện của Đức Mẹ một cách tương tự tinh tế so với câu chuyện của ông Abraham. Như vị Tổ Phụ vĩ đại là cha của các tín hữu, đã đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa để rời bỏ vùng đất mà ông đang sống, nơi an toàn của ông, để bắt đầu cuộc hành trình dẫn đến một vùng đất mà ông không biết và chỉ được sở hữu bằng lời hứa của Thiên Chúa, cũng thế Đức Mẹ hoàn toàn tín thác vào lời mà sứ giả của Thiên Chúa công bố và trở thành mẫu gương và mẹ của tất cả các tín hữu.
Tôi muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh quan trọng khác: việc mở linh hồn ra với Thiên Chúa và hành động của Ngài trong đức tin cũng bao gồm yếu tố bóng tối. Mối liên hệ của con người với Thiên Chúa không xóa bỏ khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật, không loại bỏ điều mà Thánh Tông Đồ Phaolô xác quyế rằng phải đối mặt với sự sâu thằm của sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Phán quyết của Ngài làm sao mà hiểu cthấu, và đường lối của Ngài làm sao mà dò được!” (Romans 11:33). Nhưng chỉ những người như Đức Mẹ – hoàn toàn mở lòng ra cho Thiên Chúa, có thể chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa, ngay cả khi ý muốn ấy còn bí ẩn, ngay cả khi nó thường không phù hợp với ý riêng của chúng ta và là một lưỡi gươm thâu qua tâm hồn, như ông già Simêôn nói tiên tri với Đức Mẹ khi dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ (Lc 2:35). Cuộc hành trình đức tin của ông Abraham bao gồm giây phút vui mừng vì hồng ân có con trai của ông là ông Isaac, nhưng cũng là thời gian của bóng tối, khi phải lên núi Moria để thực hiện một hành vi nghịch lý: Thiên Chúa đòi ông phải hiến tế đứa con trai mà Ngài mới ban cho ông. Trên núi, thiên sứ ra lệnh cho ông: “Đừng động tay vàođứa trẻ! Đừng làm hại nó! Bây giờ Ta biết rằng ngươi kính sợ Thiên Chúa, vì ngươi đã không tiếc con trai của ngươi, con trai duy nhất của ngươi” (St 22:12); lòng hoàn toàn tin tưởng của ông Abraham vào sự trung thành với lời hứa của Thiên Chúa không thiếu hụt ngay cả khi lời Ngài bí ẩn và khó hiểu, hầu như không thể nào chấp nhận nổi. Với Đức Mẹ Maria cũng thế, đức tin của Mẹ sống niềm vui Truyền Tin, nhưng cũng phải đi qua bóng tối của việc đóng đinh của Con Mẹ, để đạt đến ánh sáng của sự Phục Sinh.
Cuộc hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng giống như thế: chúng ta gặp những giây phút ánh sáng, nhưng chúng ta cũng gặp phải những đoạn đường mà Thiên Chúa dường như vắng mặt, sự im lặng đè nặng tâm hồn chúng ta và ý muốn của Ngài không phù hợp với ý muốn của chúng ta, với điều chúng ta muốn. Nhưng chúng ta càng mở lòng ra cho Thiên Chúa, càng đón nhận món quà đức tin, càng hoàn toàn đặt niềm tin vào Ngài – như ông Abraham và Đức Mẹ – thì Ngài càng làm cho chúng ta có khả năng hơn để sống bất kỳ tình trạng nào cuộc sống trong bình an và sự chắc chắn của lòng trung thín và tình yêu của Ngài, bởi sự hiện diện của Ngài. Nhưng điều đó có nghĩa là đi ra ngoài cái tôi và các dự tính của mình, để Lời Chúa là ánh sáng hướng dẫn những tư tưởng và hành động của mình.
Tôi muốn một lần nữa dừng lại ở một khía cạnh nổi bật trong những câu chuyện về thời thơ ấu của Chúa Giêsu như đã Thánh Luca kể lại. Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse đem con trai của các ngài lên Giêrusalem, lên Đền Thờ để dâng hiến Người cho Chúa theo quy định của Lề Luật Môsê: “Tất cà các con trai đầu lòng phải được thánh hiến cho Chúa” (Lc 2:22-24). Cử chỉ này của Thánh Gia có một ý nghĩa sâu sắc hơn nếu chúng ta đọc trong ánh sáng của sự hiểu biết phúc âm về Chúa Giêsu khi Người lên mười hai tuối, sau ba ngày tìm kiếm, được tìm thấy trong Đền Thờ đàm đạo với các vị thầy (Tiến Sĩ). Để trả lời những lời đầy lo lắng của Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse: “Con ơi, sao con lại đối xử với cha mẹ như thế? Con coi, cha con và mẹ đã lo lắng tìm con!”, Chúa Giêsu nói một cách bí ẩn: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:48-49). Điều đó có nghĩa là, Người như một người con ở nơi mà Chúa Cha sở hữu, ở nhà của Chúa Cha. Mẹ Maria phải canh tân đức tin sâu xa trong đó Mẹ thưa “xin vâng” trong biến cố Truyền Tin; Mẹ phải chấp nhận việc dành ưu tiên cho Cha thật và riêng của Chúa Giêsu; Mẹ phải biết để cho người Con mà Mẹ đã sinh ra được tự do theo đuổi sứ mệnh của Người. Và lời “xin vâng” của Đức Mẹ Maria với Thánh Ý Thiên Chúa, trong sự vâng phục của đức tin, được lặp đi lặp lại trong suốt cuộc đời Mẹ, cho đến giây phút khó khăn nhất, là giây phút của Thánh Giá.
Đối diện với tất cả những điều này, chúng ta có thể tự hỏi: làm thế nào mà Đức Mẹ có thể sống con đường này cùng Con Mẹ với một niềm tin rất mạnh mẽ như thế, ngay cả trong bóng tối mà không mất long hoàn toàn tín thác vào hành động của Thiên Chúa? Có một thái độ cơ bản mà Đức Mẹ Maria áp dụng trước những gì xảy ra trong cuộc đời Mẹ. Trong lúc Truyền Tin, Mẹ bối rối khi nghe những lời của Thiên Sứ, sự sợ hãi mà một người cảm thấy khi được sự gần gũi của Thiên Chúa chạm đến, nhưng không phải là thái độ của những người sợ hãi trước những gì Thiên Chúa có thể đòi hỏi. Đức Mẹ suy nghĩ, Mẹ tự hỏi về ý nghĩa của lời chào này (x. Lc 1:29). Từ Hy Lạp được sử dụng trong Tin Mừng để xác định “sự suy nghĩ” này là “dielogizeto,” nhắc lại gốc của từ “dialogue – đối thoại”. Điều này có nghĩa là Đức Mẹ Maria có một cuộc đối thoại thân mật với Lời của Thiên Chúa đã được công bố, Mẹ không kể đến Lời ấy cách phiến diện, nhưng Mẹ ngừng lại, để cho Lời ấy thấm vào trí khôn và tâm hồn Mẹ ngõ hầu hiểu những gì Chúa muốn từ Mẹ, là ý nghĩa của lời công bố. Chúng ta tìm thấy một lời khác nói về thái độ nội tâm của Đức Mẹ Maria trước hành động của Thiên Chúa, luôn luôn trong Tin Mừng Thánh Luca, khi Chúa Giêsu sinh ra, sau khi các mục đồng thờ phượng. Thánh Luca khẳng định rằng Đức Mẹ Maria “giữtất cả những điều ấy và suy nghĩ trong lòng” (Lc 2:19), trong thuật ngữ Hy Lạp là symballon, chúng ta có thể nói rằng Mẹ “giữ chung lại”, Mẹ “bỏ chung lại” trong lòng Mẹ tất cả những biến cố đã xảy ra cho Mẹ; Mẹ đặt từng biến cố một, từng chữ, từng thực thể trong toàn bộ và so sánh chúng, gìn giữ chúng, trong khi nhìn nhận rằng tất cả đến từ Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria không ngừng lại ở một sự hiểu biết hời hợt đầu tiên về những gì đang xảy ra trong cuộc đời Mẹ, nhưng Mẹ có thể nhìn sâu sắc, Mẹ để cho mình được chất vần bởi các biến cố, Mẹ khai triển chúng, phân biện chúng và đạt được sự hiểu biết mà chỉ một mình đức tin có thể đảm bảo. Chính lòng khiêm tốn sâu xa của sự vâng phục của đức tin của Đức Mẹ Maria, Đấng đón chào vào chính mình ngay cả những điều Mẹ không hiểu về hành động của Thiên Chúa, để mặc cho Chúa khai mở trí khôn và tâm hồn Mẹ. Bà Elizabeth, người họ hàng Mẹ, đã thốt lên: “Phúc cho ai đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói cùng” (Lc 1:44). Chính vì đức tin của Mẹ mà muôn thế hệ sẽ gọi Mẹ là có phúc.
Các bạn thân mến, Đại Lễ Giáng sinh của Chúa mà chúng ta cử hành ở đây, mời gọi chúng ta sống khiêm nhường và trong sự vâng phục của đức tin. Vinh quang Thiên Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và sức mạnh của một vị vua, không tỏa sáng trong một thành phố thời danh, nơi cung điện xa hoa, nhưng ngự trong cung lòng của một trinh nữ, tỏ lộ trong sự nghèo nàn của một Hài Nhi. Sự toàn năng của Thiên Chúa, ngay cả trong đời sống của chúng ta, hoạt động với sức mạnh, thường âm thầm, của chân lý và tình yêu. Như thế, đức tin cho chúng ta biết rằng sức mạnh của Hài Nhi ấy cuối cùng sẽ khắc phục được sự huyên náo của các quyền lực thế gian.
Bài Giáo Lý XI của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Căn Tính của Chúa Giêsu “Điều xảy ra trong Đức Mẹ Maria, nhờ tác động của Thần Khí Thiên Chúa, là một việc tạo dựng mới.”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười một của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 2 tháng 1, 2013. Hôm nay ĐTC dạy tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Lễ Giáng sinh của Chúa một lần nữa chiếu ánh sáng vào những bóng tối thường bao phủ thế gian và tâm hồn của chúng ta, cùng mang lại niềm hy vọng và niềm vui. Ánh sáng này từ đâu đến? Từ hang đá Bethlehem, nơi các mục đồng tìm thấy “Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse, cùng Hài Nhi nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16). Trước Thánh Gia này phát sinh một câu hỏi khác sâu xa hơn là: làm sao mà Hài Nhi bé nhỏ và yếu đuối này đã mang lại một sự mới lạ triệt để trên thế gian để thay đổi dòng lịch sử? Chẳng phải là có một điều gì mầu nhiệm trong nguồn gốc của Người vượt ra ngoài hang đá ấy hay sao?
Câu hỏi về nguồn gốc của Chúa Giêsu luôn được người ta nhắc đi nhắc lại, cùng là một câu hỏi của quan Phongxiô Philatô trong phiên xử: “Ông từ đâu đến?” (Ga 19:29). Tuy nhiên, nguồn gốc của Người lại thật rõ ràng. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, khi Chúa quả quyết: “Ta là bánh từ trời xuống,” người Do Thái phản ứng bằng cách lẩm bẩm với nhau, “Ông này không phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta chẳng biết cha mẹ ông ta sao? Làm sao ông ta có thể nói, ‘Ta từ trời xuống?’” (Ga 6:42). Và, chẳng bao lâu sau đó, các công dân của Giêrusalem đã kịch liệt chống lại việc Chúa Giêsu tự nhận là Đấng Mêsia khi họ nói rằng “Nhưng chúng ta biết ông ta từ đâu đến; mà khi Đấng Mêsia đến, thì không ai biết Ngài từ đâu đến” (Ga 7:27). Chính Chúa Giêsu đã vạch ra việc họ nghĩ rằng họ biết nguồn gốc của Người là điều thiếu sót như thế nào, và cũng cung cấp một hướng đi để biết Người từ đâu đến: “Tôi không tự mình mà đến. Ðấng đã sai Tôi là Ðấng chân thật, mà các ông không biết Ngài.” (Ga 7:28). Tất nhiên, Chúa Giêsu phát xuất từ Nadareth, sinh ra tại Bethlehem, nhưng người ta biết gì về nguồn gốc thật sự của Người?
Trong bốn Tin Mừng, câu trả lời cho câu hỏi Chúa Giêsu “từ đâu” đến trở nên rõ ràng hơn: nguồn gốc thực sự của Người là Đức Chúa Cha, Thiên Chúa. Người đến hoàn toàn từ Ngài, nhưng bằng một cách khác biệt với bất kỳ ngôn sứ nào được Thiên Chúa sai đến trước Người. Điều này bắt nguồn từ mầu nhiệm của Thiên Chúa, là Đấng “không ai biết”, đã được chứa đựng trong tường thuật thời thơ ấu của các Tin Mừng Thánh Matthêu và Thánh Luca, mà chúng ta đọc trong mùa Giáng Sinh này. Thiên sứ Gabriel tuyên bố: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ (rạp bóng) bà; vì vậy, Con Trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa.” (Lc 1:35). Chúng ta lặp lại những lời này mỗi lần chúng ta đọc kinh Tin Kính, lời tuyên xưng đức tin: “et incarnatus est de Spiritu Sancto, ex Maria Virgine,” “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria”. Trong câu này, chúng ta quỳ xuống [bản tiếng Anh dịch là cúi đầu] bởi vì bức màn che khuất Thiên Chúa có thể nói là được vén lên, và mầu nhiệm khôn dò và không thể tiếp cận được của Ngài trực tiếp chạm đến chúng ta: Thiên Chúa trở thành Đấng Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Khi chúng ta lắng nghe các bộ hát Thánh Lễ được sáng tác bởi các bậc thầy vĩ đại của thánh nhạc, thí dụ như Bộ Đại Thánh Lễ của Mozart, tôi thiết nghĩ rằng chúng ta nhận ngay ra rằng người ta ngừng lại một cách đặc biệt ở câu này, như thể để cố gắng diễn tả bằng ngôn ngữ phổ quát của âm nhạc điều mà lời nói không thể nào diễn tả nổi: mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa nhập thể, làm người.
Nếu chúng ta xem xét cẩn thận lời cụm từ “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria,” chúng ta thấy rằng cụm từ này bao gồm bốn chủ thể hành động. Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ Maria được đề cập một cách rõ ràng, nhưng “Người”, nghĩa là Chúa Con, Đấng đã trở thành nhục thể trong lòng Đức Trinh Nữ, được hiểu ngầm. Trong lời tuyên xưng đức tin, Kinh Tin Kính, Chúa Giêsu được nhắc đến bằng những danh hiệu khác nhau: “Lạy Chúa, … Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa … Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật … đồng bản thể với Đức Chúa Cha” (Nicene-Constantinople). Như thế chúng ta thấy rằng “Người” ám chỉ một ngôi vị khác, là Chúa Cha. Do đó chủ thể thứ nhất của câu này là Chúa Cha, Đấng là Thiên Chúa duy nhất cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Lời khẳng định này của Kinh Tin Kính không nói về hữu thể vĩnh cửu của Thiên Chúa, mà đúng hơn là nói về một hành động có sự tham gia của Thiên Chúa Ba Ngôi và được thể hiện “ex Maria Virgine (bởi Đức Trinh Nữ Maria)”. Nếu không có Mẹ, việc Thiên Chúa bước vào lịch sử nhân loại sẽ không đạt đến cùng đích của nó và điều là trung tâm của lời tuyên xưng đức tin của chúng ta: Thiên Chúa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta, cũng không xảy ra. Vì vậy, Đức Mẹ, một cách không thể chối cãi được, thuộc về đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa, là Đấng hành động, là Đấng can thiệp vào lịch sử. Mẹ hiến dâng toàn thể con người của Mẹ, “đồng ý” trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa.
Đôi khi, ngay cả trong cuộc hành trình và cuộc sống đức tin của mình, chúng ta có thể cảm thấy sự nghèo nàn của mình, sự bất cập của mình trước việc làm chứng tá để cung ứng cho thế giới. Nhưng Thiên Chúa đã chọn một người phụ nữ khiêm hạ, trong một ngôi làng vô danh, trong một tỉnh hẻo lánh nhất của đại đế quốc Rôma. Ngay cả giữa những vấn đề khó khăn nhất phải đương đầu, chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, đổi mới đức tin vào sự hiện diện và hành động của Ngài trong lịch sử của chúng ta, như của Đức Mẹ Maria. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể được! Với Ngài, cuộc sống của chúng ta luôn luôn bước đi trên đất vững vàng và mở ra cho một tương lai đầy hy vọng chắc chắn.
Khi tuyên xưng lời Kinh Tin Kính: “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria,” chúng ta khẳng định rằng Chúa Thần Thánh, như quyền năng của Thiên Chúa Tối Cao, đã làm việc một cách mầu nhiệm trong việc thụ thai Con Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria. Thánh sử Luca ghi lại lời của Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel, “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà” (1:35). Có hai quy chiếu rõ ràng: thứ nhất là vào lúc tạo dựng. Ở đầu Sách Sáng Thế Ký, chúng ta đọc rằng “Thần Khí của Thiên Chúa đã là là trên mặt nước” (1:2); chính Thần Khí Tạo Dựng, là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi sự và nhân loại.
Điều xảy ra trong Đức Mẹ Maria, nhờ tác động của Thần Khí Thiên Chúa, là một việc tạo dựng mới: Thiên Chúa, Đấng làm cho mọi sự hiện hữu từ hư không, nhờ mầu nhiệm Nhập Thể ban sự sống cho một khởi đầu mới của nhân loại. Các Giáo Phụ thường nói về Đức Kitô như Adam mới, để đánh dấu sự khởi đầu của việc tạo dựng mới từ việc giáng sinh của Con Thiên Chúa trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Điều này làm cho chúng ta suy nghĩ về cách thế làm sao để đức tin cũng làm phát sinh trong chúng ta một sự mới mẻ mạnh mẽ đến độ gây ra một cuộc tái sinh. Thực ra, ngay từ đầu đời sống Kitô hữu đã có bí tích rửa tội làm cho chúng ta được tái sinh thành con cái Thiên Chúa, chúng ta được thông phần vào mối liên hệ con thảo của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Tôi muốn vạch ra rằng Bí Tích Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận, việc chúng ta “được rửa tội”, là điều thụ động – bởi vì không ai tự mình có khả năng trở thành con cái Thiên Chúa: đó là một món quà nhưng không. Thánh Phaolô nhắc đến việc được nhận làm nghĩa tử này của các Kitô hữu trong một đoạn chính của Thư gửi tín hữu Rôma, ngài viết: “Tất cả những ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì anh em đã không nhận được thần khí nô lệ làm cho anh em lại phải sợ hãi, nhưng anh em đã nhận Thần Khí làm nghĩa tử, bởi đó cho chúng ta kêu lên, ‘Abba! Cha ơi’” Chính Thần Khí làm chứng cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.” (8:14-16), chứ không là nô lệ. Chỉ khi nào chúng ta mở lòng ra cho Thiên Chúa, như Đức Mẹ Maria, chỉ khi nào chúng ta phó thác cuộc đời của mình cho Chúa như một người bạn mà chúng ta hoàn toàn tin tưởng, thì mọi sự sẽ thay đổi, cuộc đời của chúng ta sẽ có một ý nghĩa mới và một khuôn mặt mới: khuôn mặt của những người con của một Chúa Cha, Đấng đã yêu thương chúng ta và không bao giờ ruồng bỏ chúng ta.
Chúng ta đã nói về hai yếu tố: yếu tố thứ nhất là Thần Khí trên mặt nước, Thần Khí Tạo Dựng; còn có một yếu tố khác trong những lời Truyền Tin.
Thiên sứ nói cùng Đức Mẹ Maria: “Quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao trùm bà”. Đó là một lời nhắc đến đám mây thánh trong cuộc hành trình Xuất Hành, ngừng lại ở Hội Mạc (Lều Tạm), hòm bia giao ước, mà dân Israel đem theo với họ, và biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 40 ,40:34-38). Như thế Đức Mẹ Maria là Lều Tạm thánh mới, là Hòm Bia mới của Giao Ước: qua lời thưa “xin vâng” của Mẹ với những lời của Tổng Lãnh Thiên Thần, Thiên Chúa nhận được một nơi cư ngụ trong thế gian này, Đấng mà cả vũ trụ không thể chứa nổi đã đến để cư ngụ trong cung lòng một trinh nữ.
Như thế, chúng ta hãy trở lại câu hỏi mà chúng ta đã mở đầu, nguồn gốc của Chúa Giêsu, được tổng hợp bởi câu hỏi của Philatô: “Ông từ đâu đến?” Những suy nghĩ của chúng ta làm sáng tỏ, từ đầu các sách Tin Mừng, nguồn gốc thực sự của Chúa Giêsu là gì: Người là Con Một Chúa Cha, Người đến từ Thiên Chúa. Chúng ta đứng trước mầu nhiệm cao cả và sửng sốt mà chúng ta cử hành trong Mùa Giáng Sinh này: Con Thiên Chúa, nhở tác động của Chúa Thánh Thần, đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Đây là một lời loan báo vang lên âm thanh luôn luôn mới mẻ, và mang trong nó niềm hy vọng và niềm vui cho tâm hồn chúng ta, bởi vì mỗi lần lời loan báo ấy vang lên nó ban cho chúng ta sự chắc chắn rằng, mặc dù chúng ta thường cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, không có khả năng đương đầu với những thách thức và sự dữ trong thế gian, quyền năng của Thiên Chúa luôn luôn hoạt động và thực hiện những kỳ công trong sự yếu đuối. Ân sủng của Ngài là sức mạnh của chúng ta (x. 2 Corinthians 12:9-10). Cảm ơn anh chị em.
Bài Giáo Lý XII của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin: Mầu Nhiệm Nhập Thể “Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài như một món quà cho chúng ta. Người (Chúa Giêsu) đã mặc lấy nhân tính của chúng ta để ban cho chúng ta thiên tính của Người.”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười hai của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 9 tháng 1, 2013. Hôm nay ĐTC tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Trong mùa Giáng Sinh này, chúng ta một lần nữa chú tâm vào mầu nhiệm của Thiên Chúa là Đấng từ trời xuống để mặc lấy xác phàm của chúng ta. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã nhập thể, đã trở thành một người như chúng ta, và nhờ đó mở cửa Thiên Đàng của Ngài cho chúng ta, để chúng ta được hiệp thông hoàn toàn với Ngài.
Trong những ngày này, nơi các nhà thờ của chúng ta vang lên nhiều lần từ “nhập thể” của Thiên Chúa, để diễn tả thực thể mà chúng ta cử hành vào dịp Giáng Sinh: Con Thiên Chúa đã làm người, như chúng ta đọc trong Kinh Tin Kính. Nhưng từ này, là trọng tâm của đức tin Kitô giáo, có ý nghĩa gì? Từ nhập thể phát nguồn từ tiếng Latinh “incarnatio”. Thánh Ignatiô thành Antiôkia, ở cuối thế kỷ thứ nhất, và đặc biệt là Thánh Irênê đã sử dụng thuật ngữ này khi suy niệm về Lời Mở Đầu của Tin Mừng Thánh Gioan, đặc biệt về cụm từ “Ngôi Lời đã trở thành nhục thể” (Galatians 1:14). Ở đây từ “nhục thể” hay “xác thịt” theo cách dùng của tiếng Do Thái, ám chỉ toàn thể con người, con người toàn diện, nhưng chỉ theo khía cạnh của sự ngắn ngủi và tạm bợ, nghèo nàn và bất ngờ của nó. Điều ấy có nghĩa là ơn cứu độ được mang đến bởi Thiên Chúa làm người nơi Chúa Giêsu thành Nagiareth chạm đến con người trong thực trạng cụ thể của Người và trong bất cứ tình trạng nào mà Người gặp. Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chữa nó khỏi tất cả những gì chia cách chúng ta với Ngài, để chúng ta có thể gọi Ngài, trong Con Một của Ngài, bằng danh hiệu “Abba, Cha ơi” và thực sự là con cái Thiên Chúa. Thánh Irênê nói, “Đây là lý do tại sao Ngôi Lời đã làm người, và Con Thiên Chúa đã trở thành Con Người: để con người, qua việcbước vào sự hiệp thông với Ngôi Lời và nhờ đó nhận được quyền làm con Thiên Chúa, có thể trở thành một người con của Thiên Chúa”(Adversus haereses, 3,19,1: PG 7,939; x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 460).
“Ngôi Lời đã trở thành nhục thể” là một trong những chân lý mà chúng ta đã trở nên quá quen thuộc với sự cao cả của biến cố mà nó diễn tả đến nỗi hầu như nó không còn ảnh hưởng gì đến chúng ta nữa. Và quả thực, trong mùa Giáng Sinh này, trong đó từ ngữ này thường được lập lại trong phụng vụ, đôi khi người ta quan tâm nhiều hơn đến vẻ bề ngoài, đến các “màu sắc” của ngày lễ, thay vì trọng tâm của sự mới mẻ vĩ đại của Kitô giáo mà chúng ta cử hành: có một điều gì đó hoàn toàn không thể tưởng tượng được, mà chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể làm được và chúng ta chỉ có thể vào được bằng đức tin. Ngôi Lời (Logos) là Đấng ở cùng Thiên Chúa, Ngôi Lời là Thiên Chúa (x. Galatians 1:1), Đấng Tạo Hóa của thế gian, mà nhờ Người mọi sự được tạo thành (x. 1:3), đã cùng đồng hành và đang cùng đồng hành với con người trong lịch sử với ánh sáng của Ngài (x. 1:4-5; 1:9), làm người và ở giữa chúng ta, trở thành một người trong chúng ta (x. 1:14). Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Con Thiên Chúa … đã làm việc với bàn tay con người, Người đã suy nghĩ bằng một trí khôn con người, Người đã hành động với một ý chí con người, và đã yêu thương bằngmột trái tim con người. Được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người trong chúng ta, giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi” (Gaudium et Spes, 22). Như thế điều quan trọng là phục hồi sự kinh ngạc trước mầu nhiệm này, chúng ta hãy để cho mình được bao bọc bởi sự vĩ đại của biến cố này: Thiên Chúa, Thiên Chúa thật, Đấng Tạo Hóa của tất cả, đã đi trên các đường phố của chúng ta như một con người, trong khi đi vào thời gian của con người để truyền thông cho chúng ta sự sống của Người (x. 1 Galatians 1:1-4). Và Người đã không làm điều ấy với vẻ huy hoàng của một Đấng Tối Cao cai trị thế gian bằng quyền lực của Người, nhưng bằng sự khiêm tốn của một Hài Nhi.
Tôi muốn nhấn mạnh đến một yếu tố thứ hai. Trong dịp Lễ Giáng Sinh chúng ta thường trao đổi một ít món quà với những người thân cận nhất của mình. Đôi khi việc đó có thể là một cử chỉ được thực hiện theo quy ước, nhưng nói chung thì cử chỉ này diễn tả tình cảm, là một dấu chỉ của tình yêu và sự ngưỡng mộ. Trong lời nguyện tiến lễ trong Thánh Lễ của Đại Lễ Giáng Sinh, Hội Thánh cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin chấp nhận của lễ chúng con dâng trong đêm ánh sáng này, và nhờ sự trao đổi mầu nhiệm của các ơn này xin biến đổi chúng con trong Đức Kitô Con Chúa, là Đấng đã nâng con người lên cạnh Chúa trong vinh quang”. Ý tưởng tặng quà nằm ở trung tâm của phụng vụ và giúp chúng ta hiểu được món quà nguyên thủy của Lễ Giáng Sinh: trong đêm thánh này, Thiên Chúa, bằng cách trở thành nhục thể, đã muốn trở thành một món quà cho loài ngưởi, đã hiến mình cho chúng ta, Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài như một món quà cho chúng ta, Người đã mặc lấy nhân tính của chúng ta để ban cho chúng ta thiên tính của Người. Đây là món quà cao cả. Ngay cả trong việc tặng quà của chúng ta, một món quà đắt tiền hay không chẳng phải là điều quan trọng; người nào không thể trao tặng một chút của chính con người mình thì luôn trao tặng quá ít; thật vậy, đôi khi chúng ta chỉ cố gắng thay thế con tim và quyết tâm tự hiến của mình bằng tiền bạc, bằng vật chất. Mầu nhiệm Nhập Thể có nghĩa là Thiên Chúa đã không làm như vậy: Ngài đã không ban tặng một vật gì đó, nhưng đã ban chính mình trong Con Một Ngài. Ở đây chúng ta tìm thấy một khuôn mẫu cho mình, ngõ hầu mối quan hệ của chúng ta, đặc biệt là với những người quan trọng nhất, được hướng dẫn bởi lòng quảng đại và tình yêu.
Tôi muốn cống hiến một suy tư thứ ba: thực tại của mầu nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa, của Đầng trở thành một người như chúng ta, cho chúng ta thấy chủ nghĩa hiện thực chưa từng có của tình yêu Thiên Chúa. Thực ra, hành động của Thiên Chúa không giới hạn trong những từ ngữ; trái lại, chúng ta có thể nói rằng Ngài không hài lòng với lời nói nhưng đắm mình trong lịch sử của chúng ta cùng vác lấy sự mệt mỏi và gánh nặng của cuộc sống con người. Con Thiên Chúa đã thực sự trở thành con người được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, trong một thời điểm và một địa điểm cụ thể, ở Bethlehem dưới triều đại Hoàng Đế Augustô, khi Quiriniô làm thủ hiến (Lc 2:1-2); Người đã lớn lên trong một gia đình, có bạn bè, Người thành lập một nhóm môn đệ, Người truyền cho các Tông Đồ tiếp tục sứ mệnh của Người, Người đã kết thúc cuộc đời dương thế của Người trên thập giá. Phương thức hành động này của Thiên Chúa là một sự kích thích mạnh mẽ để cho chúng ta tự hỏi về tính hiện thực của đức tin của mình, là điều không nên chỉ giới hạn trong phạm vi tình cảm và cảm xúc, nhưng phải đi vào thực tại của cuộc đời chúng ta, phải chạm vào cuộc sống thường nhật của chúng ta và cũng hướng dẫn nó một cách thiết thực. Thiên Chúa không ngừng lại ở lời nói, nhưng Người chỉ cho chúng ta phải sống thế nào và chia sẻ kinh nghiệm của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Sách Giáo Lý của Thánh Piô X mà một số người trong chúng ta đã học khi còn nhỏ, cách đơn giản, với câu hỏi: “Để sống theo Thiên Chúa, chúng ta phải làm gì?”, đã cho chúng ta câu trả lời này: “Để sống theo Thiên Chúa, chúng ta phải tin vào những chân lý mà Ngài đã mặc khải và giữ các giới răn của Ngài với sự giúp đỡ của ân sủng của Ngài, mà chúng ta lãnh nhận qua các bí tích và cầu nguyện.” Đức tin có một khía cạnh cơ bản không những chỉ ảnh hưởng đến trí khôn và tâm hồn, mà còn tất cả cuộc đời chúng ta.
Tôi đề nghị một yếu tố cuối cùng để anh chị em suy nghĩ. Thánh Gioan nói rằng Lời Chúa, Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa từ nguyên thủy, và rằng tất cả mọi sự được tạo thành bởi Ngôi Lời, và không có Người, thì không có gì hiện hữu được (x. Galatians 1:1-3). Thánh sử rõ ràng ám chỉ câu chuyện tạo dựng trong các chương đầu của sách Sáng Thế Ký, và đọc lại chúng trong ánh sáng của Đức Kitô. Đây là một tiêu chuẩn cơ bản trong việc đọc Thánh Kinh của Kitô giáo: Cựu Ước và Tân Ước phải luôn luôn được đọc cùng nhau, và từ Tân Ước ý nghĩa sâu xa nhất của Cựu Ước cũng được tỏ lộ. Cùng một Ngôi Lời, luôn luôn hiện hữu cùng Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa và nhờ Người và vì Người mà mọi sự được tạo thành (x. Colossians 1:16-17), Người đã làm người: Thiên Chúa vĩnh cửu và vô cùng đã dìm mình trong sự hữu hạn của con người, trong tạo vật của mình, để dẫn đưa con người và toàn thể tạo vật về với Người. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo xác quyết: “Việc tạo dựng thứ nhất tìm thấy ý nghĩa và tột đỉnh của nó trong việc tạo dựngtrong Đức Kitô, mà sự rạng ngời vượt quá sự rạng ngời của việc tạo dựng thứ nhất” (số 349).
Các Giáo Phụ của Hội Thánh đã đặt Chúa Giêsu cạnh ông Ađam, đến nỗi gọi Người là “Ađam thứ hai” hoặc Ađam cuối cùng, hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa. Với việc nhập thể của Con Thiên Chúa, một cuộc tạo dựng mới đã xảy ra, đem lại câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi “Con người là ai?” Chỉ trong Chúa Giêsu mà kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người được tỏ lộ đầy đủ: Người là con người đúng nghĩa theo Thiên Chúa. Công Đồng Vaticanô II mạnh mẽ nhắc lại: “Thực ra, chỉ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể mà mầu nhiệm về con người được sáng tỏ… Đức Kitô, Ađam mới, mặc khải trọn vẹn về con người cho chính họ và làm cho ơn gọi tối thượng của họ được rõ ràng” (Gaudium et Spes, 22; x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 359). Trong Hài Nhi này, Con Thiên Chúa được chiêm ngưỡng trong dịp Giáng Sinh, chúng ta có thể nhận ra không những chỉ dung nhan thật sự của Thiên Chúa, mà cả khuôn mặt thật sự của con người; và chỉ bằng cách mở lòng mình ra cho hành động của ân sủng của Người cùng cố gắng mỗi ngày để theo Người, chúng ta hiểu rõ kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta, dành cho mỗi người chúng ta.
Các bạn thân mến, trong giai đoạn này, chúng ta suy niệm về sự phong phú cao cả và tuyệt vời của mầu nhiệm Nhập Thể, để Chúa soi sáng chúng ta và biến đổi chúng ta mỗi ngày một hơn thành hình ảnh của Con Ngài làm người vì chúng ta. Xin cám ơn anh chị em.
Bài Giáo Lý XIII của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Học để Thấy Thánh Nhan Thiên Chúa “Thánh Thể là trường học tuyệt vời, trong đó chúng ta học để thấy Thánh Nhan Thiên Chúa, chúng ta đi vào một mối liên hệ mật thiết với Ngài.”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười ba của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 16 tháng 1, 2013. Hôm nay ĐTC tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
Anh chị em thân mến,
Công đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế về Mặc Khải của Thiên Chúa, Dei Verbum, quả quyết rằng chân lý thâm sâu của mặc khải của Thiên Chúa soi sáng cho chúng ta “trong Đức Kitô, Đấng vừa là trung gian vừa là sự viên mãn của tất cả mặc khải”(số 2). Cựu Ước kể cho chúng ta biết làm sao mà Thiên Chúa, sau cuộc tạo dựng, bất chấp tội tổ tông và tính kiêu căng của con người muốn đặt mình vào địa vị của Đấng Tạo Hóa, lại một lần nữa ban cho họ khả năng làm bạn hữu của Ngài, đặc biệt là qua giao ước với ông Abraham và cuộc hành trình của một dân tộc bé nhỏ, dân Israel, mà Ngài chọn không với tiêu chuẩn quyền lực trần thế, nhưng chỉ đơn thuần vì yêu thương. Đó là một sự lựa chọn vẫn còn là một mầu nhiệm và cho thấy cách hoạt động của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi một số người không phải để loại trừ những người khác, nhưng để họ hành động như cây cầu dẫn những người khác đến với Ngài: việc lựa chọn luôn luôn là một lựa chọn cho người khác. Trong lịch sử dân Israel, chúng ta có thể vẽ lại những chặng đường của một cuộc hành trình dài trong đó Thiên Chúa cho họ biết Ngài, mặc khải chính mình, đi vào lịch sử bằng lời nói và hành động. Đối với việc này, Ngài dùng các trung gian, chẳng hạn như ông Môsê, các ngôn sứ, các Thủ Lãnh (Thẩm Phán), là những người truyền đạt Thánh ý của Ngài cho dân, họ nhắc nhở dân chúng về việc cần phải trung thành với giao ước và giữ cho sống mãi lòng mong chờ ngày mà các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện đầy đủ và dứt khoát.
Và chính việc thực hiện những lời hứa này là điều mà chúng ta đã suy niệm trong Lễ Giáng Sinh: Sự Mặc Khải của Thiên Chúa đạt đến cao điểm, đạt đến viên mãn. Trong Chúa Giêsu thành Nagiareth, Thiên Chúa thực sự thăm viếng dân Ngài, Ngài thăm viếng nhân loại bằng một cách vượt xa mọi mong đợi: Ngài đã sai Con Một Ngài. Chính Thiên Chúa đã làm người. Chúa Giêsu không nói với chúng ta một điều gì đó về Thiên Chúa, không chỉ đơn thuần nói về Chúa Cha, nhưng Người là sự Mặc Khải của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa, và như thế Người mặc khải cho chúng ta thấy Thánh Nhan của Thiên Chúa. Trong Lời Mở Đầu Tin Mừng của mình, Thánh Gioan viết: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Con Một, là Thiên Chúa, và là Ðấng hằng ở trong cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết Ngài.” (Galatians 1:18).
Tôi muốn tập trung vào việc này “việc mặc khải Thánh Nhan Thiên Chúa.” Về vấn đề này, Thánh Gioan, trong Tin Mừng của ngài, cho chúng ta biết một sự kiện quan trọng. Khi cuộc khổ nạn đã gần, Chúa Giêsu đã trấn an các môn đệ, bảo các ông đừng sợ hãi và hãy vững tin; sau đó Người bắt đầu một cuộc đàm thoại với các ông, trong đó Người nói về Thiên Chúa Cha (x. Ga 14:2-9). Có một lúc, tông đồ Philiphê hỏi Chúa Giêsu, “Lạy Chúa, xin chỉ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là đủ cho chúng con rồi.” (Ga 14:8). Thánh Philiphê rất thực tế và cụ thể, ông nói ra những gì mà chúng ta cũng muốn nói, “chúng con muốn thấy, xin chỉ cho chúng con thấy Chúa Cha,” ông xin “thấy” Chúa Cha, thấy Thánh Nhan của Ngài. Câu trả lời của Chúa Giêsu là một câu trả lời không chỉ dành cho Thánh Philiphê, mà còn cho chúng ta, và dẫn chúng ta vào trung tâm của đức tin Kitô. Chúa nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Lời diễn tả này tóm tắt một cách tổng hợp tính mới mẻ của Tân Ước, tính mới mẻ ấy xuất hiện trong hang đá Bethlehem: Có thể thấy Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta Thánh Nhan Ngài trong Đức Chúa Giêsu Kitô.
Chủ đề “tìm kiếm Thánh Nhan Thiên Chúa” hiện diện khắp nơi trong Cựu Ước, mong ước được biết Thánh Nhan, mong ước được thấy Thiên Chúa này quan trọng như thế nào đến nỗi từ Do Thái, panîm, có nghĩa là “khuôn mặt”, xuất hiện hơn 400 lần, và 100 lần trong số ấy nói về Thiên Chúa: 100 lần người ta nói về Thiên Chúa, người ta muốn nhìn thấy Thánh Nhan Thiên Chúa. Tuy nhiên, đạo Do Thái hoàn toàn cấm mọi hình ảnh, bởi vì Thiên Chúa không thể được mô tả như các dân lân cận của họ đã làm với việc thờ ngẫu tượng; do đó, với lệnh cấm hình ảnh này, Cựu Ước dường như loại trừ hoàn toàn “việc nhìn thấy” trong phụng tự và sùng kính. Như vậy, đối với những người Do Thái đạo đức, tìm kiếm Thánh Nhan Thiên Chúa nghĩa là gì trong khi nhìn nhận rằng không thể có hình ảnh của Ngài? Câu hỏi này thật quan trọng: một đàng, người ta muốn nói rằng Thiên Chúa không thể bị hạ xuống thành một vật, như một hình ảnh mà một người có thể cầm trong tay, nhưng người ta cũng không thể đặt một vật gì lên thay cho Thiên Chúa; tuy nhiên, đằng khác, người ta lại khẳng định rằng Thiên Chúa có một Thánh Nhan, Ngài là một “Ngài” có thể bước vào một mối quan hệ, Ngài không tự giam mình trên Trời Cao mà ngó xuống nhân loại. Thiên Chúa chắc chắn là trên mọi sự, nhưng Ngài quay mặt về phía chúng ta, lắng nghe chúng ta, thấy chúng ta, nói với chúng ta, lập giao ước, và có khả năng yêu thương. Lịch sử cứu độ là lịch sử của Thiên Chúa với nhân loại, là lịch sử về mối liên hệ này của Thiên Chúa là Đấng tự mặc khải cách tiệm tiến cho con người và cho họ biết về chính mình, cho họ biết Thánh Nhan Ngài.
Ngay từ đầu năm nay, ngày mùng 1 tháng 1, chúng ta đã nghe trong phụng vụ, kinh nguyện chúc lành tuyệt mỹ trên dân chúng: “Nguyện xin Chúa chúc lành và gìn giữ anh chị em. Nguyện xin Chúa chiếu thánh Nhan Ngài trên anh em, và độ lượng với anh chị em.Nguyện xin Chúa ghé mặt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (Dân số 6:24-26). Sự huy hoàng của Thánh Nhan Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, là điều cho phép chúng ta nhìn thấy thực tại, và ánh sáng của Thánh Nhan Ngài là chỉ nam hướng dẫn cuộc đời. Trong Cựu Ước có một nhân vật liên hệ cách rất đặc biệt với chủ đề “Thánh Nhan Thiên Chúa” là ông Môsê, người mà Thiên Chúa đã chọn để giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai Cập, để ban cho họ Luật giao ước và dẫn họ đến Đất Hứa. Vâng, chương 33 của Sách Xuất Hành nói rằng ông Môsê đã có một mối liên hệ chặt chẽ và thân tín với Thiên Chúa: “Chúa nói với ông Môsê mặt đối mặt, như một người nói chuyện với bạn mình” (câu 11). Nhờ sự tin tưởng này, ông Môsê xin Chúa: “Xin tỏ cho con vinh quang của Chúa,” và câu trả lời của Thiên Chúa thật rõ ràng: “Ta sẽ bày tỏ sự tốt lành của Ta ra trước mặt ngươi; Ta sẽ công bố Danh Chúa trước mặt ngươi … Nhưng ngươi sẽ không thấy dung nhan Ta, vì không ai thấy nhan Ta mà vẫn còn sống … Đây là chỗ gần Ta … ngươi sẽ thấy phía sau của Ta; nhưng thấy nhan Ta thì không được.” (các câu 18-23). Như vậy, một đàng có một cuộc đối thoại mặt đối mặt như giữa bạn bè, nhưng đàng khác, trong cuộc sống này, có một điều bất khả thi là nhìn thấy Thánh Nhan Thiên Chúa, là điều vẫn còn tàng ẩn; nhãn quan bị hạn chế. Các Giáo Phụ nói rằng những lời này, “ngươi sẽ chỉ thấy phíasau của Ta”, có nghĩa là: chúng ta chỉ có thể theo Đức Kitô và khi đi theo Người chúng ta thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa từ phía sau; người ta có thể theo Thiên Chúa trong khi thấy phía sau của Ngài.
Tuy nhiên, có điều gì mới mẻ xảy ra với việc nhập thể. Việc tìm kiếm Thánh Nhan Thiên Chúa trải qua một thay đổi không thể tưởng tượng được, bởi vì giờ đây người ta có thể nhìn thấy Thánh Nhan này: là Thánh Nhan của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Trong Người, con đường mặc khải của Thiên Chúa, khởi đầu với ơn gọi của ông Abraham được hoàn thành; Người là sự viên mãn của mặc khải này vì Người là Con Thiên Chúa, Người vửa là “Đấng Trung Gian và sự viên mãn của tất cả mặc khải” (Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 2), và trong Người nội dung của Mặc Khải và Đấng Mặc Khải trùng hợp nhau. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Thánh Nhan Thiên Chúa và dạy chúng ta biết Danh Thiên Chúa trong kinh nguyện tư tế trong Bữa Tiệc Ly, Người thưa cùng Chúa Cha: “Con đã tỏ lộ Danh Cha cho những người mà Cha đã lấy từ thế gian mà ban cho Con… Con đã cho họ biết Danh Cha” (x. Ga 17:6,26). Thuật ngữ “Danh Thiên Chúa” có nghĩa là Thiên Chúa là Đấng hiện diện giữa loài người. Nơi bụi gai bốc cháy, Thiên Chúa đã tiết lộ cho ông Môsê Danh Ngài, đã làm cho người ta có thể kêu cầu Danh Ngài, đã ban cho một dấu chỉ cụ thể về “sự hiện hữu” của Ngài giữa loài người. Tất cả điều này tìm thấy sự hoàn thành và viên mãn trong Chúa Giêsu: Người khai mào một cách hiện diện mới của Thiên Chúa trong lịch sử, bởi vì ai thấy Người là thấy Chúa Cha, như Người nói với Thánh Philiphê (x. Ga 14:9). Thánh Bernađô nói Kitô giáo là “tôn giáo của Lời Chúa,” tuy nhiên, “không phải một từ bằng văn tự và lặng câm, nhưng Lời nhập thể và sống động” (Hom. super missus est, IV, 11: PL 183, 86B). Trong các truyền thống Giáo Phụ và Trung Cổ, người ta sử dụng một công thức đặc biệt để diễn tả thực tại này: Chúa Giêsu là Verbum abbreviatum (x. Romans 9:28, nói về Isai 10:23), Người là Lời ngắn, Lời thu gọn và đáng kể của Chúa Cha, Đấng đã nói với chúng ta mọi sự về Ngài. Trong Chúa Giêsu, toàn thể Lời Chúa hiện diện.
Trong Chúa Giêsu, ngay cả việc làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người cũng được hoàn thành. Trong Cựu Ước, có một số nhân vật đã thực hiện nhiệm vụ này, đặc biệt là ông Môsê, vị giải phóng, vị hướng dẫn, “trung gian” của giao ước, như Tân Ước cũng xác định về ông (x. Gl 3:19; Cv 7:35, Galatians 1:17). Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật và người thật, không phải là chỉ đơn thuần là một trong những vị trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, nhưng Người là “trung gian” của Giao Ước Mới và vĩnh cửu (x. Dt 8:6; 9:15, 12:24), Thánh Phaolô nói, “Vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhấtvà một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, con người Đức Chúa Giêsu Kitô” (1 Timothy 2:5, Gl 3:19-20). Trong Người chúng ta thấy và gặp gỡ Chúa Cha; trong Người chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là “Abba, Lạy Cha”; trong Người chúng ta được ban ơn cứu độ.
Ở trong mỗi người, ngay cả những người vô thần, đều có ước muốn thật sự biết Thiên Chúa, nghĩa là, được thấy Thánh Nhan Thiên Chúa. Và chúng ta có lẽ vô tình có ước muốn này, là ước muốn đơn thuần thấy Ngài là ai, Ngài là gì, và Ngài là ai đối với chúng ta. Nhưng ước muốn này được thể hiện bằng cách theo Đức Kitô, để chúng ta thấy phía sau của Ngài và cuối cùng cũng thấy Thiên Chúa như một người bạn, thấy Thánh Nhan Ngài trong gương mặt của Đức Kitô. Điều quan trọng là chúng ta không chỉ theo Đức Kitô khi chúng ta cần Người và khi chúng ta có thì giờ rảnh rỗi trong những công việc hàng ngày của mình, nhưng phải theo như thế trong toàn thể cuộc đời chúng ta.
Toàn thể cuộc đời chúng ta phải được hướng đến cuộc gặp gỡ với Người, yêu mến Người, và trong cuộc đời ấy, tình yêu thương người lân cận phải giữ một địa vị trung tâm, tình yêu đó, trong ánh sáng của Đấng Chịu Đóng Đanh, giúp chúng ta nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu trong những người nghèo, người yếu đuối và người đau khổ. Điều này chỉ có thể được nếu khuôn mặt thật của Chúa Giêsu đã trở nên quen thuộc với chúng ta trong việc lắng nghe Lời Người, trong việc thưa chuyện với Người cách nội tâm, trong việc đi vào Lời này một cách nào để chúng ta thực sự gặp gỡ Người, và đương nhiên là trong mầu nhiệm Thánh Thể. Trong Tin Mừng của Thánh Luca có một đoạn quan trọng về hai môn đệ ở Emmau, họ nhận ra Chúa Giêsu trong việc bẻ bánh, nhưng họ đã được chuẩn bị sẵn sàng bởi hành trình mà trên đó họ đồng hành với Người, được chuẩn bị bởi lời mời mà họ xin Người ở lại với họ, được chuẩn bị bởi cuộc đối thoại khiến lòng họ bừng cháy; để rồi cuối cùng, họ thấy Chúa Giêsu.
Đối với chúng ta cũng thế, Thánh Thể là trường học tuyệt vời, trong đó chúng ta học để thấy Thánh Nhan Thiên Chúa, chúng ta bước vào một mối liên hệ mật thiết với Ngài, đồng thời học hướng cái nhìn của mình về giây phút cuối cùng của lịch sử, khi Ngài sẽ làm cho chúng ta no thỏa với ánh sáng của Thánh Nhan Ngài. Trên trần gian, chúng ta đi về phía sự viên mãn này, trong khi vui mừng chờ đợi Nước Thiên Chúa thật sự được thể hiện. Cảm ơn anh chị em.
Bài Giáo Lý XIV của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Tôi Tin Kính Một Thiên Chúa “Nói rằng‘Tôi tin kính một Thiên Chúa’ có nghĩa là cuộc sống của tôi được tìm thấy trong Ngài, để cho Lời Ngài định hướng mỗi ngày, trong các lựa chọn cụ thể, mà không sợ mất mát một điều gì đó của chính mình.”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười bốn của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 23 tháng 1, 2013. Hôm nay ĐTC tiếp tục những bài Giáo Lý về Kinh Tin Kính trong loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
Anh chị em thân mến,
Trong Năm Đức Tin này, hôm nay tôi muốn cùng anh chị em bắt đầu suy niệm về Kinh Tin Kính, là lời tuyên xưng đức tin long trọng đồng hành với cuộc sống chúng ta như các tín hữu. Kinh Tin Kính mở đầu bằng câu “Tôi tin kính một Thiên Chúa.” Đó là một lời khẳng định cơ bản, có vẻ đơn giản trong bản chất, nhưng mở ra cho thế giới vô hạn của mối liên hệ với Thiên Chúa và mầu nhiệm của Ngài. Tin vào Thiên Chúa ngụ ý gắn bó với Ngài, đón nhận Lời Ngài và vui vẻ tuân theo mặc khải của Ngài. Như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo viết, “Đức tin là một hành vi cá nhân, là sự đáp trả tự nguyện của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa là Đấng đã mạc khải chính mình” (số 166). Cho nên, việc có khả năng nói lên rằng mình tin vào Thiên Chúa vừa là một hồng ân của Thiên Chúa – Thiên Chúa tự tỏ mình ra và đến gặp chúng ta – vừa là một cam kết, đó là ân sủng của Thiên Chúa và trách nhiệm của con người, trong một kinh nghiệm về cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì yêu thương, “nói với con người như bằng hữu” (Dei Verbum, 2); do đó Ngài nói với chúng ta trong đức tin và với đức tin, chúng ta có thể bước vào sự hiệp thông với Ngài.
Chúng ta có thể lắng nghe Thiên Chúa và Lời Ngài ở đâu? Nơi cơ bản là Thánh Kinh, trong đó Lời Chúa có thể được chúng ta nghe thấy rõ ràng và nuôi dưỡng đời sống của chúng ta như “bạn hữu” của Thiên Chúa. Toàn thể Thánh Kinh kể lại mặc khải của Thiên Chúa cho nhân loại; toàn thể Thánh Kinh nói về đức tin và dạy chúng ta về đức tin bằng cách kể lại một câu chuyện mà trong đó Thiên Chúa thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài và đến gần chúng ta là con người, qua nhiều nhân vật sáng ngời của dân tin vào Ngài và tín thác nơi Ngài, cho đến sự viên mãn của mặc khải nơi Chúa Giêsu.
Một đoạn rất hay liên quan đến chủ đề này là chương 11 của Thư gửi tín hữu Do Thái, mà chúng ta vừa nghe. Ở đây thư này nói về đức tin và đưa ra ánh sáng những nhân vật vĩ đại trong Thánh Kinh, là những người đã sống và đã trở thành một mẫu gương cho tất cả các tín hữu. Bản văn nói ở câu đầu tiên: “Đức tin là bảo đảm những điều chúng ta hy vọng và bằng chứng cho những điều ta không thấy” (11:1). Như thế cặp mắt đức tin có thể nhìn thấy những gì vô hình và con tim của người tín hữu có thể hy vọng vượt trên mọi hy vọng, cũng như ông Abraham mà Thánh Phaolô nói trong Thư
Rôma rằng “ Ông đã tin tưởng trong hy vọng, dù không còn hy vọng” (4:18).
Và tôi muốn tập trung sự chú ý của chúng ta vào chính ông Abraham, bởi vì ông là nhân vật tham chiếu quan trọng đầu tiên để nói về đức tin vào Thiên Chúa: Ông Abraham, Tổ Phụ vĩ đại, mẫu gương tuyệt vời, cha của tất cả các tín hữu (x. Romans 4:11-12). Thư gửi tín hữu Do Thái trình bày về ông như sau: “Nhờ đức tin, ông Abraham, khi được Thiên Chúa gọi, đã vâng lời ra đi đến một nơi mà sau đó ông sẽ được nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã trẩy đến cư ngụ nơi đất hứa, như một nơi đất khách, ông sống trong lều cùng ông Isaac và ông Giacob, là những người đồng thừa tự với ông cùng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành phố có nền móng, mà người xây cất và sáng tạo là Thiên Chúa.” (11,8-10).
Ở đây tác giả Thư Do Thái đề cập đến ơn gọi của ông
Abraham, được kể trong Sách Sáng Thế Ký, quyển sách đầu tiên của Thánh Kinh. Thiên Chúa đòi hỏi vị tổ phụ vĩ đại này điều gì? Ngài đòi ông phải rời bỏ quê hương ông và đi đến một xứ mà Ngài sẽ chỉ cho ông, “Ngươi hãy rời bỏ quê hương, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đến xứ Ta sẽ chỉ cho ngươi.” (St 12:1). Làm sao chúng ta có thể đáp lại một lời mời gọi như thế? Thực ra, đó là một cuộc khởi hành trong bóng tối, không biết là Thiên Chúa sẽ dẫn ông đ
i đâu; đó là một cuộc hành trình đòi phải có sự vâng phục và tin tưởng tuyệt đối, là điều chỉ có thể đạt được nhờ đức tin. Tuy nhiên bóng tối của nơi chưa biết – nơi ông Abraham phải đi – được chiếu soi bởi ánh sáng của một lời hứa; Thiên Chúa thêm một lời trấn an vào lệnh của Ngài rằng sẽ mở ra trước mặt ông Abraham một đời sống tương lai trong sự sung mãn của nó: “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc lớn và Ta sẽ chúc phúc cho ngươi, và làm cho danh ngươi vang lừng,… các dân tộc trên thế gian sẽ nhờ ngươi mà được chúc phúc” (Gen 12,2.3).
Lời chúc lành, trong Thánh Kinh, chủ yếu liên quan đến hồng ân sự sống là điều đến từ Thiên Chúa, và được tỏ lộ chính yếu trong khả năng sinh sản, trong một cuộc sống mà con cái đông đúc, lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và lời chúc lành cũng được nối kết với kinh nghiệm làm chủ một vùng đất, một nơi yên ổn để sinh sống và phát triển trong tự do và an ninh, trong sự kính sợ Thiên Chúa và xây dựng một xã hội của những người trung thành với Giao Ước, “một vương quốc tư tế và một dân tộc thánh thiện” (x. Xh 19:6).
Vì vậy trong kế hoạch của Thiên Chúa, ông Abraham được tiền định để trở thành “cha của nhiều dân tộc” (St 17:5; xem Romans 4:17-18) và đi vào một vùng đất mới để sinh sống. Nhưng bà Sara, vợ ông, lại hiếm muộn, không thể có con; và xứ sở mà Thiên Chúa dẫn ông đến thì xa sinh quán của ông, đã có các dân khác cư ngụ, và đã không bao giờ thực sự thuộc quyền sở hữu của ông. Câu chuyện trong Thánh Kinh nhấn mạnh điều này, mặc dù rất dè dặt: Khi Ông Abraham đến nơi Thiên Chúa hứa: “lúc ấy dân Canaan đang cư ngụ trong xứ” (St 12:6). Đất mà Thiên Chúa ban cho ông Abraham không thuộc về ông, ông là một người khách lạ và sẽ luôn luôn như thế, với tất cả những gì điều này đưa đến: không có ý định sở hữu, luôn luôn cảm thấy sự đói nghèo của mình, coi tất cả như một hồng ân. Đây cũng là tình trạng tinh thần của những người bằng lòng đi theo Chúa, những người quyết định ra đi khi đón nhận ơn gọi của mình, theo dấu chỉ của lời chúc lành vô hình nhưng mãnh liệt của Ngài. Và ông Abraham, “cha của các tín hữu,” chấp nhận lời mời gọi này trong đức tin. Thánh Phaolô viết trong Thư gửi tín hữu Rôma: “Dù không còn hy vọng, ông đã tin tưởng trong hy vọng rằng ông phải trở thành tổ phụ của nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán, ‘Dòng dõi ngươi sẽ như thế.’ Ông đã không yếu tin; ông cũng không bận tâm đến việc thân xác ông hay lòng bà Sara bấy giờ như là đã chết, vì ông đã gần một trăm tuổi. Ông đã không nghi ngờ lời hứa của Thiên Chúa vì cứng tin; nhưng ông đã thêm vững mạnh trong đức tin mà tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng, điều gì Thiên Chúa đã hứa, thì Ngài đều có thể hoàn thành. “(Romans 4:18-21).
Đức tin dẫn ông Abraham đi theo một con đường nghịch lý. Ông sẽ được chúc phúc, nhưng không có những dấu chỉ hữu hình của lời chúc phúc; ông lãnh nhận lời hứa trở thành một dân lớn, nhưng với một đời sống đánh dấu bởi sự hiếm muộn của vợ ông là bà Sara; ông được đưa đến một quê hương mới nhưng sẽ phải sống ở đó như một ngoại kiều, và mảnh đất duy nhất ông được phép sở hữu sẽ chỉ là một mảnh đất để chôn cất bà Sara (x. St 23:1-20). Ông Abraham đã được chúc phúc bởi vì, trong đức tin, ông biết phân biệt lời chúc lành của Thiên Chúa bằng cách vượt xa những gì bề ngoài, tín thác vào sự hiện diện của Thiên Chúa ngay cả khi những đường lối của Ngài có vẻ bí nhiệm đối với ông.
Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Khi chúng ta xác quyết “Tôi tin kính một Thiên Chúa,” chúng ta nói như ông Abraham, “Lạy Chúa, con tin tưởng Chúa, con tín thác vào Chúa”, nhưng không phải như một Đấng mà chúng ta chỉ kêu cầu trong những lúc khó khăn hoặc Đấng mà cho Ngài chúng ta chỉ dành một ít thì giờ nào đó trong ngày hoặc trong tuần. Nói rằng “Tôi tin kính một Thiên Chúa” có nghĩa là cuộc sống của tôi được tìm thấy trong Ngài, để cho Lời Ngài định hướng mỗi ngày, trong các lựa chọn cụ thể, mà không sợ mất mát một điều gì đó của chính mình. Trong Nghi Thức Rửa Tội, khi nhắc nhở 3 lần: “Con có tin không?” vào Thiên Chúa, vào Đức Chúa Giêsu Kitô, vào Chúa Thánh Thần, vào Hội Thánh Công Giáo Thánh Thiện và các chân lý khác của đức tin, câu trả lời ba lần ở số ít là: “Tôi tin,” bởi chính đời sống cá nhân của tôi phải đi qua một lối rẽ với hồng ân đức tin, chính cuộc sống của tôi phải thay đổi, phải hoán cải. Mỗi lần chúng ta tham dự Bí Tích Rửa Tội, chúng ta nên tự hỏi mình xem chúng ta sống hồng ân đức tin cao trọng mỗi ngày như thế nào.
Ông Abraham, người có đức tin, dạy chúng ta đức tin; và như một ngoại kiều trên thế gian, ông chỉ cho chúng ta quê hương thật. Đức tin biến chúng ta thành những khác lữ hành trên trần gian, được đặt trong thế giới và trong lịch sử của nó, nhưng trên đường về quê hương trên trời. Như vậy, tin vào Thiên Chúa biến chúng ta thành những người mang những giá trị thường không trùng hợp với những gì hợp thời trang hay những quan điểm của thời đại; nó đòi hỏi chúng ta chấp nhận những tiêu chuẩn và có những hành vi không thuộc về cách suy nghĩ chung của của quần chúng.
Người Kitô hữu không nên sợ đi “ngược dòng” để sống đức tin của mình, chống lại cám dỗ “thích nghi”. Trong nhiều xã hội, Thiên Chúa đã trở thành “sự vắng mặt lớn” và thay cho Ngài là nhiều ngẫu tượng, trước hết là “cái tôi” tự trị. Cả những tiến bộ đáng kể và tích cực về khoa học và kỹ thuật cũng cho con người một ảo tưởng về sự toàn năng và tự túc của mình, và một chủ nghĩa duy ngã càng ngày càng phát triển đã tạo ra nhiều sự mất cân bằng trong mối tương quan giữa con người và cách cư xử trong xã hội.
Tuy nhiên, lòng khao khát Thiên Chúa (x. Tv 63:2) đã không bị dập tắt và sứ điệp Tin Mừng tiếp tục vang âm qua lời nói và việc làm của nhiều người nam nữ có đức tin. Ông Abraham, cha của các tín hữu, tiếp tục là cha của nhiều con cái sẵn sàng đi theo bước chân của ông và lên đường, với lòng vâng phục ơn gọi của Thiên Chúa, tín thác vào sự hiện diện nhân từ của Chúa và đón nhận phúc lành của ông (Abraham) là điều đã trở thành phúc lành cho tất cả mọi người. Đó là thế giới được chúc lành của đức tin mà chúng ta được mời gọi đến, để đi theo Đức Chúa Giêsu Kitô mà không sợ hãi. Và đôi khi nó là một cuộc hành trình khó khăn, thậm chí phải trải qua cả những thử thách và cái chết, nhưng mở ra cho sự sống, trong một sự biến đổi tận gốc của thực tại mà chỉ có cặp mắt đức tin mới có thể thấy và thưởng thức trong dư đầy.
Như thế, việc xác quyết “Tôi tin kính một Thiên Chúa” thúc đẩy chúng ta ra đi, liên tục ra khỏi chính mình, giống như ông Abraham, để mang vào thực tại hàng ngày mà trong đó chúng ta đang sống sự chắc chắn đến từ đức tin: đó là sự chắc chắn về sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử, ngay cả ngày nay; một sự hiện diện đem lại sự sống và ơn cứu độ, và mở ra cho chúng ta một tương lai với Ngài để có một đời sống viên mãn không bao giờ bị suy giảm. Cám ơn anh chị em.
Bài Giáo Lý XV của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Thiên Chúa là Cha Toàn Năng “Chính ở đó, trên Thánh Giá vinh quang, là nơi biểu hiện của sự cao cả của Thiên Chúa như “Cha Toàn Năng.”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười lăm của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 30 tháng 1, 2013. Hôm nay ĐTC tiếp tục những bài Giáo Lý về Kinh Tin Kính trong loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý Thứ Tư tuần trước, chúng ta đặt trọng tâm vào những lời của Kinh Tin Kính: “Tôi tin kính một Thiên Chúa.” Tuy nhiên, bản tuyên xưng đức tin xác định lời tuyên bố này: Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thành trời đất. Như vậy giờ đây tôi muốn cùng anh chị em suy niệm định nghĩa cơ bản đầu tiên về Thiên Chúa mà Kinh Tin Kính cho chúng ta: Ngài là Cha của chúng ta.
Ngày nay nói về đạo làm cha không phải là điều luôn luôn dễ dàng. Đặc biệt là ở Tây Phương, việc các gia đình bị tan vỡ, việc say mê nghề nghiệp mỗi ngày một gia tăng, những lo âu và thường cố gắng cân bằng ngân sách gia đình, sự hiện diện khắp nơi của các phương tiện truyền thông trong đời sống hàng ngày với những phân tâm của chúng là những yếu tố có thể ngăn cản một mối liên hệ an bình và xây dựng giữa những người cha và con cái. Đôi khi việc truyền thông trở nên khó khăn, niềm tin bị yếu dần và mối liên hệ với khuôn mặt người cha có thể trở thành vấn đề; và do đó việc tưởng tượng Thiên Chúa như một người cha cũng trở nên khó khăn vì không có những mô hình đầy đủ để qui chiếu. Đối với những người đã có kinh nghiệm về một người cha quá độc đoán và thiếu linh động, hoặc thờ ơ và thiếu tình cảm, hoặc thậm chí vắng mặt, thì không dễ dàng để nghĩ một cách bình thản về Thiên Chúa như Người Cha và phó thác cho Ngài với lòng tin tưởng.
Tuy nhiên mặc khải trong Thánh Kinh giúp chúng ta khắc phục những khó khăn này bằng cách nói với chúng ta về một Thiên Chúa, Đấng chỉ cho chúng ta việc làm “cha” thật có nghĩa là gì, và đặc biệt là Tin Mừng cho thấy Thánh Nhan Thiên Chúa như một Người Cha yêu thương đến nỗi ban cả chính Con Ngài để cứu độ nhân loại. Như thế việc quy chiếu về khuôn mặt người cha giúp chúng ta hiểu ít nhiều về tình yêu của Thiên Chúa, là điều, tuy nhiên, vẫn còn vô cùng lớn hơn, trung thành hơn, tổng thể hơn so với bất cứ người nào. Chúa Giêsu nói rằng “Có ai trong các con, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá sao? Hay nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con là những người tội lỗi, mà còn biết cho con cái các con những quà tốt, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, lại chẳng ban cho những ai cầu xin Ngài những của tốt lành bội phần sao?” (Matthew 7:9-11; x. Lc 11:11-13. ). Thiên Chúa là Cha chúng ta vì Ngài đã chúc lành và chọn chúng ta trước khi tạo thành thế gian (x. Ephesians 1:3-6), Ngài đã làm cho chúng ta thực sự thành con cái trong Chúa Giêsu (x. 1 Galatians 3:1). Và, như Người Cha, Thiên Chúa đồng hành cùng chúng ta trong cuộc đời với tình yêu, bằng cách ban cho chúng ta Lời Ngài, các giáo huấn của Ngài, ân sủng của Ngài và Thần Khí của Ngài.
Ngài, như được mặc khải trong Chúa Giêsu, là Chúa Cha, Đấng nuôi nấng chim trời mà không bắt chúng phải gieo gặt, và trang điểm những bông hoa ngoài đồng bằng những mầu sắc tuyệt vời, với y phục đẹp hơn những y phục của vua Salômôn (x. Matthew 6:26-32 và Lc 12:24-28). Chúa Giêsu nói thêm rằng chúng ta có giá trị hơn nhiều so với hoa và chim trên trời! Và nếu Ngài đủ tốt lành để làm cho “mặt trời của Ngài mọc lên soi cả người xấu lẫn người tốt, và mưa xuống trên cả người công chính lẫn người bất chính.” (Matthew 5:45), thì chúng ta có thể luôn luôn tin thác vào sự tha thứ của Cha, mà không sợ hãi và hoàn toàn tin tưởng, khi chúng ta sai lạc. Thiên Chúa là Người Cha tốt lành đón chào và ôm chầm lấy người con lạc đường và ăn năn (x. Lc 15:11 tt), Ngài tự ý ban mình cho những ai cầu xin Ngài (x. Matthew 18:19, Mc 11:24, Ga 16:23), cùng ban bánh bởi trời và nước hằng sống là bánh và nước ban sự sống đời đời (x. Ga 6:32;51;58).
Chính vì thế mà người cầu nguyện bằng Thánh Vịnh 27 bị kẻ thù bao quanh, bị ác nhân và những kẻ vu cáo bao vây, trong khi tìm trong kinh nguyện sự trợ giúp từ Chúa, và kêu cầu Ngài, có thể cho chúng ta một lời chứng đầy đức tin khi ông nói: “Dầu cha mẹ con đã bỏ con, thì Chúa cũng sẽ đón nhận con.” (câu 10). Thiên Chúa là Cha, Ngài không bao giờ bỏ rơi con cái Ngài, một Người Cha đầy yêu thương nâng đỡ, trợ giúp, đón chào, tha thứ, giải cứu với một lòng trung thành vượt trên lòng trung thành của con người rất nhiều, để mở ra một bình diện của cõi vĩnh hằng. “Vì tình yêu của Ngài tồn tại đến muôn đờì”, được lặp lại sau mỗi câu của Thánh Vịnh 136 như một kinh cầu, phác họa lại lịch sử cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa Cha không bao giờ phai tàn, Ngài không bao giờ chán ngán chúng ta; Ngài là tình yêu tự hiến đến cực đoan, thậm chí đến nỗi hy sinh Con Ngài. Đức tin cho chúng ta sự chắc chắn này, là điều trở thành một đá tảng vững chắc trong việc xây dựng cuộc đời chúng ta: chúng ta có thể đương đầu với tất cả những giây phút khó khăn và nguy hiểm, kinh nghiệm về đen tối của cuộc khủng hoảng và của những thời gian đau khổ, được nâng đỡ bởi đức tin của mình rằng Thiên Chúa không bỏ chúng ta một mình và luôn luôn ở gần, để cứu chúng ta và đưa chúng ta đến sự sống đời đời.
Chính trong tình yêu của Chúa Giêsu mà Thánh Nhan nhân từ của Cha trên trời được tỏ lộ một cách trọn vẹn. Chính nhờ biết Người mà chúng ta cũng có thể biết Chúa Cha (x. Ga 8:19; 14:7); chính nhờ thấy Người mà chúng ta có thể thấy Chúa Cha, bởi vì Người ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Người (x. Ga 14:9-11). Người là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” như bài thánh thi của Thư gửi tín hữu Côlôxê định nghĩa Người, “ là trưởng tử của mọi tạo vật,…là người đầu tiên sinh ra từ cõi chết”,”Nhờ Người chúng ta được ơn cứu độ, được ơn tha tội” và hòa giải muôn loài “dù là loài dưới đất hay trên trời trong khi đem lại bình an nhờ máu Người trên thập giá” (x. Colossians 1:13-20).
Đức tin vào Thiên Chúa Cha đòi buộc chúng ta phải tin vào Chúa Con, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trong khi nhận ra trong Thánh Giá cứu độ mặc khải cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha chúng ta qua việc ban cho chúng ta Con Ngài. Thiên Chúa là Cha chúng ta qua việc tha thứ tội lỗi chúng ta và đem chúng ta đến niềm vui của cuộc sống phục sinh. Thiên Chúa là Cha chúng ta qua việc ban cho chúng ta Thần Khí làm cho chúng ta thành con cái và cho phép chúng ta gọi Ngài, trong Chân Lý, là “Abba, Lạy Cha!” (x. Romans 8:15). Vì vậy, khi dạy chúng ta cầu nguyện, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thưa “Lạy Cha” (Matthew 6:9-13; x Lc 11:2-4).
Như thế, việc làm Cha của Thiên Chúa là tình yêu và sự ân cần vô hạn nghiêng mình trên chúng ta, những người con yếu đuối, thiếu thốn tất cả mọi sự. Thánh Vịnh 103, bài thánh thi tuyệt vời về lòng thương xót của Thiên Chúa, công bố: “Như người cha xót thương con cái mình, Chúa cũng xót thương những kẻ kính sợ Ngài. Vì Ngài biết chúng ta được tạo nên bằng gì, Ngài nhớ rằng chúng ta chỉ là cát bụi.” (cc 13-14). Chính sự bé nhỏ của chúng ta, bản tính nhân loại yếu hèn của chúng ta và sự mỏng dòn của chúng ta trở nên một lời khẩn cầu với lòng thương xót của Chúa để Ngài biểu lộ sự cao cả và sự ân cần của một người Cha bằng cách giúp đỡ chúng ta, tha thứ cho chúng ta và cứu độ chúng ta.
Và Thiên Chúa đáp lại lời khẩn cầu của chúng ta bằng cách sai Con Một Ngài, Đấng đã chết và đã sống lại vì chúng ta. Người bước vào sự yếu đuối của chúng ta và làm điều mà đơn phương con người không bao giờ có thể làm được: Người tự mình gánh lấy tội lỗi của thế gian, như một chiên con vô tội, và mở lại cho chúng ta con đường đến hiệp thông với Thiên Chúa, làm cho chúng ta thật sự thành con cái Thiên Chúa. Chính ở đó, trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, là nơi mà Thánh Nhan dứt khoát của Chúa Cha được tỏ lộ trong tất cả ánh quang của nó. Và chính ở đó, trên Thánh Giá vinh quang, là nơi biểu hiện của sự cao cả của Thiên Chúa như “Cha Toàn Năng.”
Nhưng chúng ta có thể thắc mắc: làm sao chúng ta có thể nghĩ đến một Thiên Chúa toàn năng khi nhìn lên Thánh Giá của Đức Kitô? Trên đó quyền năng của sự dữ đi xa đến nỗi giết Con Thiên Chúa? Chúng ta chắc chắn muốn một sự toàn năng của Thiên Chúa theo kiểu mẫu tư tưởng và ước muốn của mình: một Thiên Chúa “toàn năng” là Đấng giải quyết những vấn đề, Đấng can thiệp để giúp chúng ta tránh khỏi những khó khăn, Đấng chiến thắng các quyền lực đối nghịch, Đấng thay đổi tiến trình của các biến cố và loại bỏ đau khổ. Vì thế ngày nay nhiều thần học gia nói rằng Thiên Chúa không thể toàn năng, nếu không thì đã không có thể có quá nhiều đau khổ, quá nhiều sự dữ trên thế gian. Thực ra, đứng trước sự dữ và đau khổ, đối với nhiều người và đối với chúng ta, việc tin vào Thiên Chúa là Cha và tin rằng Ngài toàn năng trở nên một vấn đề, một điều khó khăn; một số người đang tìm trú ẩn nơi các ngẫu tượng, bằng cách nhượng bộ cám dỗ để tìm một câu trả lời nơi một sự toàn năng được coi là “ma thuật” và những lời hứa hão huyền của nó.
Tuy nhiên, đức tin vào Thiên Chúa toàn năng đẩy chúng ta qua những con đường rất khác: học để biết rằng những tư tưởng của Thiên Chúa khác với của chúng ta, những con đường của Thiên Chúa khác với những con đường của chúng ta (x. Isaiah 55:8), và ngay cả sự toàn năng của Ngài cũng khác: nó không được diễn tả như là một sức mạnh tự động hoặc tùy ý, nhưng được đánh dấu bằng một sự tự do yêu thương và phụ tử. Thực ra, Thiên Chúa, qua việc tạo ra các sinh vật tự do, ban cho chúng sự tự do, đã từ bỏ một phần quyền năng của Ngài, để cho chúng ta có khả năng dùng sự tự do của mình. Vì vậy, Ngài yêu thương và tôn trọng sự tự do đáp trả lời mời gọi của Ngài bằng tình yêu của chúng ta. Là một người Cha, Thiên Chúa muốn chúng ta trở nên con cái của Ngài và sống như vậy trong Con Ngài, trong sự hiệp thông, trong sự mật thiết hoàn toàn với Ngài. Sự toàn năng của Ngài không được diễn tả bằng bạo lực, không được diễn tả trong việc tiêu diệt tất cả các quyền lực đối nghịch như chúng ta muốn, nhưng được diễn tả trong tình yêu, lòng thương xót, sự tha thứ, việc chấp nhận sự tự do của chúng ta và không ngừng kêu gọi sự hoán cải của tâm hồn, trong một thái độ chỉ xem ra có vẻ yếu đuối – Thiên Chúa dường như yếu đuối, nếu chúng ta nghĩ về việc Chúa Giêsu Kitô cầu nguyện, và để cho Người bị giết chết. Đó là một thái độ có vẻ yếu đuối, bao gồm kiên nhẫn, hiền hậu và tình yêu, cho thấy rằng đó là cách thế thật sự để thành mạnh mẽ! Đó là quyền năng của Thiên Chúa! Và quyền năng này sẽ chiến thắng! Hiền nhân của Sách Khôn Ngoan thưa cùng Thiên Chúa cách này: “Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải. Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu,… Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa, lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống.” (11:23-24, 26).
Chỉ có ai thực sự có quyền năng mới có thể chịu đựng nổi sự dữ và tỏ lòng từ bi; chỉ có ai thực sự có quyền năng mới có thể thực sự tận dụng sức mạnh của tình yêu. Và Thiên Chúa, Đấng mà tất cả mọi sự đều thuộc Ngài vì mọi sự đều được dựng nên bởi Ngài, biểu lộ sức mạnh của mình bằng cách yêu thương tất cả mọi người và tất cả mọi sự, bằng cách kiên nhẫn chờ đợi sự hoán cải của loài người chúng ta, là những người mà Ngài muốn có như con cái. Thiên Chúa chờ đợi sự hoán cải của chúng ta. Tình yêu toàn năng của Thiên Chúa không có giới hạn, đến độ “Ngài đã không tha cho chính Con Ngài, nhưng trao nộp Người vì tất cả chúng ta” (Romans 8:32). Sự toàn năng của tình yêu không phải là sự toàn năng của quyền lực thế gian, nhưng là món quà hoàn toàn tự hiến, và Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, mặc khải cho thế gian sự toàn năng thật của Chúa Cha, bằng cách ban sự sống của Người cho những kẻ tội lỗi là chúng ta. Đây là quyền năng thực sự, chân chính và hoàn hảo của Thiên Chúa: đáp lại sự dữ không bằng sự dữ nhưng bằng sự lành, đáp lại những lời lăng nhục bằng sự tha thứ, đáp lại hận thù giết người bằng tình yêu ban sự sống. Vì vậy, sự dữ thực sự bị chinh phục vì nó đã được tình yêu của Thiên Chúa rửa sạch; do đó sự chết cuối cùng bị đánh bại, bởi vì được biến đổi thành hồng ân sự sống. Thiên Chúa Cha cho Chúa Con sống lại: cái chết, kẻ thù vĩ đại (x. 1 Corinthians 15:26), bị nuốt trửng cùng chất độc của nó bị tước đoạt (x. 1 Corinthians 15:54-55), nên chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và có thể đến gần thực tại làm con cái Thiên Chúa của mình.
Vì vậy, khi chúng ta nói “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng,” chúng ta bày tỏ đức tin của mình trong quyền năng của tình yêu Thiên Chúa là Đấng, trong cái chết của Con Ngài, đã đánh bại hận thù, sự dữ và tội lỗi cùng mở cửa cho chúng ta vào sự sống đời đời, là sự sống của những con cái muốn được mãi mãi ở trong “Nhà Cha”. Việc nói: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng”, trong quyền năng của Ngài, theo cách làm Cha của Ngài, luôn luôn là một hành động của đức tin, của việc hoán cải, của việc biến đồi tâm trí, tất cả tình yêu và toàn thể cách sống của chúng ta.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy xin Chúa duy trì đức tin của mình, giúp chúng ta thực sự tìm thấy đức tin cùng ban cho chúng ta sức mạnh để rao giảng Đức Kitô Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh cùng làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Xin Thiên Chúa cho chúng ta có thể nhận được món quà “làm con” của mình, để sống trọn vẹn thực tại của Kinh Tin Kính, trong khi phó thác cho tình yêu của Chúa Cha và sự toàn năng đầy thương xót của Ngài, Đấng là chân lý toàn năng và cứu độ chúng ta.
Bài Giáo Lý XVI của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành Trời Đất “Đức Tin là nhìn nhận sự cao cả của Thiên Chúa và chấp nhận tình trạng nhỏ bé của chúng ta.”
Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười sáu của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 6 tháng 2, 2013. Hôm nay ĐTC tiếp tục những bài Giáo Lý về Kinh Tin Kính trong loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Kinh Tin Kính mở đầu bằng cách mô tả Thiên Chúa là “Cha Toàn Năng,” như chúng ta đã suy niệm tuần trước, rồi nói thêm rằng Ngài là “Đấng Tạo Thành trời đất”, và như thế nhắc lại lời khẳng định mở đầu Thánh Kinh. Trong câu đầu tiên của Thánh Kinh, chúng ta đọc: “Khởi đầu Thiên Chúa dựng nên trời đất” (Stk 1:1): Thiên Chúa là nguồn gốc của tất cả mọi sự và sự toàn năng của Ngài như một người Cha đầy yêu thương được trải ra trong vẻ đẹp của việc tạo dựng.
Thiên Chúa tỏ lộ như Chúa Cha trong việc tạo dựng, vì Ngài là nguồn mạch sự sống, và trong việc tạo dựng, Ngài tỏ bày sự toàn năng của Ngài. Các hình ảnh được sử dụng trong Thánh Kinh về điều này rất gợi cảm (x. Is 40:12; 45,18; 48:13; Tv 104:2.5; 135:7; Cn 8:27-29; G 38-39). Ngài như một người Cha tốt lành và uy lực, chăm sóc những gì Ngài đã dựng nên bằng một tình yêu và lòng trung thành không bao giờ phai tàn, như được nhắc lại nhiều lần trong các Thánh Vịnh (x. Tv 57:11, 108:5, 36:6). Do đó, việc tạo dựng trở thành một nơi để biết và nhìn nhận sự toàn năng của Thiên Chúa và sự tốt lành của Ngài, và trở thành một lời mời gọi các tín hữu đến đức tin để chúng ta rao giảng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa. Tác giả thư Do Thái viết, “Nhờ đức tin, chúng ta hiểu rằng thế gian đã được hình thành bởi Lời của Thiên Chúa; cho nên những gì chúng ta nhìn thấy không được tạo nên từ những vật hữu hình” (11:3). Vì vậy, đức tin bao gồm việc biết nhìn nhận sự vô hình bằng cách nhận diện dấu vết của nó trong thế giới hữu hình. Tín hữu có thể đọc cuốn sách vĩ đại của thiên nhiên và hiểu ngôn ngữ của nó (x. Tv 19:2-5); nhưng cần có Lời mặc khải của Thiên Chúa, là Lời nhóm lên ngọn lửa đức tin, để con người có thể có một ý thức đầy đủ về thực tại của Thiên Chúa như Đấng Tạo Hóa và Cha. Chính trong Sách Thánh Kinh mà trí tuệ con người có thể tìm thấy, trong ánh sáng đức tin, chìa khóa giải thích để hiểu thế gian. Đặc biệt là chương thứ nhất của sách Sáng Thế Ký giữ một địa vị đặc biệt, với trình bày trang trọng về công trình tạo dựng của Thiên Chúa diễn ra trong bảy ngày: Thiên Chúa hoàn tất việc tạo dựng trong sáu ngày và ngày thứ bảy, ngày Sabath, Ngài ngưng mọi hoạt động và nghỉ ngơi. Đó là ngày tự do cho mọi người, ngày hiệp thông với Thiên Chúa. Và như thế, với hình ảnh này, sách Sáng Thế Ký cho chúng ta biết rằng ý tưởng đầu tiên của Thiên Chúa là tìm một tình yêu biết đáp lại tình yêu của Ngài. Ý tưởng thứ hai sau đó là tạo dựng một thế giới vật chất để đặt tình yêu ấy vào đó, những tạo vật này tự ý đáp trả Ngài. Cho nên, một cấu trúc như thế, làm cho văn bản được nhịp nhàng nhờ một số lần lặp đi lặp lại đáng kể. Thí dụ câu này được lặp lại sáu lần: “Thiên Chúa thấy điều ấy tốt đẹp” (cc. 4.10.12.18.21.25), và cuối cùng, lần thứ bảy, sau khi tạo dựng con người: “Thiên Chúa thấy các việc Ngài đã làm: điều ấy thật rất tốt lành” (câu 31). Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt lành và xinh đẹp, đầy khôn ngoan và tình yêu, hành động sáng tạo của Thiên Chúa mang lại trật tự, hòa hợp và ban cho chúng vẻ đẹp. Như vậy, trong tường thuật Sáng Thế điều nổi bật là việc Chúa tạo dựng bằng Lời của Ngài: bản văn dùng thuật ngữ “Thiên Chúa phán” mười lần (các câu 3.6.9.11.14.20.24.26.28.29). Chính là Lời, Ngôi Lời (Logos) của Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc của thực tại của thế giới và khi nói “Thiên Chúa phán,” thì được như vậy, là nhấn mạnh đến hiệu năng của Lời Chúa. Khi tác giả Thánh Vịnh hát: “Bởi Lời Chúa mà các tầng trời được tạo thành, nhờ hơi thở Ngài mà có muôn tinh tú…. Vì khi Ngài phán, mọi vật được tạo thành, Ngài ra lệnh, thì chúng hiện hữu” (33:6,9). Sự sống nảy sinh, thế giới hiện hữu, bởi vì mọi sự đều vâng nghe Lời Chúa.
Nhưng hôm chúng ta có thể tự hỏi: có còn hợp lý không khi nói về việc tạo dựng trong thời đại khoa học kỹ thuật? Chúng ta nên hiểu các tường thuật của sách Sáng Thế như thế nào? Thánh Kinh không có ý định là một cẩm nang về khoa học tự nhiên, trái lại Thánh Kinh có ý giúp chúng ta hiểu chân lý đích thực và sâu xa của các sự vật. Chân lý cơ bản mà những tường thuật của sách Sáng Thế mặc khải cho chúng ta là thế giới không phải là một tập hợp các quyền lực đối nghịch nhau, nhưng có nguồn gốc và sự ổn định của nó trong Ngôi Lời, trong Lý Trí vĩnh cửu của Thiên Chúa, là Đấng tiếp tục nâng đỡ vũ trụ. Có một kế hoạch cho thế giới phát sinh từ Lý Trí do này, từ Thần Khí Tạo Dựng. Việc tin có kế hoạch này là nền tảng của mọi sự, soi sáng mọi khía cạnh của cuộc đời và cho chúng ta can đảm để đương đầu với cuộc phiêu lưu của cuộc đời trong niềm tin tưởng và hy vọng. Như vậy, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng nguồn gốc của sự vật, của thế giới, nguồn gốc của chúng ta không phải là điều phi lý và điều tất yếu, nhưng là lý trí, tình yêu và tự do. Như thế phải chọn một trong hai: hoặc là ưu tiên của điều phi lý, của điều tất yếu, hoặc ưu tiên của lý trí, tự do và tình yêu. Chúng ta tin vào quan điểm thứ hai này.
Nhưng tôi cũng muốn nói một lời về điều là tột đỉnh của tất cả việc tạo dựng; là người nam và người nữ, con người, loài duy nhất “có khả năng biết và yêu mến Đấng Tạo Hóa của mình” (Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes, 12). Tác giả Thánh Vịnh nhìn bầu trời mà tự hỏi: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (8,4-5). Con người, được Thiên Chúa dựng nên qua tình yêu, là một vật quá nhỏ bé trước sự bao la của vũ trụ; và đôi khi thích thú nhìn lên không trung rộng lớn của bầu trời, chúng ta cũng ý thức được tình trạng hạn chế của mình. Con người chứa đựng sự mâu thuẫn này: sự nhỏ bé và hữu hạn của chúng ta cùng tồn tại với sự cao cả của điều mà tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa đã muốn cho chúng ta.
Những tường thuật về việc tạo dựng, trong sách Sáng Thế, cũng đưa chúng ta vào lãnh vực huyền bí này, giúp chúng ta biết kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Trước hết chúng xác quyết rằng Thiên Chúa đã tạo thành con người từ bụi đất (x. St 2:7). Điều này có nghĩa là chúng ta không phải là Thiên Chúa, chúng ta đã không tự tạo ra mình, chúng ta là đất. Nhưng cũng có nghĩa là chúng ta đến từ đất tốt, bởi hành động của Đấng Tạo Hóa tốt lành. Thêm vào điều này là một thực tại cơ bản khác: tất cả mọi người đều là bụi, vượt ra ngoài sự khác biệt được tạo ra bởi văn hóa và lịch sử, vượt ra ngoài bất kỳ sự khác biệt nào về xã hội; chúng ta là một nhân loại duy nhất được hình thành với một loại đất duy nhất của Thiên Chúa. Rồi còn có một yếu tố thứ hai: con người có nguồn gốc bởi vì Thiên Chúa thở hơi sự sống vào thân xác được nặn ra từ đất (x. St 2:7). Con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1:26-27). Như vậy tất cả chúng ta đều mang trong mình hơi thở sự sống của Thiên Chúa, và Thánh Kinh nói với chúng ta rằng mỗi sự sống của con người đều được đặt dưới sự bảo vệ đặc biệt của Thiên Chúa. Đây là lý do sâu xa nhất cho sự bất khả xâm phạm của nhân phẩm chống lại bất kỳ nỗ lực nào muốn đánh giá con người theo các tiêu chuẩn vị lợi và quyền lực. Là hình ảnh và giống Thiên Chúa có nghĩa là con người không đóng kín nơi chính mình, nhưng tìm thấy điểm quy chiếu thiết yếu của mình nơi Thiên Chúa.
Trong chương đầu của sách Sáng Thế chúng ta tìm thấy hai hình ảnh quan trọng: khu vườn với cây biết lành biết dữ và con rắn (xem 2:15-17; 3,1-5). Khu vườn cho chúng ta biết rằng thực tại mà trong đó Thiên Chúa đã đặt con người vào không phải là một khu rừng hoang vu, nhưng là một nơi được bảo vệ, nuôi dưỡng cùng trông nom, và con người phải nhìn nhận thế giới không như một tài sản để cướp phá và khai thác, nhưng như quà tặng của Đấng Tạo Hóa, một dấu chỉ về ý muốn cứu độ của Ngài, một món quà để canh tác và chăm sóc, để làm cho tăng trưởng và phát triển trong tinh thần tôn trọng và hòa hợp, theo các nhịp điệu và luận lý, theo kế hoạch của Thiên Chúa (x. St 2:8-15). Rồi đến con rắn là một hình ảnh bắt nguồn từ việc thờ cúng thần sinh sản của Đông phương, là điều hấp dẫn với dân Israel và là một cám dỗ không ngừng cho việc từ bỏ giao ước nhiệm mầu với Thiên Chúa. Trong ánh sáng này, Thánh Kinh trình bày cám dỗ mà ông Ađam và bà Evà đã trải qua như điều nòng cốt của cám dỗ và tội lỗi. Thực ra con rắn nói gì? Nó không phủ nhận Thiên Chúa, nhưng đưa ra một câu hỏi xảo quyệt: “Có thật Thiên Chúa đã phán: ‘Các ngươi không được ăn bất kỳ cây nào trong vườn’ không?” (St 3:1). Bằng cách này, con rắn gây ra sự nghi ngờ rằng giao ước với Thiên Chúa như một dây xích trói buộc con người, làm cho họ mất tự do cùng điều tốt đẹp và quý giá nhất trong đời sống. Cám dỗ ấy trở thành một cám dỗ xây dựng một thế giới riêng để họ sống trong đó, không chấp nhận những giới hạn của việc là một tạo vật, những giới hạn của thiện và ác, của luân lý; việc lệ thuộc vào tình yêu của Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa bị coi như một gánh nặng cần phải trút bỏ. Điều này luôn luôn là bản chất của cám dỗ. Nhưng khi người ta uốn cong mối liên hệ với Thiên Chúa bằng một lời nói dối, đặt mình vào địa vị của Ngài, tất cả những liên hệ khác bị thay đổi. Khi ấy người khác trở thành một đối thủ, một mối đe dọa: Ông Adam, một khi đã ngã gục trước cơn cám dỗ, lập tức đổ lỗi cho bà Evà (x. St 3:12); cả hai trốn tránh cái nhìn của Thiên Chúa là Đấng họ thường trò chuyện như bằng hữu (x. 3:8-10); thế giới không còn là khu vườn để sống hòa hợp, nhưng là một nơi để khai thác, trong đó tàng ẩn những cạm bẫy (x. 3:14-19); ghen tương và hận thù nhau nhập vào lòng con người: như trường hợp Cain giết Abel là em mình (x. 4:3-9). Thực ra, khi chống lại Đấng Tạo Hóa của mình, con người chống lại chính mình, phủ nhận nguồn gốc của mình và do đó phủ nhận chân lý về mình, và sự dữ nhập vào thế gian, với xiềng xích của đau khổ và cái chết. Như thế, những gì Thiên Chúa đã tạo dựng thì tốt lành, thực ra, rất tốt; sau quyết định tự do này của con người vì nghe theo một lời nói dối và chống lại sự thật, sự dữ nhập vào thế gian.
Trong những tường thuật tạo dựng, tôi muốn nhấn mạnh đến một giáo huấn cuối cùng: tội lỗi sinh sản ra tội lỗi và tất cả tội lỗi của lịch sử đều nối kết với nhau. Khía cạnh này dẫn chúng ta đến việc nói về điều được gọi là “tội nguyên tổ”. Ý nghĩa của thực tại rất khó hiểu này là gì? Tôi chỉ muốn đưa ra một số yếu tố. Trước hết chúng ta phải kể rằng không có người nào bị đóng kín trong chính mình, không ai có thể chỉ sống một mình và cho mình; chúng ta nhận được sự sống từ người khác, không phải chỉ lúc mới sinh, nhưng mỗi ngày. Là con người là sống trong mối liên hệ: Tôi chỉ là chính mình trong bạn và qua bạn, trong một liên hệ tình yêu với Chúa của Thiên Chúa và bạn của những người khác. Vâng, tội lỗi là làm đảo lộn hay tiêu hủy mối liên hệ với Thiên Chúa, đây là bản chất của nó: tiêu hủy mối liên hệ với Thiên Chúa, mối liên hệ cơ bản, tự đặt mình vào địa vị của Thiên Chúa. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nói rằng với tội đầu tiên, con người “chọn chính mình thay vì Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa, chống lại những đòi hỏi của tình trạng tạo vật của mình và do đó chống lại cả sự tốt lành cho chính mình” (số 398). Khi mối liên hệ cơ bản bị đảo lộn, thì tất cả các trục liên hệ khác bị tổn thương hoặc bị hủy diệt, tội lỗi làm hỏng những mối liên hệ, thì cũng làm hỏng tất cả, bởi vì chúng ta là những sinh vật có liên hệ với nhau. Giờ đây, nếu cấu trúc về liên hệ của nhân loại bị đảo lôn ngay từ đầu, mọi người bước vào một thế giới được đánh dấu bởi sự đảo lộn này của mối liên hệ ấy, họ bước vào một thế giới bị đảo lộn bởi tội lỗi, và họ bị đánh dấu cách cá nhân; tội đầu tiên tấn công và làm tổn thương bản tính con người (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 404-406). Và một mình con người không có thể tự giải thoát mình khỏi tình trạng này, không ai có tự chuộc tội mình; chỉ một mình Đấng Tạo Hóa mới có thể phục hồi những liên hệ đúng đắn. Chỉ khi nào Đấng, mà chúng ta đã bỏ mà đi lạc đường, đến cùng chúng ta và đưa tay yêu thương dắt tay chúng ta, thì những mối liên hệ chính đáng có thể được tái lập. Điều này được thể hiện trong Đức Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đi theo một hướng hoàn toàn trái ngược với ông Ađam, như được mô tả trong bài thánh thi ở chương 2 của Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu thành Philipphê (2:5-11): trong khi Ađam không nhìn nhận thân phận tạo vật của mình và muốn đặt mình vào địa vị Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sống trong mối liên hệ con thảo hoàn hảo với Chúa Cha, Người tự hạ mình xuống, Người trở thành đầy tớ, đi con đường tự hạ cho đến chết trên thập giá, để xắp đặt lại cho có thứ tự những liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Thập giá của Đức Kitô trở thành Cây mới của Sự Sống.
Anh chị em thân mến, sống bằng đức tin là nhìn nhận sự cao cả của Thiên Chúa và chấp nhận sự bé nhỏ của mình và tình trạng tạo vật của mình, để Chúa đổ đầy nó bằng tình yêu của Ngài, và như thế cho phép sự vĩ đại thật của chúng ta được phát triển. Sự dữ, với gánh nặng đau thương và sầu khổ của nó, là một mầu nhiệm được chiếu soi bởi ánh sáng đức tin, cho chúng ta sự chắc chắn có thể được giải thoát: sự chắc chắn rằng làm một người là điều tốt.