- Bạn có từng là thành viên của một tổ chức nào đã dùng một huy hiệu hay biểu tượng để đại diện cho tổ chức của mình không? Khi bạn nhận ra huy hiệu này, hay khi bạn được người khác nhận ra mình là ai qua huy hiệu này, cảm giác của bạn như thế nào? Biểu tượng của tổ chức có phản ảnh và đáp ứng nhu cầu của tổ chức đó không?
- Chọn một điểm nào đó trong kinh Tin Kính mà bạn đặc biệt muốn truyền lại cho thế hệ sau, hay để giới thiệu cho một người mới bắt đầu tìm hiểu đạo? Tại sao bạn chọn điểm đó?
- Theo ý kiến bạn, đâu là chướng ngại lớn nhất của đức tin Kitô Hữu hôm nay?
BÀI SUY NIỆM
Vị linh mục xúc một xẻng đất đổ vào huyệt mộ, nơi người ta mới vừa hạ chiếc quan tài của người bạn thân nhất của ngài. Vị linh mục vừa chủ sự nghi thức an táng, rất trang nghiêm và ấm cúng, nhưng tất cả đã xong. Ngài nhìn vào lỗ trống của huyệt mộ trên mặt đất và nhủ thầm: nếu những gì chúng ta tin không phải là sự thật thì tất cả trên đời chỉ là trống rỗng. “Nhất định là phải có một lúc nào đó trong cuộc sống, bạn tự hỏi lòng mình: tôi có thực sự tin không?” Một người mẹ trẻ tâm sự giữa những tan nát mà bà đang gánh chịu: con gái tuổi dậy thì của bà đang ở giai đoạn cuối của chứng bệnh ung thư chết người. “Dĩ nhiên tôi muốn hoàn cảnh và số phận của con gái tôi khác đi; nhưng nếu tôi thật sự tin vào một Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, và cũng đã hứa ban sự sống vĩnh cữu cho chúng ta, tôi phải tin cậy rằng mọi sự đều sẽ tốt đẹp cho con gái tôi, và mọi sự cũng sẽ tốt đẹp cho tất cả chúng ta.” Người mẹ này là ví dụ của biết bao nhiêu người phải vật lộn với ý nghĩa của câu nói: “tôi tin”. Tuyên xưng đức tin của Giáo hội không phải là vấn đề hời hợt. Tuyên xưng đức tin có nghĩa là giữa thực trạng của con người như nghi ngờ, sợ hãi, rối loạn và bất lực, người đó vẫn quyết định đứng vững, vẫn quyết định bám trụ. Câu nói “tôi tin” không phải là câu nói vô tư. Nó là “thả neo” đức tin giữa những sóng gió cuộc đời.
Kinh Tin Kính tóm tắt lại kho tàng đức tin mà chúng ta nắm giữ và muốn truyền bá lại cho người khác là những thành viên của Giáo hội. Ba phần đầu của kinh Tin Kính dành để nói về Thiên Chúa Ba Ngôi. Phần thứ tư nói về Giáo hội. Về thời gian, kinh Tin Kính trải dài từ thời tạo dựng lúc ban đầu cho tới thời đại cuối cùng lúc xảy ra sự phán xét. Kinh Tin Kính nói đến tất cả mọi vấn đề trong lịch sử ơn cứu độ, và tất cả thời gian từ khởi đầu đến tận cùng được đưa vào một cái nhìn tổng quát. Cái chết và phục sinh của Đức Giêsu, hay còn được gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Ngài, chính là trung tâm điểm của câu chuyện kinh Tin Kính kể lại. Đó là câu chuyện của hết mọi người chúng ta.
Đức Tin và Phép Rửa Tội
Có một mối liên hệ mật thiết giữa đức tin và phép Rửa Tội. Các em nhỏ nhận Bí tích Rửa Tội dựa trên đức tin của bố mẹ và người đỡ đầu. Đối với những người đã trưởng thành hay trẻ em đã đủ tuổi hiểu biết, họ phải tuyên xưng đức tin của chính mình. Kinh Tin Kính dựa trên những lời tuyên xưng đức tin và lời hứa này. Trong nghi thức gia nhập Giáo hội của dự tòng (Rite of Christian Initiation of Adults), kinh Tin Kính được trao cho các dự tòng một cách long trọng vào Chúa nhật tuần thứ ba Mùa Chay để họ có thể học thuộc, và trong ngày Thứ Bảy Tuần Thánh có thể tự mình tuyên xưng. Đây được gọi là nghi thức traditio (truyền thống), vì chúng ta trao lại cho dự tòng truyền thống của đức tin chúng ta.
Các Kitô Hữu tiên khởi gọi kinh Tin Kính là biểu tượng của đức tin (symbolum). Mặc dù không rõ nguồn gốc của chữ này, nhưng một điều chắc chắn là kinh Tin Kính vào thời đó được xem như là lời cam kết rõ ràng vững chắc nhất của người Kitô Hữu. Học giả Rufinus của thế kỷ thứ IV cho biết Kitô Hữu thời đó dùng kinh Tin Kính như là mật khẩu để nhận biết nhau:
“Được biết là trong các cuộc nội chiến, bởi vì vũ khí của hai bên nhìn tương tự nhau, hai bên có cùng ngôn ngữ, cùng tập tục và thói quen ứng xử trong chiến đấu, người chỉ huy phải ấn định một huy hiệu hay mật khẩu đặc trưng nào đó (tiếng Latin là signum hay indicium), để khi đối diện nhau mà có một sự ngờ vực không biết người kia thuộc phe nào, họ dùng huy hiệu hay mật khẩu này để nhận diện bạn hay thù. Và với nguyên do này, truyền thống được tiếp tục, mặc dù lời kinh Tin Kính không viết xuống trên giấy nhưng nó vẫn được khắc vào con tim của các tín hữu …” (Rufinus, Commentary on the Apostles’ Creed). Kinh Tin Kính hôm nay vẫn là biểu tượng của tình liên đới giữa mọi người trong Phép Rửa Tội. Nó diễn tả đức tin đã liên kết chúng ta lại với nhau. Mặc dù chúng ta hôm nay viết kinh này xuống giấy (và không còn dùng như là mật khẩu thời xưa), lời giải thích của Rufinus và những gương sống của những Kitô Hữu tiên khởi thách thức chúng ta ôm ấp trong trái tim những lời tuyên xưng trong kinh Tin Kính.
Kinh Tin Kính trong Thánh Lễ
Kinh Tin Kính phải trải qua bao nhiêu trăm năm mới có được vị trí trong Thánh Lễ như ngày hôm nay. Thánh Timotheo, giáo phụ thành Constantino (511-517) là người đầu tiên ra sắc chỉ đọc kinh Tin Kính trong Thánh Lễ. Vào công đồng Toledo năm 589, Giáo hội Tây Phương (La Mã) đã đi tiếp thu truyền thống này của Giáo hội Đông Phương. Cả hai giáo hội dùng kinh Tin Kính như phương cách bảo vệ các Tín hữu khỏi những lạc giáo và những suy niệm thần học sai lầm. Vào thời vua Charlemagne năm 794, kinh Tin Kính được chuyển vào vị trí ngay sau Phúc Âm (và bài giảng) thay vì sau Lời Nguyện Giáo Dân. Giáo hội La Mã chính thức kết hợp kinh Tin Kính vào Phụng vụ Thánh Lễ vào năm 1014. Ngày nay, chúng ta tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính vào Thánh Lễ Chúa Nhật hay các ngày lễ trọng. Có thể dùng hoặc Kinh Tin Kính theo truyền thống Niceno-Constantinopolitan, hay theo truyền thống Tông Đồ (Apostles’ Creed). Kinh Tin Kính là một chứng từ đức tin mà chúng ta cùng tuyên xưng với nhau trước mặt Thiên Chúa. Qua kinh này, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa, một mầu nhiệm của Ba Ngôi nhưng một Chúa, đã được mạc khải cho chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng những việc kỳ diệu và táo bạo Chúa đã làm để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Lời kinh tăng sức cho căn tính và niềm hy vọng, để chúng ta có thể nhận ra kỳ công của Chúa. Kinh Tin Kính được đặt ở vị trí hiện nay trong Thánh Lễ như là một lời đáp lại những gì người tín hữu vừa đón nhận qua Phụng Vụ Lời Chúa. Khi lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc và bài giảng, tâm hồn chúng ta được đánh động, và như lời đáp trả, chúng ta xác tín những sự thật được mạc khải qua Lời Chúa bằng chính lời tuyên xưng đức tin của chúng ta. Chúng ta cũng hướng nhìn về phía trước và trông đợi những kỳ công Chúa sẽ làm trong tương lai. Với tất cả nỗi niềm đó, chúng ta cùng tuyên xưng: Tôi tin!
Tuyên xưng niềm tin, cảm nhận sự hoài nghi
Chúng ta có thật sự tin không? Người tin đôi khi cũng hoài nghi, đó là chuyện bình tường, nhất là khi họ trải qua những biến chuyển lớn trong cuộc đời. Đôi khi, niềm tin của chúng ta suy yếu dần, không còn vững chãi nữa bởi vì chúng ta ngoảnh mặt đi với Chúa. Đôi khi, chúng ta cần phải sám hối và bắt đầu đổi mới. Nhưng cũng có đôi khi những hoài nghi đóng vai trò báo hiệu cho chúng ta biết những bất an trong nội tâm với những thói quen cũ hay nhưng cách suy nghĩ sáo mòn nào đó. Hoài nghi đôi khi cũng có nghĩa là chúng ta đang đi tìm kiếm Chúa ở mức độ sâu xa hơn, và muốn xây dựng một tình yêu đậm đà hơn đối với Ngài. Đây là một hành trình mà chính Chúa đã đánh động và bảo dưỡng bằng cả sự kiên nhẫn và hiểu biết của Ngài. Mặc dù kinh Tin Kính là một kinh cổ truyền, chúng ta cần phải thực hành những điều trong kinh đó trong cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Có thể chúng ta vẫn còn có những hoài nghi trong lòng, nhưng việc chúng ta cùng tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính trong Thánh Lễ là cách mở cõi lòng của mình ra để mời Chúa Thánh Thần bước vào và hoạt động. Ngài là Đấng canh tân tất cả mọi sự.
Trong Phúc Âm theo thánh Marcô, có câu chuyện một cậu bé bị chứng kinh phong. Cha của cậu đem cậu đến với các Môn đệ Chúa Giêsu, nhưng họ không thể chữa lành cho cậu bé được. Cuối cùng, người cha nhờ đến chính Chúa Giêsu. Phải nói là đến lúc cùng quẫn này, ông ta cũng không biết phải tin tưởng ai có thể giúp con ông nữa, kể cả ông Giêsu. Khi Chúa Giêsu nhắc nhở ông về lòng tin yếu kém của mình, ông đã thốt lên: “Con tin, xin giúp lòng tin yếu kém của con” (Mc 9:24).
Đôi khi chúng ta cũng được mời gọi nói lên niềm tin của mình trong những khốn khó của cuộc sống, giống như trường hợp của người cha trong chuyện này, chúng ta như chẳng biết phải tin vào cái gì nữa. Nhưng chúng ta vẫn hết mình tuyên xưng niềm tin, trong cậy rằng Chúa sẽ bồi lấp những khiếm khuyết trong niềm tin của mình. Tuyên xưng niềm tin của Hội Thánh trong Thánh Lễ Chúa Nhật là cách thức nhắc nhở chính mình rằng: chúng ta không đơn độc trong đời sống đức tin và trong những khó khăn của cuộc sống. Chúng ta thuộc về một cộng đoàn những kẻ tin, và niềm tin này đã ôm ấp nâng đỡ chúng ta ngay trong những lúc chúng ta yếu đuối.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
- Ý tưởng nào nổi bật trong bài vừa rồi đối với bạn? Phản hồi của bạn ra sao?
- Người cha trong câu chuyện thốt lên, “xin giúp lòng tin yếu kém của con”, đã được Chúa ban cho hồng ân là con ông được chữa lành. Mặc dù Thánh Kinh không đề cập đến, nhưng bạn có nghĩ là lòng tin của ông ta tăng lên sau lần gặp gỡ với Đức Giêsu không?
- Sống trong một cộng đoàn những người có lòng tin có thể giúp bạn bảo tồn niềm tin của chính mình như thế nào? Cho ví dụ.
- Rufinus đề cập đến Kinh Tin Kính như một kho tàng quý giá được “trân quý trong tâm khảm của những tín hữu.” Bạn có cảm thấy điều này trong đời sống tín hữu của chính mình không? Tại sao?
LECTIO DIVINA
Luca 13:6-9